Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ĐỀ CƯƠNG câu hỏi THI tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.57 KB, 14 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu hỏi: Quan điểm của Bác Hồ về công tác cán bộ:
Bài làm:
Khái niệm về TT HCM:
TT HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đế
cơ bản của cách mạng VN, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN
Mác –LN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản
tinh thần vơ cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
1. Tư tưởng HCM về vị trí, vai trị của người cán bộ:
- Hồ Chí Minh ln đánh giá rất cao về vai trị của cán bộ, luôn chú trọng
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự nghiệp vẻ
vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa
to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
* Về vị trí :
HCM đánh giá rất cao vai trị của cán bộ, theo Người, vấn đề cán bộ là một
vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp, vấn đề các bộ quyết định mọi việc. Người coi
cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc. “Gốc” là từ đó sinh ra. Cây thì phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Gốc có vững thì cây mới bền. Người cịn khẳng định:
“Muốn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém.”
Cán bộ còn được hiểu là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền
không tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt. Đời
sống chính trị, kinh tế xã hội được coi như “cổ máy”. Trong đó có ba bộ phận:
một là chính sách, đường lối của Đảng và Chính phủ. Hai là quần chúng nhân
dân, những người thi hành chính sách đó. Ba là, cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là cái “dây chuyền”, “cầu nối” giữa Đảng,
Chính phủ với nhân dân nhưng khơng phải là “cầu nối” cơ học mà là một “dây
chuyền”, “cầu nối” đặc biệt. Người cán bộ trở thành “cầu nối” thì phải có đủ



phẩm chất đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, phương pháp và phong cách, tức là một
“con người hồn tồn” thì mới giải thích cho dân chúng hiểu rõ chính sách của
Đảng và Chính phủ; góp phần giáo dục, động viên, tập hợp quần chúng nhân dân
tham gia tích cực vào phong trào cách mạng. HCM chỉ ra rằng: cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.
Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng
lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đồn
thể phân cơng, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là
do nhân dân giao cho.
* Về vai trò: HCM cho rằng: “cán bộ là tiền vốn của Đồn thể. Có vốn mới
làm ra lãi. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là
có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn”. Ở một cách nhìn khác,
Người cho rằng: “Cán bộ quyết định mọi việc. Các đồng chí đều là cán bộ cao
cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. “Công việc thành hay bại một phần
lớn do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí”. Với ý
nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh t nhất của
xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trị cực kỳ
quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
2. TT HCM về đức, tài của người cán bộ
a. Yêu cầu của HCM về đạo đức của người cán bộ.
* Vai trò của đạo đức cách mạng: HCM đặc biệt coi trọng chiến lược của
con người. Con người là mục tiêu đồng thời là nhân tố quyết định thành cơng
của cách mạng. Vì thế, Người nhấn mạnh sự cần thiết vũ trang cho các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, thanh niên những giá trị đạo đức mới với
ý nghĩa là động lực của cách mạng.
Đạo đức được HCM xem xét toàn diện bao gồm đạo đức công dân, cán bộ,
đảng viên, người đứng đầu, chủ chốt. Đạo đức được nhận diện từ môi trường gia



đình, cơng sở, xã hội; trong các mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đạo
đức HCM có giá trị dân tộc và nhân loại, có ý nghĩa lịch sử và tương lai.
Theo HCM, đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng: “Cũng như
sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lảnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có
đạo đức, khơng có văn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì”.
HCM coi đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn
nên càng phải có sức mạnh.
Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình
cũng khơng tiếc. C1o đạo đức CM thì khi gặp thuận lợi và thành cơng vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phát khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ” lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cưa về mặt hưởng thụ; không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa.
HCM chỉ rõ, “tuy năng lực và cơng việc của mỗi người khác nhau, người
làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao
thượng”
Tóm lại, đạo đức là một đặc trưng cơ bản của XH XHCN; là thước đo chất
người của mỗi người; là sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tồ quốc,
liên quan đến sự thành bại của cách mạng.
* Các chuẩn mục về đạo đức đối với cán bộ:
- Trung với nước, hiếu với dân:
Theo Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi
phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ”
trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh
đưa vào đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Theo HCM “Trung với nước,

hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước với dân tộc, thể hiện trách nhiệm với


sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển của đất nước, là phẩm chất đạo đức
chủ chốt nhất.
“Trung với nước, hiếu với dân” là phải quyết tâm, suốt đời, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
lên trên hết, trước hết phải trọng dân, tin dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, thương dân, hịa mình với quần chúng nhân dân thành
một khối; nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; quan tâm dân quyền, dân sinh, dân
trí, dân chủ, dân vận; làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Người khẳng định: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh
vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói của
Bác vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi
người Việt Nam, không phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà
còn lâu dài mãi về sau.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư:
Cần: là siêng năng chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.Cần có nghĩa hẹp là từng
người, nghĩa rộng là mọi người, từ gia đình đến làng nước. Cần liên quan đến kế
hoạch cơng việc, nghĩa là phải tính tốn cẩn thận, sắp xếp gọn gàng. Cần luôn
luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời.
Kiệm: là tiết kiệm, không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi. Cần và
kiệm phải đi đôi với nhau như hi chân của con người. Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu củng khơng nên
tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho tổ quốc, thì dù bao
nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của cũng vui lịng.
Liêm: là trong sạch, khơng tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham ăn
ngon, tham sống yên là bất liêm. Người cán bộ mà cậy quyền cậy thế mà đục
khoát dân, ăn của đút, dìm người giỏi để giữ địa và danh tiếng của mình điều là

trái với chữ liêm. Chữ liêm phải đi đơi với chữ kiệm. Có kiệm mới liêm được.
Chính: Nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắng, đứng đắn. Điều gì khơng
thẳng thắng, đứng đắn, tức là tà.


HCM cho rằng “cần, kiệm, liêm, chính” là bốn đức tính cần có của con
người. Nó là thước đo chất của mỗi người, vì thiếu một đức thì khơng thành
người”. Ngồi ra “cần, kiệm, liêm, chính” cũng chính là thước đo trình độ văn
minh, tiến bộ của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”; Cần,
kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái cần để
làm việc, làm người ,làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ
quốc và nhân loại.
- “Chí cơng vơ tư” khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,
khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, là
lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào.
Thực hành chí cơng vơ tư gắn liền với chống và quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức
cách mạng mà còn là mối nguy hại cho Đảng và cả dân tộc. Theo HCM, chủ
nghĩa cá nhân là là một thứ gian xảo, xảo huyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi
xuống dốc. Nó là một thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc hậu.
Chủ nghĩa cá nhân còn là một kẻ địch to, một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ
nghĩa XH. Vì vậy, :thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
- Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa:
Kết hợp nghiên cứu lí luận với những trải nghiệm thực tế, HCM cho rằng,
trên đời này có hai loại người: áp bức và bị áp bức, người ác và người thiện và
hai thứ việc: việc chính và việc tà. Những người làm việc chính là người thiện,
làm việc tà là người ác.

Thương yêu, quý trọng con người trong tư tưởng của HCM luôn đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là
tình thương yêu con người dành cho con người bị áp bức, đói nghèo, bệnh tật.
Tình yêu thương con người của HCM là một biểu hiện sáng ngời của việc thấm
nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo Người, hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải


sống với nhau cho có tình có nghĩa. Đó là một tình thương u khơng chỉ trong
phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại.
- Tinh thần quốc tế trong sáng:
Tinh thần quốc tế là một phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ bản chất của
giai cấp công nhân và chế độ XHCN. Chủ tịch HCM là nhà yêu nước nhiệt
thành, một chiến sĩ quốc tế vĩ đại. Người không chỉ giáo dục tinh thần quốc tế
trong sáng, thủy chung mà còn là hiện thân của tinh thần quốc tế, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Hơn nửa thế kỉ hoạt động cách mạng, HCM luôn quan tâm đến các dân
tộc. Người đặt sự nghiệp cách mạng của dân tộc VN trong quỹ đạo của cách
mạng thế giới.; coi thắng lợi của của nahn6 dân VN cũng là thắng lợi chung của
nhân dân tiến bộ thế giới, thắng lợi của bạn cũng là thắng lợi của mình.
*Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
HCM chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Không vượt qua được chính mình,
khơng chiến thắng được giặc trong lịng thì khơng thể có đạo đức cách mạng.
- Nói đi đơi với là, phải nêu gương về đạo đức..
HCM coi đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong xây dựng một nền đạo
đức mới ở nước ta. Nó đối lập với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một
đằng làm một nẽo.
Nêu gương đạo đức là một nét đẹp truyền thống văn hóa phương Đơng,

nói thì phải làm, nói đi đơi với làm. Theo quan điểm của HCM, lí luận với gắn
với thực tiễn nhưng điều quan trọng nhất về mặt đạo đức là lấy hiệu quả làm
thước đo.
Làm gương ở nhiều môi trường và cấp độ khác nhau. Nhân dân ta thường
nói: “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong mọi biểu hiện làm gương
thì người đứng đầu, cán bộ chủ chất giữ một vai trò rất quan trọng. Muốn hướng
dẫn cấp dưới và nhân dân thì mình phải làm mức thước cho người ta bắt chước.


- Xây đi đôi với chống:
Xây là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới. Chống là phải
đấu tranh chống lại các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức trong đời sống hàng
ngày.. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức khoa học, đảng viên và cán bộ
cũng là người. Trong đảng và mỗi con người, vì những lí do khác nhau, “khơng
phải người người đều tốt, việc việc đều hay”. HCM chỉ rõ: “ Đảng ta khơng phải
trên trời sa xuống. Nó ở trong XH mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên
phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói
xấu tự tư tự lợi, kêu ngạo, xa hoa”
Trong cuộc đầu tranh cách mạng, chúng ta thường xuyên phải chống lại ba
kẻ địch: bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu
cũng là kẻ địch to; loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, đạo đức cách
mạng.
Chống và xây đi đôi với nhau. Lấy gương người tốt việc tốt hàng ngày
giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng
các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Trong mối
quan hệ giữa chống và xây, cần nhận thức chống cũng nhằm xây, đi liền với xây
dựng là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài.
b. Yêu cầu của HCM về năng lực của người cán bộ.
Trên nền tảng đạo đức là gốc, người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo và tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Thực

chất đó là năng lực tổ chức và động viên quần chúng thực hiện chính sách của
Đảng và Chính phủ. Muốn động viên, tổ chức và giáo dục được nhân dân, chiều
sâu và gốc rễ của vấn đề là phải nhận thức thật sự khoa học và cách mạng hai
chữ “cán bộ” và “lãnh đạo” là gì? HCM giải thích: “ Làm cán bộ tức là suốt đời
làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mầy chữ a,b,c này không phải ai cũng
thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”; Người còn viết: “Đảng
ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ TW đến khu, đến tỉnh, đến
huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào đều phải là người đầy tớ trung
thành của nhân dân”


Như vậy, năng lực lãnh đạo của người cán bộ, xét đến cùng, là năng lực
phục vụ nhân dân. Theo HCM,”dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách
giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn,
nghĩ mãi khơng ra”
Trên nền tảng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, trình độ lí luận, chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực của cán bộ thể hiện ở bản lĩnh và phương pháp, phong cách
lãnh đạo được biểu hiện cụ thể ở thực hành. Năng lực lãnh đạo thể hiện ở lãnh
đạo đúng. Theo HCM lãnh đạo đúng là:
Một là: Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
Hai là: Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, khơng có dân
chúng giúp sức thì khơng xong.
Ba là: Phải tổ chức sự kiểm sốt, mà muốn kiểm sốt đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được.
HCM đem lại cho ta nhận thức mới mẻ, khoa học về năng lực lãnh đạo.
Người phê bình thói lãnh đạo quan liêu: “Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân
chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào
cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”

Toàn bộ di sản HCM cho thấy, điều cốt lỗi về năng lực của người cán bộ
khơng nằm ở lí luận mà nằm ở thực tiễn; phài từ trong quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng. Việc gì cũng phải hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng.
LIÊN HỆ THỰC TIỂN (Hướng dẫn)

Kế thừa tư tưởng của người về công tác cán bộ Đảng và nhà
nước ta ln thực hiện các chính sách để lựa chọn nhân tài và lựa
chọn người cán bộ đủ đức đủ tài.
Trên địa bàn xã Bình Lư nơi em sinh sống và làm việc đang có
rất nhiều sự thay đổi đội ngũ cán bộ công chuc ngày càng phát huy


được năng lực trình độ chun mơn ngày càng được nâng lên Đáp
ứng yêu cầu của xã hội và sự mong mỏi của người dân.
Anh chj liên hệ theo sườn này nha:
Khái quát qua về địa phương
Nêu ưu điểm, hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức tại cơ sở
Nhiệm vụ giải pháp bám theo tư tưởng đạo đức HCM để xây
dựng đội ngũ tại cơ sở có chất lượng đạt hiệu quả anh chị phận tích
vị trí, vai trị của chính quyền cơ sở.

Câu hỏi: Phân tích khái niệm và quá trình hình thành phát
triển TT HCM. Trong các gđoạn đó giai đoạn nào là quan trọng
nhất vạch đường cho cách mạng VN.
* Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn

hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”.
Về cấu trúc, bản chất cách mạng, khoa học và nội dung của TTHCM: Đó
là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
Nam; TTHCM cùng với CN Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
hành động của Đảng, dân tộc VN.
Về Nguồn gốc tư tưởng, lý luận của TTHCM:


đó là kết quả sự vận dụng CN Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Về nội dung: đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Nội dung TTHCM bao gồm hệ thống các quan điểm cơ
bản về chính trị (đường lối cách mạng đối nội, đối ngoại, xây dựng lực lượng
cách mạng, xây dựng nhà nước), các quan điểm về kinh tế, văn hóa, xây dựng
con người XHCN... và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Ý nghĩa và giá trị sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của TTHCM: là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc, mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Nghiên cứu, học tập TTHCM là thấm
nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh,
nâng cao thêm lòng yêu nước, phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng của mỗi
người, để làm cho CN Mác - Lênin, TTHCM thực sự trở thành nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam trong hành động của chúng ta đem lại thắng lợi cho công
cuộc đổi mới cho nước ta sẽ tiếp tục dẫn dắt ta trên con đường xây dựng CNXH
Các giai đoạn hình thành TT HCM
* Từ 1890-1911 tiếp nhận CN u nước và hình thành ý chí u nước đây là
thời kỳ HCM tiếp thu được truyền thống u nước và lịng nhân ái từ gia đình,

q hương, đất nước và hình thành nhân cách HCM.
* Từ 1911 -1920 là thời kỳ đi tìm đường cứu nước.
Người tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên TG và khảo sát một cách toàn
diện đời sống của các dân tộc bị áp bức Người đã nhận định ở Pháp cũng có 2
loại người bóc lột và người bị bóc lột, người đi abbl và người bị abbl và rút ra
được CMDCTS là một cuộc cách mạnh không triệt để.
Năm 1913- 1917 người sang Anh Năm 1919 Người tham gia Đảng xã hội
Pháp trong thời điểm này ngườu đã viết tác phẩm “Bản yêu sách tám điểm của
dân An Nam” gởi đến Hội nghị Véc Xay
Tháng 7/1920 NAQ đọc bản “ sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” và tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là con đường


CMVS. HCM khẳng định đối với Việt Nam “muốn giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác là con đường cách mạng”
Từ 12/1920 Người tham gia sáng lập ĐCS Pháp, sự kiện này đánh dấu bước
phát triển về chất trong TTHCM từ CN yêu nước đến CN Mác-LN, từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ GC, từ người yêu nước trở thành người CS.
* Từ 1920-1930 TTHCM được hình thành. Đây là giai đoạn người tham
gia hoạt động thực tiễn trong phong trào CSQT, phong trào GP dân tộc thế giới
và bắt đầu tiến hành tổ chức truyền bá CN Mac-LN và chuẩn bị cho sự ra đời
ĐCSVN.
Năm 1920 –1923 Người ở Pháp và xuất bản tác phẩm “Người cùng khổ” với
2 nội dung cơng khai giải phóng con người và đoàn kết quốc tế.
Năm 1923 – 1924 Người sang Liên Xô dự ĐH Quốc tế nông dân và được
bầu làm Chủ tịch Hội. và Người tiếp tục tham dự DH Quốc tế Cộng sản lần thứ
V
Cuối năm 1924 Người về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức ra Hội VNCM
Thanh niên, mở các lướp huấn luyện đào tạo cán bộ
Năm 1925 Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” tác phẩm đã

vạch trần bản chất của CN thực dân.
Năm 1927 Bác xuất bản tác phẩm “ Đường Kách mệnh”
Tháng 2/1930 Người chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản trong
nước thành ĐCSVN. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt của Đảng” HCM trở thành nhà tư tưởng theo đúng nghĩa. Tư tưởng
HCM về CMVN cơ bản hình thành
Thứ nhất, HCM đã tìm ra được câu trả lời của CMVN, con đường của
CMVN đó là con đường CMVS.
Thứ hai, Xác định được mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của CMVN là một
cuộc CM dân tộc đánh đuổi đế quốc xâm lược, lật đổ chế độ PK, giành lại độc
lập tự do cho nhân dân
Thứ ba, Xác định được đối tượng của CM VN là CN thực dân, Phong kiến
phản động


Thứ tư, Xác định LL lãnh đạo CMVN là giai cấp CN dưới sự lãnh đạo của
ĐCS
Thứ năm, LL tiến hành CMVN là khối đại đoàn kết dân tộc. Giải phóng dân
tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng dân tộc thành một
sức mạnh to lớn để chống đế quốc và tay sai
Thứ sáu, Xác định được phương pháp CM phải sử dụng bạo lực CM để
chống bạo lực phản CM. Thứ bảy, HCM xác định được mối quan hệ của CMVN
với CMVS trên thế giới.
* Từ 1930-1969 TTHCM được thực hiện và phát triển ở VN
Giai đoạn 1930 – 1940: giai đoạn tư tưởng HCM gặp khó khăn thử
thách
Đây là thời kỳ HCM gặp rất nhiều khó khăn thử thách từ kẻ thù và từ TC
của mình
Từ phíai kẻ thù:
HCM bị bắt giam tại Hồng Kông không tham gia hoạt động CM nào Từ phía

tổ chức
Quan điểm của Bác trong cương lĩnh có những điểm trái ngược với QTCS
về LLCM và về tổ chức
TTHCM được thực hiện đúng đắn ở VN. HCM đã bổ sung thực hiện
đường lối đấu tranh giành độc lập dân tộc, nêu cao TT độc lập dân tộc, thực
hành đại đoàn kết toàn dân để đấu tranh giành độc lập dân tộc dẫn đến thắng lợi
của cuộc CMT8/1945
Giai đoạn 1945-1954 TTHCM phát triển trong điều kiện mới. HCM bổ
sung và phát triển tư tưởng về cầm quyền, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân,
về đường lối kháng chiến dẫn đến thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.
Giai đoạn 1954-1969 TTHCM bổ sung vầ phát triển về CNXH, con đường
đi lên CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dẫn đến cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập thống nhất đất nước.


Trong các giai đoạn, thì giai đoạn 1920 - 1930 là quan trọng nhất, vì từ nhìn
nhận và đánh giá đúng đắn CN Mac-LN vạch đường cho CM VN đi đến thắng
lợi, họp nhất các tổ chức Đảng thành ĐCSVN dẫn dắt CMVN….

Câu hỏi: Vận dụng tư tưởng HCM về đlập dân tộc gắn liền với
CNXH trong tình hình hiện nay?
Trả lời
* Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh…
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Bổ sung, phát triển năm
2011) đã xác định khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu của nội
hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
* Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH trong tình hình hiện nay
* Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
sự nghiệp đổi mới của Việt Nam

- Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan
hệ chặt chẽ với nhau (liên hệ thực tế vào).
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là ngọc cờ dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi
lên trong sự nghiệp đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong quá
trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” (Trả lời câu hỏi vì
sao phải kiên định mục tiêu.........)
- Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thế giới là tất yếu, kinh tế thị trường mang
tính tồn cầu.
- Độc lập dân tộc phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ; chủ
quyền an ninh quốc gia, đến độc lập về kinh tế, chính trị văn hóa, lối sống và
đạo đức xã hội.


- Chủ ngĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
* Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện
nay.
- Một là, muốn xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, phát huy mọi tiềm năng
sức mạnh nội lực và ngoại lực phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Hai là, xác định rõ bước đi và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, trên nguyên tắc đặt lợi ích đất nước, lợi
ích dân tộc lên trên hết.
- Ba là, độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội.
- Bốn là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới.
KHẲNG ĐỊNH LẠI TẦM QUAN TRỌNG CỦA 4 NỘI DUNG TRÊN:

(Chưa khẳng định)



×