Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.39 KB, 25 trang )

Vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống người Việt
Mục lục
A. MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
1. Đặt vấn đề..............................................................................................................2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................3
3 Phương pháp nghiên cứu........................................................................................3
B. NỘI DUNG...........................................................................................................3
Chương 1: Sự ra đời của phật giáo và những tư tưởng triết học của phật giáo.........3
1.1. Sự ra đời của Phật giáo...................................................................................3
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo...............................................................3
1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca.......................................4
1.1.3. Sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam......................................................5
1.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo..............................................5
1.2.1. Quan Điểm của Phật Giáo về thế giới.....................................................6
1.2.2 Tư tưởng Phật Giáo về nhân sinh quan....................................................7
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của Việt Nam.......9
2.1. Ảnh hưởng của Phật Giáo về mặt tư tưởng và đạo lý........................................9
2.2.1.Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng...................................................9
2.1.2 Ảnh hưởng của Phật Giáo về đạo lý...........................................................10
2.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua q trình hội nhập văn hóa Việt Nam.....................11
2.2.1 Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống,
các tơn giáo khác và các thế hệ chính trị xã hội..................................................11
2.2.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán..........................................12


2.2.3 Ảnh hưởng của Phật Giáo qua các loại hình văn hóa nghệ thuật...............14
2.3. Đánh giá............................................................................................................15
2.3.1. Ảnh hưởng tích cực...................................................................................15
2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo ở Việt Nam:........................................19
Chương 3: Giải pháp phát huy tính tích cực cũng như hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay....................................................................20


KẾT LUẬN.............................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................24

A. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ước muốn về một cuộc sống hạnh phúc đó là ước muốn từ muôn đời nay
không của chỉ riêng ai. Phật Giáo chứa một triết lí nhân sinh cao cả với ước muốn
là cứu con người khỏi nỗi khổ mn đời, với cứu cánh là giải thốt, khơng phải
bằng sự ban bố nhân đức mà ở chỗ con người có hạnh phúc hay khơng là chính ở
cuộc sống đức độ của con người, có như vậy con người mới có thể đạt đến cái
“Chân- Thiện - Mỹ” và nhập vào thế giới niếp bàn. Ta thấy rằng đạo Phật đã du
nhập vào Việt Nam từ những kỉ nguyên tây lịch, rồi tồn tại phát triển và chan hòa
với dân tộc cho đến tận hôm nay. Nếu thời gian là thước đo của chân lí thì với bề
dày lịch sử đó đạo Phật đã khẳng định những giá trị của nó trên mảnh đất này. Vì


vậy tìm hiểu triết học Phật Giáo giúp con người biết hiểu hơn về một trường phái
triết học lớn, về truyền thống văn hóa mà tổ tiên đã để lại
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học Phật Giáo,
ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt Nam. Phạm vi
ngiên cứu: chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của Phật Giáo và ảnh hưởng của
Phật Giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt Nam
3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cúu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các phương
pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là logic
phân tích, tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn để thực hiện đề tài.

B. NỘI DUNG
Chương 1: Sự ra đời của phật giáo và những tư tưởng triết học của phật giáo

1.1. Sự ra đời của Phật giáo
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ rất phức tạp, địa hình đa dạng, khắc nghiệt
của tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu
ấn đậm nét lên tâm trí người dân Ấn Độ cổ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội rất sớm, khoảng thế kỉ thứ XXV trước
công nguyên đã xuất hiện nền văn minh đầu tiên là nền văn minh sông Ấn. Đến thế
kỉ thứ XV trước cơng ngun , có sự xâm nhập của người Arya vào khu vực của
người bản địa (người Dravida) hình thành nên các quốc gia Ấn Độ tạo nên nền văn
hóa mới gọi là nền văn hóa Véda.


Đặc diểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ là sự tồn tại rất sớm và
kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mơ hình “cơng xã nơng thơn”, đặc trưng của
kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của các Đế Vương, mà
gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong cơng xã. Xã hội thời kì này
được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: Tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nơ lệ
cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó là cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay
gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu
tranh ấy nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật Giáo.
Phật Giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-LaMơn và
chế độ đẳng cấp. Phật Giáo lí giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thóat cho
con người khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại
sự ngự trị của đạo Bà-La-Mơn, đặt biệt là chống lại quan điểm của kinh Véda, nên
Phật Giáo được xem là dịng triết học khơng chính thống. Đức Phật xuất hiện như
một mặt trời sưởi ấm: buổi ban mai làm tan đi bóng đen dày đặc đã từ lâu che phủ
cuộc đời. Ngài không chỉ là vị cứu tinh cho xứ Ấn Độ thời bấy giờ, mà còn là
người vạch ra hướng đi mới cho nhân loại.
1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Người sáng lập ra Phật Giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tât Đạt Đa

(Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa sinh ngày
15 tháng 4 năm 563 trước CN, là Thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ nằm ở
Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan).
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi Đế Vương, vợ đẹp
con ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự
bất lực của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ơng quyết định từ
bỏ con đường Vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năm tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt
Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra
con đường giải thốt nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó Người đã đi khắp nơi để


truyền bá tư tưởng của mình và ơng đã trở thành người sáng lập ra tôn gáo mới là
Đạo Phật. Về sau ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: Đức Phật,
Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt Giáo lí khắp nước Ấn Độ. Năm
ơng 80 tuổi thì qua đời, ông để lại cho nhân lọai những tư tưởng triết học Phật Giáo
vô cùng quý báu.
1.1.3. Sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam
Việc xá định niên đại Phật Giáo du nhập vào Việt Nam cho đến nay vẫn
chưa có đủ tư liệu đề biết chính xác. Sử liệu chỉ nói đến tình hình Phật Giáo nước
ta từ thế kỉ thứ II sau công nguyên, lúc bấy giờ trung tâm Phật Giáo ở Luy Lâu
( vùng Dâu-Thuận Thành- Hà Bắc) đã khá thịnh đạt. Điều đó khiến ta có thể suy
đốn rằng Phật Giáo từ phía Nam Ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khỏang thế
kí thứ I sau công nguyên. Các vị sư đầu tiên là người Ấn Độ, nhưng về sau lại thấy
xuất hiện tên hiệu vị sư Trung Á và Trung Hoa. Có thể nói rằng, ngay từ thời rất
xưa Việt nam đã đựơc cao tăng Ấn Độ đến để truyền Giáo trực tiếp. Trải qua các
triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần… Đặc biệt là dưới 2 triều đại Lý và Trần, Phật Giáo
đã để lại dấu ấn một thời vàng son. Từ thế kỉ thứ XIII tuy Phật Giáo khơng cịn là
quốc Giáo nhưng có sự kết hợp hài hịa với tinh thần “Tam Đạo Đồng Đường” đã
tạo cho Phật Giáo một nét mới, vẫn để lại nhiều dấu ấn trong tâm hồn, tình cảm,

phong tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam.
1.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “ Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.


1.2.1. Quan Điểm của Phật Giáo về thế giới
Quan Quan điểm về thế giới quan của Phật Giáo Được thể hiện tập trung ở
nội dung của 3 cặp phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên.
1.2.1.1. Vô ngã
Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần
nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa 2 yếu tố: “Sắc” và “Danh”.
Sắc: Là yếu tố vật chất, là cái thể cảm giác được. Cịn “Danh”. Là yếu tố
tinh thần, khơng có hình chất mà chỉ có có tên gọi. Chính cái “Danh” và “Sắc” đó
hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ Uẩn”: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), Tưởng (ấn
tượng), Hành (suy lý) và thức (ý thức). “Danh” và “Sắc” tác dộng qua lại tạo nên
vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời, khơng có sự
vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó cũng khơng có cái gọi là “Tơi”.
1.2.1.2 Vô thường
Nghĩa là vạn vật biến đổi cùng theo chu trình bất tận: Sinh-Trụ-DịDiệt. Vậy
thì “có có” – “khơng khơng” ln hồi bất tận, “thống có” - “thống khơng”, cái
cịn mà chẳng còn cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy, “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, đều là
vơ thường”. Vì vậy vơ thường nghĩa là không thường, không mãi ở yên trong một
trạng thái nhất định, ln ln thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến
biến dị rồi tan rã.
Vơ thường của Đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài
trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết

tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ thân tâm cho đến
hoàn cảnh. Hiệu lý vô thường, con người dễ giữ được bình tĩnh, thản nhiên trước
cảnh đổi thay bất ngờ.
1.2.1.3. Duyên
Là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.


Phật Giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến
cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện
giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành
nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà
tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật Nhân-Quả:
nhân là cái mầm, Qủa là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai
trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu khơng có nhân thì khơng thể
có quả, nếu hkơng có quả thì khơng thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy. Nói
cách khác nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hể nhân đổi thì quả
đổi.
Một nhân khơng sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của
nhiều nhân dun. Cho nên khơng có nhân nào tự tạo thành quả được nếu khơng có
sự giúp đỡ của nhiều nhân khác, trong nhân có quả, trong quả có nhân. Một sự vật
mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi, ước
muốn. Mỗi vật vì thế điều có thể gọi là nhân hay là quả đều được cả. Đối với q
khứ thì nó là quả, đối với tương lai thì nó là nhân.
Sự biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao
giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất.
Tóm lại: Triết học Phật Giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần thánh
sáng tạo ra con người và vũ trụ. Phật Giáo thừa nhận con người và sự vật được cấu
thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới trong sự biến đổi
không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất
phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng

1.2.2 Tư tưởng Phật Giáo về nhân sinh quan
Quan điểm về nhân sinh quan của Phật Giáo bao gồm “Nghiệp”, thuyết “Tứ
Diệu Đế” và “Ngũ giới”.
1.2.2.1 Nghiệp báo


Là một định luật nhân quả trong vấn đề luân lý, hay như người phương tây
thường nói là “ảnh hưởng của hành động”. Phật Giáo khơng nhìn nhận có một linh
hồn trường cữu được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc đốn. Phật Giáo tin có
định luật và cơng lý thiên nhiên, không phải do một đấng thượng đế toàn năng hay
một Đức Phật đại từ đại bi tạo nên.
Theo lý nghiệp báo, chúng ta khơng nhất định trói buộc trong một hồn
cảnh nào, vì nghiệp báo khơng phải là số mạng cũng không phải là tiền định do
một oai lực huyền bí nào đó định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chúng ta có
đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn.
Nghiệp không nhất thiết phải là hành động trong quá khứ mà thôi. Nghiệp
bao chùm qúa khứ và hiện tại là nơi trong quá khứ chúng ta hành động như thế nào
và trong tương lai chúng ta sẽ là như thế nào cũng tùy nơi hành động chúng ta
trong hiện tại.
Tóm lại: tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi biến đổi của tâm lực và luôn
luôn sẵn sàng phát hiện trong mn ngàn hiện tượng mỗi khi có cơ hội. Nghiệp là
năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp thủ một vai trò
quan trọng trong việc cấu tạo tâm tính con người, nghiệp giải thích những hiện
tượng mà ta gọi là vĩ nhân, thiên tài, thần đồng.
1.2.2.2 Thuyết tứ Diệu đế
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật Giáo thể hiện trong “Tứ Diệu Đế” được
Phật Giáo coi là 4 chân lý vĩ đại. Thông điệp tứ diệu đế được xem là một giải trình
mà ở đó bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động, do đó con đường tu tập tứ đế
khơng thể xét qua góc độ nhận thức mà vấn đề là mơ thức biện chứng của nó.
Đức Phật trong q trình đi tìm con đương giải thóat, những kinh nghiệm

khổ đau của bản thân đã trải qua là những kinh nghiệm sâu sắc. Do đó thuyết tứ
diệu đế được xem như một quá trình biện chứng thực tại ngay đời sống của người
và cái đỉnh cao tận cùng ấy được Đức Phật giảng giải qua dạng của tứ đế trên cơ sở


tương quan nhân quả, đây chính là bằng chứng thực tại mà Đức Phật đã đi qua. Vì
thế nó khơng phải là mẫu thức lý tưởng, cũng không phải là bản sao chép từ những
ý nịêm.
Tứ Diệu Đế được Đức Phật giải minh thông qua bốn tiền đề triết học cơ bản:
Tri ân thực tại, sự chuyển hướng tư duy, sự chuyển hướng 2 chiều, giải trình tư
duy.
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của Việt Nam
2.1. Ảnh hưởng của Phật Giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
2.2.1.Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng
Về tư tưởng Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên
Khởi, Tứ Diệu, Đế và Bát Chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng các tông phái Phật
Giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt. Về
Giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo đã được truyền vào nước ta rất sớm,
giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống hết sức sáng tỏ đối với người Việt
Nam có hiểu biết, cớ suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu
thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích
hợp với giới bình dân mà cịn ảnh hưởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người
dân Việt Nam đều ảnh hưởng ít nhiều qua Giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân
hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn họ chữ nơm, chữ hán,
từ xưa cho đến đã dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mịnh vào lý
nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hịa bình an vui cho
con người. Mỗi người dân Việt đều tự nhiên biết câu: “ác giả ác báo”. Họ phát biểu
câu rất đúng hòan cảnh sự việc xảy ra cho đối phương, hay “chạy trời không khỏi
nắng”, mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải định nghiệp, có thể làm thay
đổi, do đó họ tự biết sửa chứa, tu tập cải ác tùng thiện. Ta không nên ngồi một chỗ

tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mình, từ những hành nghiệp


thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống
yên cho hiện tại và mai sau.
2.1.2 Ảnh hưởng của Phật Giáo về đạo lý
Phật Giáo có ảnh hưởng tích cực để tô thêm vết son vàng đậm nét cho truyền
thống nhân nghĩa Việt Nam. Đạo lý ảnh hưởng nhất là Giáo lý từ bi, tinh thần hiếu
hòa, hiếu sinh của Phật Giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần trong tâm hồn người
Việt. Điều này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyên Trãi (1380-1442),
một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông dã vận dụng đạo
lý từ bi và biến nó thành đường lối chính trị, đem lại thành cơng nổi tiếng trong
lịch sử Nước Việt. Ơng nói điều đó trong Bình Ngơ Đại Cáo rằng
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
Cho nên khi thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta không
những khơng giết hại mà cịn cấp thuyền bè lương thực để họ về nước.
“Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh”
Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục
ngữ rất phổ biến trong quàn chúng Việt Nam như “Lá lành đùm lá rách”, hay
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng đều
thấm nhuần và thuộc nằm lịng, nói lên lịng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với sự phát triển
của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân
đến, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ



xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nứơc và mở rộng đến quê hương cao
cả đối với cuộc sống của nhân lọai trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta
thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hương rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của
người Việt. Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với
nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng
thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân, chúng sanh, vũ trụ,
đó là mơi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân cịn
có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa với xã
hội, với thiên nhiên để tiến tới hạnh phúc chân thực và miên trường. Từ cơ sở tư
tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo Việt Nam hình thành được bản
sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam góp phần làm phong phú và đa dạng
nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua q trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Phật pháp là bất định pháp, luôn luôn uyển chuyển theo hòan cảnh và căn cơ
của chúng sanh để hịan thành sứ mạng cứu khổ của mình. Với tinh thần nhập thế
tùy duyên bất biến mà đạo Phật đã tạo cho mình một sức sống vơ biên, vượt qua
những ngăn cách của địa lý, văn hóa, tơn Giáo, ý thức hệ, thời gian, không gian….
Tinh thần tùy duyên là tự thay đổi với hịan cảnh để có thể tiếp độ chúng sanh, tính
bất biến làa giải thóat ra khỏi mọi đau khổ, sinh tử luôn hồi. Tuy nhiên Phật Giáo
vẫn ln ln hịa nhập với tất cả các truyền thống văn hóa tín ngưỡng của các
nước trên thế giới.
2.2.1 Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống, các tơn giáo khác và các thế hệ chính trị xã hội
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa với các tín ngưỡng truyền thống:
khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản
địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Lối kiến trúc của chùa



chiền của Việt Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần,
các vị thánh, các vị thành Phật Giáo Việt Nam dung nạp dễ dàng các tín ngưỡng đa
thần của bản địa trong khi các quốc gia trong vùng thì khơng có và tinh thần dung
hịa và khai phóng Phật Giáo Việt Nam là một trong những nét đặc trưng đáng chú
ý.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa với các tơn giáo khác: đó là kết quả
của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với Đạo Nho va Đạo Lão, được các nhà
vua thời Lý cơgn khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính dung hịa và đều hợp
này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt.
Nó chẳng phải Phật Giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà nó
là tất cả những khuynh hướng tam linh của người Việt, đó là thực tại Tam Vi Nhất
của tinh thần tam Giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam Giáo tổ sư với
Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phải đã in sâu vào tâm
thức của người dân Việt
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa với các thế hệ chính trị xă hội: Phật
Giáo tuy là một tôn Giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có chủ trương nhập
thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, Lư, Trần.
Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều được mời tham
gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của quốc gia. ta thấy
có nhiều lý do khiến các thần sư Việt Nam tham gia vào chính sự, thứ nhất: họ là
những người có học, có ư thức về quốc gia, sống gần gũi nên thấu hiểu được nỗi
đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang. Thứ hai: các thiên sư
khơng có ư tranh ngơi vị ngồi đời nên đựoc các vua tin tưởng và thứ ba: các thiên
sư không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp vua mà thơi) như các nho
gia nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua nào đem lại hạnh phúc cho dân chúng.
2.2.2 Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán
- Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục ăn chay, phóng sanh, bố thí:



Về ăn chay, hầu như đông đảo người Việt Nam từ xưa đến nay đều chịu ảnh
hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạc xuất phát từ qua niệm từ bi của
Phật Giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi
lồi. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau trong từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở
quan điểm Từ Bi, Hỉ Xả của Đạo Phật. Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau
của người Việt Nam.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu
đời. Tục này xuất phát từ ḷịng hiếu kính đối với ơng bà, cha mẹ, tổ tiên. Tín
ngưỡng này được một số bình dân nhập làm một với Đạo Phật, Phật Giáo có nhiều
kinh đề cập đến vấn đề này như: Kinh Vu Lan, kinh Báo Phụ Mẫu Ân... Vào những
ngày rằm, mồng một, những gia đđ́ ình khơng theo đạo Phật cũng mua hoa quả, thắp
nhang trên bàn thờ tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật tục lệ bố thí và phóng sanh đã
ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nhân lao động. Người dân thích làm
phước bố thí và săn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn thể hiện đạo lư của dân
tộc lá lành đùm lá rách.
- Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa:
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn, chiêm ngưỡng vẽ đẹp thanh
thoát của các pho tượng, lắng nghe tiếng chuông ngân vang, đã trở thành một nét
phong tục lâu đời "đi chùa lễ Phật" của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong năm từ
Phật Giáo như: lễ Phật Đãn, lễ Vu Lan, lễ tắm Phật, thật sự đã trở thành ngày hội
văn hóa của người dân Việt. Điều này phù hợp với nét sinh hoạt cộng đồng, một
sinh hoạt truyền thống.
Đặc biệt đối với đồng bào Khơ-me Nam Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Phật Giáo Nam tơng, có những lễ dân tộc mang đậm nét tưởng Phật Giáo như: lễ
mừng năm mới (Chol-ch-nam-thơ-mây); lễ cúng tổ tiên (Donta); lễ cúng trăng


(Okcombok) ...đã trở thành những ngày hội vô cùng sôi nỗi và đặc sắc của đồng
bào Khơ-me.

Những ngày đại lễ Phật Giáo vừa nêu trên đă là chất keo gắn bó người dân
Việt, nâng cao tình u thương đồng loại và nảy nở ḷịng hy sinh, tính vị tha, củng
cố ḷịng hiếu kính với ơng bà, cha mẹ. Ảnh hưởng đó ngày càng sâu rộng trong
quân chúng nhân dân.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đă chịu
nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. nhất là từ Trung Quốc. Trong đó
Phật Giáo dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì khơng ít các tập tục
dân gian mà chúng ta thấy vẫn cọọ̀ n tồn tại cho tới ngày nay
2.2.3 Ảnh hưởng của Phật Giáo qua các loại hình văn hóa nghệ thuật
- Ảnh hưởng của Phật Giáo qua ca dao thơ ca:
Tư tưởng đạo lư của Phật Giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến
trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răng
dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui, phù hợp với truyền thống
đại đức của dân tộc Việt Nam. Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về
việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của
người dân Việt Nam, và đã thể hiện linh động và triền miên ngang qua ca dao dân
ca:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Triết lý Phật Giáo còn ảnh hưởng rất rõ nét trong lĩnh vực thơ, văn thông các
đại thi hào dân tộc: Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều... qua các tác phẩm: Truyện
Kiều, Chinh Phụ Ngâm...
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa”


- Phật Giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu: Tính triết lý "Nhân quả báo
ứng" của Phật Giáo đóng vai trò qua trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp
với đạo lý phương Đông và nếp sống truyền thống của dân tộc. Nghệ thuật sân
khấu: hát bội, hát chèo ở đồng bằng Bắc Bộ và cải lương ở Nam Bộ. Do sự ảnh

hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật Giáo nên luôn luôn các vở tuồng ở phần kết
thức đều có hậu như: Lưu Bình Dương Lễ, Tấm Cám, Thoại Khanh Châu Tuấn,
Phạm Công Cúc Hoa,...
- Ảnh hưởng của Phật Giáo qua nghệ thuật tạo hình: Thể hiện ở các lĩnh vực
kiến trúc, điêu khắc, hội họa qua các di tích đền, chùa, miếu, tượng Phật, tranh
cảnh vật... tiêu biểu như: chùa Hương, chùa Thiên Mụ, chùa Keo; tượng Quan Âm
nghìn mắt, nghìn tay (Chùa Hạ), bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho); Bức
tranh "Đi Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu, "Bức Tăng" của Đỗ Quang Em.
2.3. Đánh giá
2.3.1. Ảnh hưởng tích cực
Điều này được thể hiện rõ nét trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
chủ tịch Hồ Chí Minh. Người ln dành mối quan tâm lớn cho Phật giáo. Và điều
Hồ Chí Minh quan tâm lớn nhất ở Phật giáo là vấn đề đồn kết tồn dân vì nước
Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Để thực hiện được
mong ước lớn lao này của mình, dù bận trăm cơng nghìn việc, Người vẫn dành thời
gian viết thư gửi tới Hội Phật Tử 1947, hay gửi những đồng bào theo đạo Phật
nhân lễ Phật thành đạo năm 1957 và gửi Hội nghị đại biểu Hội Phật giáo thống
nhất Việt Nam năm 1964. Với mỗi bức thư, Người đều sử dụng những lời lẽ hết
sức thuyết phục của đạo Phật để khuyến khích và kêu gọi những tín đồ Phật giáo
Việt Nam đồn kết, hy sinh của cải, xương máu, kháng chiến đến cùng để đánh tan
thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ gìn thống nhất và độc
lập tổ quốc.


Bên cạnh đó Hồ Chí Minh cịn là người rất am hiểu vầ đạo Phật, ln đánh
giá đúng vai trị, tầm quan trọng và những đóng góp cho đất nước cảu Phật giáo
Việt Nam trong lịch sử cũng như trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và
trong cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Người luôn trọng tự do tín ngưỡng
của nhân dân, đồng thời nhắc nhở nhân dân cảnh giác với những kẻ lợi dụng tơn
giáo để chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc. Tuy Người viết về Phật giáo không nhiều

nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Người rất gắn bó với đạo Phật, và để lại nhiều ấn
tượng đẹp trong lòng Phật tín đồ cả nước và thế giới. Với nhân dân, Người khơng
chỉ là một vị chủ tịch nước mà cịn là một vị “Phật sống” đã phát huy được truyền
thống yêu nước, đoàn kết dân tộc, cứu nhân độ thế, vị tha, hướng thiện,…của Phật
giáo Việt Nam vì mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Với tài năng kiệt xuất, sự hiểu biết sâu rộng và một tấm lòng nhân đạo cao
cả, Người đã làm cho nhân dân và đất nước của Người lớn lên cùng Người. Với Hồ
Chí Minh, danh lợi là phi nghĩa, và Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc là “làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Xin cảm ơn vì Việt Nam đã có một Hồ Chí Minh như thế! Người đã vận
dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những giá trị của Phật giáo để giúp cho nhân
dân ta, dân tộc ta đi đúng hướng và giành được những chiến thắng lớn.
Một khía cạnh khác là sự ảnh hưởng tích cực của đạo đức Phật giáo đối với
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước nghèo, trong
khi đó chúng ta lại đang phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Dù không muốn, chúng ta vẫn phải đối mặt và chịu ảnh hưởng của mặt trái
của cơ chế này. Do vậy, để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, Việt
Nam phải lựa chọn và thực hiện theo biện pháp kinh tế- đạo đức “khổ hạnh, thiểu
dục” của Phật giáo. Trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước thì việc áp dụng biện
pháp này vẫn là một sự cần thiết và đúng đắn.


Bên cạnh đó, khi nền kinh tế chịu tác động bởi nguyên tắc cạnh tranh của cơ
chế thị trường thì vấn đề đạo đức con người càng bức xúc hơn. Mỗi người kinh
doanh đều mong muốn thu được lợi nhuận tối đa trong cơng việc làm ăn của mình.
Và họ đã bị cuốn theo vòng danh lợi mà đánh mất chính bản thân mình. Thì khi đó,
đạo đức Phật giáo chính là nơi để họ tĩnh tâm và tìm lại được đúng đường đi cho
mình. Có thể nói rằng những giá trị nhân văn của đạo đức Phật giáo đã góp phần
khơng nhỏ trong việc cải thiện và hồn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân. Và thực

tế ngày nay cho thấy rằng đạo đức Phật giáo vẫn thật cần thiết trong cuộc sống của
mỗi chúng ta.
Khía cạnh thứ ba là ảnh hưởng tích cực của Phật giáo được thể hiện rõ nét
trong lối sống, đặc điểm chuẩn giá trị xã hội lành mạnh và đời sống văn hoá phong
phú.
Với nhân dân Việt Nam, Phật giáo thật quen thuộc, gần gũi và thân thiết.
Phật giáo chính là một trong ba phơng tư tưởng tạo nên tư tưởng, văn hố, đạo đức
của người Việt Nam. Có thể nói rằng Phật giáo và dân tộc ta có sự gắn bó mật thiết
với nhau. Từ xưa, khi vua Lý Nam Đế vừa lập ra nước Vạn Xuân, ông vừa cho xây
dựng chùa Khai Quốc. Hình ảnh ngơi chùa đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân
đất Việt như là một nơi hết sức tôn nghiêm, trong sạch và yên tĩnh. Tiếp nối truyền
thống chùa với nước, Phật với người, đạo với đời, Thiền sư Không Việt phái Ngôn
Thông và Thiền sư Pháp Nhuận phái Tỳ Ni đa lưu chi đã tham gia bàn luận và giải
quyết những công việc quốc gia với tư cách là những cố vấn của vua Lê Đại Hành.
Ở thời nhà Lý, Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân. Theo tài liệu của nhà sử học Lê Văn Hưu thời Lý hơn một nửa dân số nước ta
đã vào chùa, và hơn thế mỗi địa phương đều có chùa của mình. Mỗi người dân lúc
đó đều ý thức được vai trị của Phật giáo, bởi vậy mà nhân dân ta có câu tục ngữ
“đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Hình ảnh ông Bụt hiền hậu, nhân từ hiện lên
cứu giúp những người dân nghèo thật quen thuộc với dân ta. Không những vậy, đã


có nhiều vua Lý như Lý Thái Tơng, Lý Thánh Tơng, Lý Cao Tơng và Lý Huệ Tơng
đã cắt tóc đi tu. Đủ thấy rằng, Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã
hội trong giai đoạn lịch sử đó. Phật giáo đã in đậm dấu ấn trong hầu hết các lĩnh
vực văn hoá của dân tộc ta. Những nhà sư có uy tín đặc biệt trong xã hội, mỗi chùa
lớn đều được nhà vua ban tặng và quyên cúng hàng ngàn mẫu ruộng. Để đáp lại
tấm lòng ưu đã này, các nhà sư đã tham gia tích cực vào đời sống chính trị và sau
đó họ đã đạt được những vị trí cao trong triều đình, như sư Đa Bảo, sư Viên Thông,
sư Vạn Hạnh đã giúp vua Lý Công Uẩn khai sáng triều Lý.

Đến đầu triều Trần, Phật giáo vẫn còn phát triển mạnh và là quốc giáo của
nước ta lúc đó. Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và
Trần Anh Tông, Trần Minh Tông đều là những “thánh đăng” của vườn thiền. Vua
Trần Nhân Tơng cịn nổi tiếng là người sáng lập ra dòng thiền “Trúc Lâm”. Tuy
nhiên đến cuối triều Trần, Phật giáo ngày càng yếu dần và đến cuối thời Lê thì
nhường bước cho Nho giáo.
Như vậy, trong suốt bốn mươi năm thế kỉ đầu tiên, lịch sử tư tưởng Triết học
ở Việt Nam chủ yếu là lịch sử tư tưởng Phật giáo, mà chủ yếu là Thiền. Và trong
giai đoạn này, Phật giáo đã ăn sâu và tiềm thức và được thể hiện đậm nét trong lối
sống của người dân đất Việt. Cụ thể là dân ta có một nền nơng nghiệp tĩnh lặng,
làng q Việt Nam hiện lên trong những câu ca dao thật yên bình và mộc mạc sau
những luỹ tre làng. Người dân chất phác, hiền lành quanh năm chỉ lo làm ăn với
đồng ruộng mà không tham danh lợi. Và đặc biệt, họ u chuộng hồ bình và ghét
cảnh chiến tranh, tang thương, chết chóc. Một hình ảnh rất quen thuộc và đặc trưng
cho miền q Việt Nam đó là ngơi chùa. Những ngôi chùa Việt Nam với mái cong,
tường thấp như từ đất mọc lên không uy hiếp con người cũng chẳng thách đố tự
nhiên, mà giao hoà với vạn vật và chúng sinh. Chính Phật giáo đã góp phần khích
lệ tấm lòng từ bi, hỉ xả, bác ái trong đạo đức đối trọng với cạnh tranh thị trường và
lợi nhuận của người dân. Bên cạnh đó, ta cịn thấy ảnh hưởng của Phật giáo ở


những lễ hội trong xã hội, những lễ thức gắn liền với những thời kì quan trọng của
một đời người như cưới xin, ma chay, sinh nở…và nó cũng có mặt những khi sản
xuất gặp bất trắc, cánh đồng có tai nạn hay khi con người gặp may.
Người Việt Nam có văn hố, tín ngưỡng, tơn giáo ảnh hưởng của Phật giáo.
Dường như người Việt Nam nào trong tâm linh cũng có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
và biểu tượng của các vị thần như Trời, Phật…Và cả trong thuần phong mỹ tục, hội
hoạ, điêu khắc và âm nhạc đều có bóng dáng của Phật giáo. Cũng bởi vì ở Phật
giáo họ đã tìm thấy được những giá trị chuẩn mực của đạo đức để có thể giúp họ
định hướng hành vi và đi đến tương lai tốt đẹp.

Như vậy, Phật giáo đã có rất nhiều ảnh hưởng tích cực đối với đời sống tinh
thần và đời sống xã hội của nhân dân ta và dân tộc ta trong quá khứ và ngay trong
thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, không thể nói rằng Phật giáo khơng có ảnh hưởng tiêu cực ở Việt
Nam.
2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo ở Việt Nam:
Tín ngưỡng tơn giáo là một nét đẹp trong văn hố của người dân Việt Nam.
Hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên của gia đình và dịng họ mình. Hay
cứ mỗi khi đến Tết Ngun Đán, mọi người lại rủ nhau lên chùa thắp hương và hái
lộc, với hy vọng mang sự bình yên và may mắn về nhà. Tuy nhiên một số người đã
biến tướng nét đẹp này dưới dạng mê tín dị đoan. Hiện tượng này có thể nói rằng
khá phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay. Những con người này do ỷ lại và mù
quáng vào số mệnh của mình đã đi tin tưởng và cầu xin những điều vô lí. Chẳng
hạn họ xin được trúng quả đậm, xin thần linh phù hộ cho làm ăn phát đạt, làm sao
để tiền vào như nước, tiền ra nhỏ giọt,…Và những hậu quả mà mê tín dị đoan để
lại thì khơng thể kể hết được. Nó len lỏi vào trong từng gia đình bất kể giàu nghèo
và phá tan nát biết bao tổ ấm hạnh phúc. Chính mê tín dị đoan đã góp phần cổ vũ
lối sống thụ động, cam chịu, khép kín, dễ ngả nghiêng và dễ bị những lối sống


khép kín, bi quan và bế tắc cám dỗ. Và giờ đây, khi đất nước đang ngày càng phát
triển thì mê tín dị đoan chính là một rào cản lớn cho sự nghiệp cơng nghiệp hóahiện đại hố bởi sự tác động của nó đến nguồn nhân lực của Việt Nam.
Bên cạnh hiện tượng mê tín dị đoan cịn có hiện tượng tiêu cực khác do chịu
ảnh hưởng của Phật giáo đó là “đất lề, q thói”. Đây chính là một câu tục ngữ đã
được đúc kết từ xa xưa và có lẽ đến bây giờ nó vẫn cịn nhiều giá trị. Đất có lề, quê
có thói đó là điều mà ai cũng hiểu và chấp nhận thực hiện theo nó với khơng lí do
nào cả. Khi những thói quen của con người đã có từ lâu đời, nó trở thành những
qui định, nguyên tắc cố hữu và buộc mọi người phải tuân theo nó. Nếu đó là những
điều tốt đẹp thì chúng ta trân trọng và giữ gìn cho ngàn đời sau. Nhưng nếu nguyên
tắc ấy quá cứng nhắc, cổ hủ và có phần khơng hợp lí với xu thế ngày càng phát

triển của cuộc sống thì chúng ta sẽ không muốn và không thể làm theo. Tuy nhiên
Phật giáo khi can thiệp vào vấn đề này lại mang nhược điểm lớn. Đạo đức và giáo
lý Phật giáo không giúp con người xoá bỏ mà trái lại phải phục tùng khơng điều
kiện những ngun tắc đó. Như vậy, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt
Nam.
Vậy, ta phải có những biện pháp thiết thực nào để phát huy tính tích cực
cũng như hạn chế tiêu cực của Phật giáo, để Phật giáo Việt Nam tồn tại lâu dài với
thời gian.
Chương 3: Giải pháp phát huy tính tích cực cũng như hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay.
Đầu tiên, để Phật giáo có thể truyền bá được rộng rãi trong nhân dân thì
Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành mở các trường đại học chuyên tâm nghiên cứu
về Phật giáo. Bên cạnh đó, Bộ Giáo Dục cũng có thể mở thêm khoa Phật giáo học
tại Đại Học Văn Hố. Có như vậy lớp trẻ chúng ta mới có thể tiếp nhận trực tiếp
những giá trị tốt đẹp của Phật giáo được. Ngồi ra, Nhà nước có thể phối hợp với
chính quyền địa phương để trùng tu và nâng cấp những ngôi chùa cổ hay những


mái đình ở làng quê Việt Nam. Để mọi người có thể thấy được tầm quan trọng của
vấn đề bảo vệ và giữ gìn những di sản phi vật thể mang đậm giá trị văn hoá tinh
thần của dân tộc Việt Nam. Mặt khác, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kết hợp
nhau trong công tác tuyên truyền bài trừ nạn mê tín dị đoan. Bằng quyền hạn của
mình, Nhà nước có thể ban hành những chính sách khuyến khích tạo việc làm cho
một số lượng lớn những người thất nghiệp trong xã hội. Việc làm này có ý nghĩa
rất lớn đối với những người kém may mắn, giúp họ tu tỉnh làm ăn và hướng tới
một tương lai tốt đẹp hơn. Từ đó nó góp phần thúc đẩy xã hội phát triển theo một
chiều hướng tích cực.
Bên cạnh đó, Đảng cần tăng cường công tác tuyên truyền lối sống lành mạnh
cùng nền văn hoá văn minh trong dân cư. Để xã hội Việt Nam luôn trong sạch,
vững mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội.



KẾT LUẬN
Những tư tưởng triết học cao siêu, những triết lý tôn Giáo lớn của Phật Giáo
đã từng tỏa sáng đến nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy nghiên cứu Phật Giáo là
hết sức cần thiết, Phật Giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống
của dân tộc Việt Nam, và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Tìm hiểu và nghiên cứu về "Sự ảnh hưởng của Phật Giáo đối với nếp sống của
người Việt Nam chúng ta càng thấy rõ nhận định trên, qua quá trình lịch sử, trải
qua bao cuộc biến đổi thăng trầm của đất nước, Phật Giáo Nam tơng đã khẳng định
mình và có một chỗ đứng vững chắc trong lòng của dân tộc Việt Nam, tồn tại và
phát triển cùng với dân tộc. Rõ ràng Phật Giáo đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam
nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, chính trị, văn hóa nghệ thuật điêu khắc...tạo
nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình hội nhập vào trào lưu phát triển
của thế giới, để tiếp thu và học tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, để
nhanh chóng hồn thành sự nghiệp Cơng Nghiệp Hóa-Hiện Đại Hóa Đất Nước.
Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập nhiều luồng văn hóa ngoại lai có cái tốt, cái xấu.
Làm sao chúng ta có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấu để tiếp tục
phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đây là một
câu hỏi lớn cho các nhà Giáo dục, đạo Đức, xã hội, tôn giáo, dân tộc... và nó đã trở
thành một vấn đề của quốc gia chứ không phải chỉ là chuyện cá nhân hay riêng tư
nữa. Lời giải đáp rõ ràng nhất là nếu chúng ta có một nền văn hóa lành mạnh; đậm
đà bản sắc dân tộc với những tư tưởng truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận
định, chắc lọc và cũng là liều thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã
văn hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích


cực của Phật Giáo là một phần ảnh hưởng văn hóa Việt Nam sẽ cùng với văn hóa
dân tộc Việt Nam làm nhiệm vụ chọn lọc và phát triển văn hóa Phật Giáo và văn

hóa dân tộc Việt Nam trong thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.
Trên đây là bài tiểu luận của em về đề tài: “ Vai trò và ảnh hưởng của Phật
giáo đến đời sống người Việt”. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu
sắc đối với cơ …đã nhiệt tình hướng dẫn hướng dẫn em hồn thành tốt bài tiểu
luận.
Trong q trình làm bài, khó tránh khỏi sai sót, rất mong cơ bỏ qua. Đồng
thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cịn hạn chế nên bài tiểu
luận khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của cơ để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn bài
tiểu luận sắp tới.
Em xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hịa Thượng Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật Giáo Ấn Độ, Thành hội
Phật Giáo TP.HCM ấn hành, 1989.
2. Hịa thượng Thích Tâm Thiện, Vấn đề cơ bản của Triết học Phật Giáo,
Nhà xuất bản TP.HCM, 2000.
3. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn
khoa học Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 2004.
4. Giáo trình triết học(Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết học), Nhà xuất bản lý luận chính trị, 2007.
5. Lý luận về tôn Giáo, NXB Hà Nội.
6. Nguyễn Hùng Hậu, Đại Cương Triết học Phật Giáo Việt Nam, Nhà xuất
bản Khoa Học Xã Hội, 2002.
7. Thích Nguyên Tạng, "Phật Giáo tại Việt Nam", 1996.
8. Thượng tọa Thích Thanh Duệ- Tuệ Nhã, Tập tục và nghi lễ dâng hương,
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2004.
9. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục,
2001.

10. Trương Sĩ Hùng, Mấy tín ngưỡng tơn Giáo Đơng Nam Á, Nhà xuất bản
Thanh niên, 2003.
11. Giáo trình lịch sử Triết học.



×