Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Vấn đề tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.25 KB, 54 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo là một hiện tượng xã hội phong phú, phức tạp ra đời và tồn tại
khách quan trong lịch sử nhân loại. Do tình hình tơn giáo trên thế giới diễn biến
phức tạp qua các thời kỳ nên vấn đề tôn giáo đã và đang đặt ra nhiều vấn đề
nghiên cứu cho các nhà khoa học. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo cùng
tồn tại. Vấn đề tôn giáo đang bị các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài
nước lợi dụng để chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng chiêu bài
tôn giáo để chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo trong nước nhằm phá vỡ khối đại
đoàn kết của nhân dân ta, gây mất ổn định chính trị, an ninh tơn giáo, ảnh hưởng
đến cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước ta.
Nắm vững lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề tơn giáo, trong từng thời kỳ Đảng và Nhà nước ta đã có những chính
sách phù hợp về tơn giáo, từ đó đảm bảo đời sống sinh hoạt tôn giáo của nhân
dân một cách lành mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An là huyện thuần nơng, có dân số đơng và
nhiều tơn giáo cùng tồn tại, đồng bào các tôn giáo chiếm hơn 13 % dân số của
huyện. Trong những năm qua, công cuộc đổi mới trên địa bàn huyện đã đạt được
nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Đời sống nhân dân, trong đó có đời sống của
đồng bào theo đạo được nâng lên đáng kể, sinh hoạt tơn giáo nhìn chung ổn
định.
Tuy nhiên, những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân mà hoạt động của
các tôn giáo trên địa bàn huyện diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến
an ninh tôn giáo, ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng khối đại đồn kết
tồn dân, đến cơng cuộc đổi mới, xây dựng q hương huyện Nam Đàn.
Trước tình hình đó, cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đã và đang
có nhiều chính sách, biện pháp quan tâm đến vấn đề sinh hoạt tôn giáo trên địa

1



bàn huyện nên cơ bản giữ được đoàn kết đồng bào các tơn giáo và đồn kết
lương giáo, ổn định tình hình chính trị tại địa phương.
Là một người con sinh ra và lớn lên trên quê hương Bác Hồ kính u, với
mong muốn đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé vào xây dựng quê hương, tôi
chọn đề tài "Vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay " làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
Đại học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình Đảng lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước,
nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề tôn giáo nên nhiều nhà khoa học đã tập
trung nghiên cứu và xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị.
Đáng chú ý có các cơng trình: Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn với cơng trình
nghiên cứu "Lý luận về tơn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam", Nxb Chính
trị Quốc gia 2007; Phó Tiến sĩ Hồ Trọng Hồi với tác phẩm "Vai trị xã hội của
tơn giáo ở Việt Nam", Ban tơn giáo Chính phủ - Thơng tấn xã Việt Nam năm
2005; Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng "Nghiên cứu tôn giáo Nhân vật và sự
kiện", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009.
Bài viết: "Suy nghĩ về sự vận động của các tôn giáo ở Việt Nam", Tạp chí
Nghiên cứu tơn giáo, số 1, tháng 2 năm 2000 của tác giả Nguyễn Kim Hiền.
Tác giả Hà Lê với bài viết " tình hình và diễn biến xu thế của đời sống tơn
giáo hiện nay", tạp chí tơn giáo số 8, năm 2006.
Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng " Vấn đề tôn giáo trong văn kiện Đại hội
lần thứ X của Đảng: cái đã có và cái cần có", tạp chí tơn giáo số 5 năm 2006.
Tiến sĩ Vũ Văn Hậu " Quan hệ dân tộc và tơn giáo ở nước ta trong bối
cảnh tồn cầu hóa", tạp chí tơn giáo số 6 năm 2006.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Lữ, tập bài giảng: " Sự biến động của tơn giáo trên
thế giới và đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam", Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.

2



Đề tài " Những vấn đề tôn giáo hiện nay " của Viện nghiên cứu tôn giáo
Việt Nam.
Nghiên cứu về vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở tỉnh
Nghệ An cũng đã có các cơng trình nghiên cứu: Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ Nghệ
An, đề án " Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động tơn giáo trong
tình hình mới ", tháng 7 năm 2009; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Nghệ An với đề án
" Củng cố nâng cao đội ngũ cốt cán Mặt trận Tổ quốc trong vùng theo đạo cơng
giáo ở Nghệ An ", Số 03/ĐA/MTTQNA-2008.
Những cơng trình nghiên cứu trên là kết quả nghiên cứu khoa học rất
cơng phu và sâu sắc dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề tơn giáo, và tình
hình tơn giáo Việt Nam trong tình hình mới. Tuy nhiên, nghiên cứu về đời sống
tơn giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo cụ thể trên địa bàn huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An thì cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào. Do
đó, đề tài tuy có kế thừa nhất định các cơng trình nghiên cứu khoa học đi trước
nhưng khơng trùng lặp với bất kỳ cơng trình khoa học nào đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở huyện
Nam Đàn hiện nay, đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách tơn
giáo, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, đẩy mạnh q trình phát triển
kinh tế - xã hội ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lý luận chung về tôn giáo và các quan điểm của Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo.
- Làm rõ thực trạng đời sống tơn giáo tại địa phương huyện Nam Đàn, từ
đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
tơn giáo trên địa bàn huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
3


Nghiên cứu vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề tôn giáo trên địa bàn huyện Nam
Đàn trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã quán triệt phương pháp luận
của triết học, đồng thời sử dụng các phương pháp liên ngành như phân tích, tổng
hợp, điều tra, thống kê bảng biểu, khảo sát xã hội ...
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
- Khóa luận góp phần cung cấp cơ sở khoa học để nhằm nâng cao chất
lượng việc thực hiện chính sách tơn giáo trên địa bàn huyện Nam Đàn.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo giúp người đọc hiểu thêm
về lĩnh vực tôn giáo và vấn đề thực hiện chính sách tơn giáo tại địa phương
huyện Nam Đàn.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận được kết cấu thành 2 chương:
Chương I: Vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở huyện Nam
Đàn hiện nay.
Chương II: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách tôn giáo ở huyện Nam Đàn trong giai đoạn hiện nay.

4



NỘI DUNG
Chương 1:
VẤN ĐỀ TƠN GIÁO VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở
HUYỆN NAM ĐÀN HIỆN NAY
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và giải quyết
vấn đề tôn giáo trong Chủ nghĩa xã hội.
1.1.1. Nguồn gốc, bản chất, tính chất của tơn giáo
1.1.1.1. Nguồn gốc của tôn giáo
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ những nguồn gốc ra đời
của các tơn giáo. Đó là những quan điểm duy vật lịch sử về tơn giáo, phản ánh
tính khoa học, khách quan khi nghiên cứu, đánh giá hiện tượng sự vật. Trong tác
phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: "Ngay cả những ảo
tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu
của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác định được bằng
kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất. Như vậy thì đạo đức, tơn
giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình
thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay những vẻ độc lập bên ngoài" [5,
38].
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: mối liên hệ gắn với "quá trình đời sống
vật chất" của con người, của tôn giáo đã cho thấy những nguồn gốc ra đời của
tôn giáo.
V.I.Lênin cũng đã nêu nhiều quan điểm phản ánh nguồn gốc xã hội, nguồn
gốc nhận thức, tâm lý, tình cảm của tơn giáo.
Luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin: "Sự sợ hãi tạo ra thần linh" đã phản
ánh nguồn gốc đặc thù từ tâm lý, tình cảm góp phần làm phát sinh tôn giáo.
Từ nhiều quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho thấy các
nguồn gốc ra đời tôn giáo là:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội:
5



Bất kỳ một tôn giáo nào (tôn giáo nguyên thủy hay tôn giáo hiện đại) đều
phản ánh tồn tại xã hội với những quan hệ kinh tế nhất định. Nguồn gốc của tôn
giáo xuất phát từ những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con
người với con người. Đó chính là tồn bộ những ngun nhân và điều kiện
khách quan của đời sống xã hội làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn
giáo.
Trong xã hội cơng xã ngun thủy do trình độ của lực lượng sản xuất và
điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất
lực trước thiên nhiên bao la, hùng vĩ, đầy bí ẩn. Vì vậy, người nguyên thủy đã
gán cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Trong xã hội nguyên thủy, ma
thuật luôn đi kèm với những hoạt động lao động ở những nơi nào mà người
ngun thủy khơng có hi vọng vào kết quả lao động của mình, cũng như ở
những nơi các hoạt động ngẫu nhiên đóng vai trị lớn. Đó là hình thức tồn tại
đầu tiên của tơn giáo. Như vậy, không phải bản thân tự nhiên sinh ra tôn giáo,
mà là mối quan hệ đặc thù giữa con người với tự nhiên. Đó chính là nguồn gốc
xã hội của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp hình
thành, đối kháng giai cấp nảy sinh, hiện tượng tiêu cực xã hội ngày càng một
phát triển, một lần nữa con người lại bất lực trước lực lượng tự phát nảy sinh
trong xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của các quan hệ kinh tế - xã
hội cũng đã làm biến đổi các hình thức, tổ chức tơn giáo.
Tơn giáo ra đời từ sự bất lực của con người trước sức mạnh tự phát của xã
hội; không phải tôn giáo sinh ra con người, mà chính con người sinh ra tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức:
Lịch sử nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao. Ở giai
đoạn thấp, tức là giai đoạn nhận thức tự nhiên cảm tính, con người chưa thể sáng
tạo ra tơn giáo, bởi vì tơn giáo với tư cách là ý thức, là niềm tin bao giờ cũng
gắn với cái siêu nhiên, thần thánh, mà nhận thức trực quan cảm tính thì chưa thể
tạo ra cái siêu nhiên thần thánh được. Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên

6


kia… là sản phẩm của những biểu tượng, sự trừu tượng hố, sự khái qt dưới
dạng hư ảo. Nói như vậy có nghĩa là tơn giáo chỉ có thể ra đời ở một trình độ
nhận thức nhất định, đồng thời nó phải gắn với sự tự ý thức của con người về
bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Nhận thức thế giới xung quanh theo thế giới quan duy tâm, tin vào những
sức mạnh siêu nhiên thể hiện sự bất lực với sức mạnh của tự nhiên, là một trong
những nguồn gốc làm nảy sinh tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của q trình
nhận thức. Đó là một q trình phức tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống nhất một
cách biện chứng giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan. Khi nhấn
mạnh đến nguồn gốc nhận thức của tôn giáo nằm ngay trong đặc điểm của q
trình nhận thức, V.I.Lênin đã viết: "Sự phân đơi của nhận thức con người và tính
khả năng của chủ nghĩa duy tâm bằng của tơn giáo đã có trong cái trừu tượng
đầu tiên tối sơ..." [14,516]
Nhận thức, thế giới quan của con người khơng chỉ phản ánh khả năng,
trình độ tư duy, lập trường, quan điểm... mà còn phản ánh quyền con người.
Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là những quyền con người được luật pháp bảo
hộ.
Thay đổi nhận thức thế giới quan của con người không thể bằng mệnh
lệnh, hành chính, cưỡng bức mà phải bằng quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Ngày nay, dù khoa học, kỹ thuật phát triển nhưng trong đời sống tự nhiên, xã hội
vẫn còn nhiều hiện tượng mà con người chưa thể lý giải hoặc chưa thể chinh
phục được. Thế giới quan duy tâm vẫn có vai trị trong sự tồn tại của tín ngưỡng,
tơn giáo.
- Nguồn gốc tâm lý:
Những trạng thái tâm lý, tình cảm của con người: hoang mang, sợ hãi,
khủng hoảng niềm tin của cá nhân, cộng đồng người trước sức mạnh tự phát của

tự nhiên, xã hội làm nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã viết: "Sợ hãi trước thế lực
mù quáng của tư bản - mù qng vì quần chúng nhân dân khơng thể đốn trước
7


được nó - là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và tiểu chủ,
cũng đe dọa đem lại cho họ sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm
cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái
điếm. Và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo
hiện đại" [14,516]. Nhưng khơng chỉ có sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự
nhiên và xã hội mới dẫn con người đến nhờ cậy ở thần linh, mà ngay cả những
tình cảm tích cực như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình u... trong mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và con người với con người cũng được thể hiện qua
tín ngưỡng, tơn giáo.
Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, tơn giáo có chức năng "bù đắp hư
ảo", đáp ứng những nhu cầu tâm lý, tình cảm trong những bối cảnh nhất định.
Các mối quan hệ tâm lý, tình cảm của gia đình, cộng đồng tơn giáo hình thành
trong sinh hoạt tơn giáo tạo nên cơ sở tâm lý để tôn giáo tồn tại.
Tâm lý tơn giáo là loại hình tâm lý rất nhạy cảm, gắn bó với tâm lý cá
nhân, với tâm lý cộng đồng trong các tôn giáo.
1.1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu nhiều quan điểm về
tôn giáo trong điều kiện lịch sử đương thời.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội nảy sinh, tồn tại từ lâu đời, phản ánh
nhu cầu tinh thần của bộ phận lớn quần chúng nhân dân. Những quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị trước hết và chủ yếu là giá trị về thế giới quan,
phương pháp luận.
Trong nhiều quan niệm của C.Mác về tơn giáo, có những quan niệm rất
giá trị, khi ông cho rằng: "Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con
người chưa tìm được bản thân hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa"

[5,659]. Ơng cịn viết: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực
ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới

8


khơng có trái tim cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện khơng có
tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân" [5, 570].
Ph.Ăngghen trong tác phẩm Chống Đuy Rinh cũng đã nêu lên quan niệm
về tôn giáo: "Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế
đã mang hình thức những lực lượng siêu trấn thế " [6, 473].
Từ điều kiện lịch sử nước Nga đương thời, V.I.Lênin đã bổ sung, cụ thể
hóa quan niệm về tôn giáo, khi mà các thế lực giáo hội cố kết chặt chẽ với Nhà
nước thống trị dưới thời Sa hoàng. Trong tác phẩm " Chủ nghĩa xã hội và tôn
giáo", V.I.Lênin viết: " Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức tinh thần,
ln ln và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì
phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cơ
độc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất
nhiên đẻ ra lịng tin vào một cuộc đời đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y
như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra
lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu vv..." [13, 169 - 170].
Tổng hợp các quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin, có thể thấy được những nội dung tập trung, thống nhất trong quan niệm
về tôn giáo của các ông. Trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử, trên quan
điểm duy vật biện chứng, Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tôn giáo là sản phẩm
của con người gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội nhất
định. Do đó, xét về mặt bản chất tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự
bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
1.1.1.3. Tính chất của tơn giáo

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo đã phản ánh bản chất
của tôn giáo, đồng thời cũng chỉ ra những tính chất cơ bản của tơn giáo.
Một là: Tính lịch sử của tơn giáo

9


Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, không phải là phạm trù vĩnh viễn như
các quan điểm duy tâm, thần học thường khẳng định.
Con người sáng tạo ra tôn giáo, nhưng không phải tôn giáo xuất hiện cùng
lúc với con người. Lịch sử loài người đã từng trải qua thời kỳ lâu dài khơng có
tơn giáo. Ở thời kỳ sơ khai nhất của loài người, con người chưa biết đến, chưa
cần đến chức năng của tôn giáo. Tương ứng với xã hội chưa có giai cấp, nhà
nước là thời kỳ tôn giáo nguyên thủy - tôn giáo đa thần. Khi xã hội đã phân chia
thành giai cấp, có nhà nước thì tơn giáo độc thần xuất hiện (các tơn giáo có một
vị thần tối cao). Trong q trình phát triển của các tơn giáo đã có q trình biến
đổi theo thời gian và theo nhu cầu của xã hội và của các thể chế chính trị.
Tính lịch sử của tơn giáo thể hiện: khi có điều kiện lịch sử, có nhu cầu thì
tơn giáo ra đời, tồn tại và phát triển; khi khơng có, hay điều kiện lịch sử và nhu
cầu xã hội thay đổi thì tơn giáo cũng thay đổi. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử,
trong từng thời kỳ của lịch sử, tơn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu
chính trị và xã hội của thời đại đó. Tơn giáo ra đời trong một điều kiện lịch sử
nhất định và luôn biến động phản ánh sự biến đổi của lịch sử nhân loại.
Hai là: Tính quần chúng của tơn giáo
Các tơn giáo ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nhu cầu tinh thần của
các bộ phận nhân dân. Tuy mức độ, phạm vi ảnh hưởng rộng, hẹp khác nhau
nhưng các tôn giáo đều đã tập hợp quần chúng theo những đức tin, giáo lý, giáo
luật và cách thức tổ chức nhất định.
Tính quần chúng của tơn giáo khơng chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các
tơn giáo chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới, mà còn ở chỗ tôn giáo đáp ứng

nhu cầu tinh thần của đa số quần chúng nhân dân lao động. Mặt khác, tính quần
chúng của tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ các tơn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Phản ánh khát vọng về
một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao
động. Vì vậy, nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.

10


Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn nhắc nhở chúng
ta rằng: thái độ đối xử với tôn giáo trước hết là thái độ đối xử với quần chúng
nhân dân có đạo. Cơng tác tơn giáo chủ yếu và trước hết là công tác vận động
quần chúng nhân dân có đạo.
Ba là: Tính chính trị trong các tơn giáo
Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp
và lợi ích giai cấp ngày càng được thể hiện rõ trong tơn giáo.
Khi xã hội chưa có giai cấp và nhà nước thì tơn giáo chỉ là đơn thuần phản
ánh nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người đối với thế giới xung quanh.
Khi xã hội đã có giai cấp, nhà nước, tôn giáo không chỉ phản ánh nhu cầu tinh
thần thuần túy mà còn phản ánh các quan hệ giai cấp, quan hệ lợi ích giai cấp.
Các lực lượng chính trị, nhất là giai cấp thống trị đã lợi dụng tơn giáo phục vụ
cho lợi ích ngồi tơn giáo, mục đích chính trị. Trong thực tế đã có rất nhiều tôn
giáo vừa hoạt động tôn giáo vừa hoạt động chính trị. Trong các xã hội có áp bức
giai cấp thì tơn giáo thường bị lợi dụng biến thành cơng cụ thống trị của các giai
cấp cầm quyền.
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng phức tạp,
khơng chỉ thể hiện ở tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia
mà cịn có sự tổ chức chặt chẽ, rộng lớn ngoài tổ chức quốc tế của các tơn giáo
với vai trị, thế lực khơng nhỏ trên toàn cầu; với những trang bị hiện đại, tác
động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý mà cịn cả trong chính trị, văn

hóa, kinh tế, xã hội.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn
giáo trong Chủ nghĩa xã hội
1.1.2.1. Sự tồn tại khách quan của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội và là một thực thể tổ chức, tơn
giáo sẽ cịn tồn tại khi còn những nguồn gốc, những nguyên nhân để tồn tại.

11


Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại do các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất: trong xã hội xã hội chủ nghĩa nói chung, trong thời kỳ quá độ
nói riêng, lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật mặc dù đã có những bước phát
triển nhảy vọt, những tiến bộ mới nhưng con người chưa thể hoàn toàn chinh
phục được những sức mạnh tự phát của tự nhiên, chưa thể nắm bắt đầy đủ các
quy luật của xã hội. Giới hạn trong phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa
học, kỹ thuật chính là ngun nhân tồn tại của tơn giáo.
Thứ hai: đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ là có sự tồn tại xen kẽ của
cái mới và cái cũ. Cái mới ra đời nhưng cần thời gian để khẳng định tính tiến bộ,
ưu việt. Cái cũ dù đã đánh đổ nhưng vẫn chưa bị xóa bỏ hồn tồn, hoặc khơng
thể xóa bỏ ngay. Trong chừng mực nhất định, những yếu tố cũ vẫn còn tác động.
Về phương diện kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Tương ứng với cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần là một cơ cấu xã hội giai cấp, trong đó vẫn cịn những sự
khác biệt và diễn biến phức tạp. Trong văn hóa, tư tưởng, thế giới quan vẫn còn
những yếu tố của văn hóa, tư tưởng và thế giới quan cũ, phải cải biến cách mạng
dần dần ... Mặt khác, tín ngưỡng tơn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng

xã hội mới nên tôn giáo vẫn tồn tại trong xã hội xã hội chủ nghĩa và nhất là
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: từ sau khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu thất bại, phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế rơi vào tình
trạng thối trào; đời sống chính trị - xã hội thế giới diễn biến phức tạp gây hoang
mang, khủng hoảng niềm tin vào một mô hình xã hội tương lai. Đây cũng là một
nguyên nhân làm tồn tại tôn giáo trong thời đại hiện nay.
Thứ tư: các thế lực thù địch, chống đối chủ nghĩa xã hội luôn lợi dụng vấn
đề tôn giáo, nhân quyền để kích động, chia rẽ các tơn giáo hoặc gây nên các
cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo phá hoại hịa bình, tiến bộ và phát triển.
12


Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc vẫn đang ráo riết lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, nhân quyền, thực hiện âm mưu " diễn biến hịa bình " nhằm thay đổi chế
độ chính trị - xã hội ở các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các tổ chức tôn giáo hiện đại đang bị lôi cuốn vào các hoạt động chính trị
ở những mức độ khác nhau. Một số tôn giáo đã và đang bị lợi dụng phục vụ cho
những mục đích ngồi tơn giáo.
1.1.2.2. Những quan điểm cơ bản giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết vấn đề tôn giáo vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Đây là vấn
đề liên quan trực tiếp đến nhu cầu của nhân dân, liên quan đến quyền con người,
quyền công dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ln ln địi hỏi " phải biết cách giải quyết vấn
đề tôn giáo " trên cơ sở một số quan điểm sau đây:
* Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với cuộc
vận động đồn kết các tín đồ tơn giáo trong quá trình cải tạo xã hội cũ xây dựng
xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội

nên muốn làm thay đổi nó trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội.
Muốn xóa bỏ những ảo tưởng trong đầu óc con người thì phải xóa bỏ nguồn gốc
gây ra ảo tưởng ấy. Muốn đẩy lùi được những ước mơ về thiên đường hư ảo ở
thế giới bên kia thì con người cần phải xây dựng cho được một “ thiên đường ”
có thực ngay tại trần gian này; bằng việc xây dựng một thiên đường nơi trần thế
thì mới đẩy lùi được niềm tin vào những đám mây mù tôn giáo. Giải quyết vấn
đề tôn giáo không chỉ là tuyên truyền phê phán thế giới quan tôn giáo mà phải
thông qua thực tiễn cách mạng, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân. Đó là một q trình lâu dài để cải tạo xã hội cũ
xây dựng xã hội mới. Đáp ứng ngày càng đầy đủ những nhu cầu vật chất và tinh
thần của nhân dân, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, mà trước hết là
những người có tín ngưỡng, tơn giáo, thơng qua q trình này mới tạo ra được
13


khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã
hội.
Giải quyết vấn đề tơn giáo là từng bước xóa bỏ nguồn gốc sản sinh tôn
giáo. Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải được thực hiện bằng cách
khắc phục, xóa bỏ nguyên nhân dẫn đến sự ra đời, tồn tại của tơn giáo chứ
khơng phải xóa bỏ, cấm đốn tơn giáo; khơng thể dùng mệnh lệnh, hành chính
để giải quyết bằng cấm đốn. Để khắc phục những tiêu cực của tơn giáo còn cần
quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên truyền, giáo
dục thế giới quan duy vật và biện chứng với nhiều hình thức.
* Tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của
nhân dân.
Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng là một
ngun tắc. Quyền ấy khơng chỉ thể hiện về mặt pháp lý mà còn thể hiện trong
thực tiễn của đời sống xã hội.

Một mặt, phải tôn trọng quyền được sinh hoạt tôn giáo của nhân dân, các
tổ chức tôn giáo được pháp luật thừa nhận, bảo hộ và đều bình đẳng trước pháp
luật. Mặt khác, phải tôn trọng quyền theo đạo hay không theo đạo của người
dân, kể cả quyền bỏ sinh hoạt tôn giáo khi người dân khơng có nhu cầu. Khơng
ai có quyền cưỡng bức, bắt buộc người dân theo đạo. Trong ứng xử với các tơn
giáo và các tín đồ, khơng được phân biệt đối xử với công dân theo tôn giáo khác
nhau, hay giữa người có đạo với người khơng có đạo. Giáo hội các tơn giáo có
trách nhiệm động viên các tín đồ phấn đấu sống một cuộc sống “ tốt đời, đẹp
đạo ”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ trương tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng
và khơng tín ngưỡng của nhân dân, bảo đảm mọi sinh hoạt tôn giáo bình thường
trong khn khổ luật pháp; đồng thời nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tơn giáo,
tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan và những âm mưu lợi dụng tơn giáo để
hoạt động chính trị hoặc gây rối trật tự trị an. Phát huy những nhân tố tích cực
14


của tôn giáo, đặc biệt những giá trị đạo đức, chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu
nước.
* Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trị và tác động của mỗi tơn
giáo đối với xã hội là không giống nhau và quan điểm, thái độ của giáo sĩ và
giáo dân đối với các lĩnh vực xã hội cũng khơng hồn tồn thống nhất. Vì vậy,
khi thực hiện nhất qn ngun tắc bình đẳng, khơng phân biệt đối xử cần phải
có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với các vấn đề
có liên quan với tơn giáo.
Có nhiều tôn giáo khi mới ra đời được coi như là một phong trào bảo vệ,
bênh vực quyền lợi của những người nghèo, người bị áp bức. Sau một thời gian
tồn tại, tôn giáo ấy lại biến thành công cụ của giai cấp thống trị, bóc lột. Có
những giáo sĩ suốt đời hành đạo và luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc nhưng

cũng có người đã hợp tác với các thế lực thù địch bên ngoài mà đi ngược lại với
lợi ích quốc gia… Vì vậy địi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có thái độ,
cách ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
* Cần phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thủy, tôn giáo chỉ thể hiện thuần túy về mặt
tư tưởng, phản ánh nhận thức ngây thơ của con người về thế giới tự nhiên. Khi
xã hội xuất hiện giai cấp, tôn giáo không chỉ thể hiện ở mặt tư tưởng mà cịn cả
mặt chính trị.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng thực chất là phân biệt tính chất
khác nhau của hai loại mâu thuẫn ln tồn tại trong bản thân tơn giáo. Mặt chính
trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa những thế lực
lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao
động; cịn mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn khơng mang tính đối kháng giữa
những người có tín ngưỡng với những người khơng tín ngưỡng, tơn giáo cũng
như những người có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau.
15


Trong thực tế, hai mặt chính trị và tư tưởng trong tơn giáo thường đan xen
vào nhau. Có những lúc mâu thuẫn về mặt chính trị lại được các thế lực phản
động ngụy trang bằng sự khác nhau về tư tưởng và ngược lại. Loại bỏ mặt chính
trị phản động trong tôn giáo, nhất là khi các thế lực phản động quốc tế đang lợi
dụng tôn giáo nhằm thực hiện chiến lược diễn biến hịa bình là việc làm cần
thiết. Khi thực hiện cần dựa vào sức mạnh của quần chúng tín đồ. Phương pháp
phải kịp thời, cương quyết nhưng phải tránh nơn nóng vội vàng. Đảm bảo được
u cầu: đồn kết rộng rãi đồng bào có tín ngưỡng và khơng có tín ngưỡng, phát
huy tinh thần u nước của các tu sĩ chân tu đồng thời kiên quyết trừng trị
những kẻ lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để phá hoại sự đoàn kết dân tộc, phá hoại
sự nghiệp cách mạng .

1.2. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và
Nhà nước ta về giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình đi lên chủ nghĩa
xã hội
1.2.1. Khái quát đặc điểm chung về tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tơn giáo. Hiện nay, ở Việt Nam
có hơn 20 triệu tín đồ của 6 tơn giáo lớn, với một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: ở Việt Nam các tơn giáo có lịch sử hình thành, phát triển, phạm
vi ảnh hưởng, số lượng tín đồ khác nhau
Phật giáo: là một tôn giáo lớn, được truyền vào Việt Nam theo hai con
đường: từ Ấn Độ và từ Trung Quốc, với các hệ phái khác nhau.
Phật giáo có mặt tại Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, phát triển
qua các giai đoạn, gắn bó với dân tộc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo tác động khá
lớn đến đạo đức, phong tục, tập quán, văn hóa của nhân dân ta. Có thời kỳ trong
lịch sử Việt Nam, Phật giáo giữ vai trị là quốc đạo. Hiện nay, ở nước ta có
khoảng 10 triệu tín đồ theo đạo Phật.
Cơng giáo: cũng là một tôn giáo thế giới được du nhập vào Việt Nam từ
thế kỷ 16, tồn tại và phát triển ở Việt Nam với những bước thăng trầm. Hiện tại
ở Việt Nam có khoảng 6 triệu tín đồ Cơng giáo.
16


Đạo Tin lành: được du nhập vào Việt Nam từ năm 1911, từ tổ chức Tin
lành Mỹ (CMA) truyền vào. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 500 nghìn tín đồ
đạo Tin lành. Đây là một tơn giáo đang có xu hướng phát triển ở các vùng dân
tộc thiểu số ở Việt Nam.
Hồi giáo: cũng là một tôn giáo thế giới được truyền vào Việt Nam theo
nhiều con đường khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 100 nghìn tín đồ
đạo Hồi gồm hai khối: Hồi giáo chính thống (Islam) tập trung ở các tỉnh An
Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh và Hồi giáo Bà ni tập
trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở

các tỉnh khác.
Đạo Cao đài: là tôn giáo bản địa, ra đời ở Nam Bộ Việt Nam năm 1926.
Đây là một tôn giáo dung hợp nhiều yếu tố, nội dung của các tôn giáo khác
nhau. Hiện nay có hơn 2 triệu tín đồ đạo Cao đài với nhiều hệ phái, trong đó
phần lớn tín đồ theo phái Cao đài Tây Ninh.
Đạo Hịa hảo: (hay còn gọi là Phật giáo Hòa hảo) cũng là một tôn giáo
bản địa ra đời ở An Giang vào năm 1939. Đạo Hòa hảo tiếp thu, ảnh hưởng rất
lớn từ Phật giáo. Hiện nay có trên 1 triệu tín đồ đạo Hòa hảo, tập trung chủ yếu
ở tỉnh An Giang và một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ hai: hầu hết các tín đồ tơn giáo ở Việt Nam đều là nhân dân lao động.
Họ bị áp bức, bóc lột bởi chế độ thực dân, phong kiến nên có tinh thần u
nước, tinh thần đồn kết dân tộc.
Tuyệt đại đa số tín đồ tơn giáo ở Việt Nam đều là nhân dân lao động có
quan hệ gắn bó trong cộng đồng gia đình - làng - nước (những thiết chế bền
vững trong tổ chức văn hóa xã hội cổ truyền ở Việt Nam). Từ khi có Đảng Cộng
sản Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, lãnh đạo,
đồng bào các tôn giáo đều tin tưởng ở Đảng, đi theo Đảng, đoàn kết chặt chẽ
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đóng góp tích cực vào cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa.

17


Nhìn chung các tổ chức tơn giáo có tư cách pháp nhân đều có đường
hướng hành đạo theo pháp luật, gắn bó với dân tộc, tập hợp đơng đảo tín đồ xây
dựng cuộc sống " tốt đời, đẹp đạo ", góp phần tích cực vào cơng cuộc đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hiện nay.
Thứ ba: các tôn giáo ở Việt Nam cùng tồn tại với các loại hình tín ngưỡng
dân gian truyền thống, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống.
Ở Việt Nam bên cạnh các tơn giáo có đầy đủ các yếu tố cấu thành như hệ

thống tín điều, giáo lý, lễ nghi, tổ chức ... cịn tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng
dân gian truyền thống ( tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc,
tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hồng ...). Nhiều tơn giáo đã tiếp
thu, tiếp biến các loại hình tín ngưỡng dân gian, tạo nên sự phong phú, đa dạng
trong sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam.
Thứ tư: những năm gần dây do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan,
tình hình hoạt động tơn giáo có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân
tố có thể gây mất ổn định.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong hoạt động của các tơn giáo ở
Việt Nam, những năm gần đây do tác động từ tình hình chính trị - xã hội thế
giới, từ các vấn đề dân tộc, tơn giáo thế giới nói chung, ở Việt Nam cịn có
những hoạt động của một số người chưa tuân thủ pháp luật, tổ chức truyền đạo
trái phép; lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Ở một số
nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
để hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đồn kết dân
tộc, gây mất ổn định chính trị.
Tình hình đặc điểm trên của các tôn giáo Việt Nam hiện nay đang chịu
nhiều tác động của các nhân tố mới từ xu thế của thời đại và những diễn biến
của đời sống chính trị - xã hội thế giới cần được phân tích, đánh giá đúng để có
quan điểm phù hợp trong giải quyết vấn đề tơn giáo.
1.2.2. Quan điểm và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay
18


Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đồng thời đã khẳng định những
quan điểm đổi mới tư duy và thái độ ứng xử đối với tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta.
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ

nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đồn kết
tồn dân tộc.
Tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo, theo hoặc không theo tôn
giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật là thái độ
ứng xử đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là biểu hiện đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa
Chủ nghĩa xã hội và tơn giáo, nhìn nhận, đánh giá đúng về đạo đức tôn giáo với
những yếu tố phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam. Đảng và
Nhà nước Việt Nam không đối lập giữa Chủ nghĩa xã hội với tôn giáo mà luôn
đảm bảo tôn trọng quyền tự do tôn giáo của công dân.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại
đồn kết tồn dân tộc, trong đó có đồn kết các tơn giáo, đồn kết đồng bào theo
tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo.
Đồn kết tồn dân tộc là một truyền thống quý báu của nhân dân Việt
Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn
kết tạo nên sức mạnh, động lực cho cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện hiện
nay, hơn lúc nào hết chính sách đại đoàn kết dân tộc phải được thực hiện trong
đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp xã hội, không phân
biệt đối xử với công dân vì lý do tơn giáo.
Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta cũng nghiêm cấm việc lợi dụng tôn giáo
để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.
19


Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là cơng tác vận động quần
chúng .
Do tính chất quần chúng của tôn giáo, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của

một bộ phận nhân dân, nội dung cốt lõi nhất, trọng tâm nhất của công tác tôn
giáo là cơng tác vận động quần chúng có đạo. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó các đồng bào
tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tơn
giáo đều có quyền xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tơn giáo nhằm mục đích động viên
đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất tổ
quốc, mọi cơng dân phải có trách nhiệm nghĩa vụ thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của nhà nước, tham gia tích cực vào quản lý xã hội,
thực hiện tốt các chính sách kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phịng, góp phần cải
thiện, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có
lợi ích của đồng bào các tôn giáo.
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Cơng tác tôn giáo liên quan đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến cơ sở. Đảng và Nhà nước Việt Nam
xác định rõ: công tác tôn giáo là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, của
cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo chứ không chỉ trách nhiệm riêng của đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Tổ chức bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác tơn giáo có trách
nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện tồn. Cơng tác quản lý Nhà nước đối
với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ
chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng. Các cấp ủy Đảng,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các tổ chức xã hội và các tổ chức
tôn giáo có trách nhiệm làm tốt cơng tác vận động quần chúng và thực hiện đúng
đắn chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
20


Việc theo đạo, truyền đạo, cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải

tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền
tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, khơng được ép buộc người dân theo đạo.
Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Nhà nước và pháp luật.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận được hoạt động theo pháp luật, bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở
trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa,
xây dựng cơ sở thờ tự tơn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
1.3. Tình hình tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở huyện Nam
Đàn hiện nay
1.3.1. Tình hình tơn giáo ở huyện Nam Đàn
Khái quát chung về huyện Nam Đàn
Nam Đàn là huyện đồng bằng nửa đồi núi. Kéo dài từ 18034’ đến 18047’
vĩ bắc và trải rộng từ 105024’ đến 105037’ kinh đơng, diện tích 293,93 km2 ,
trong đó diện tích đất nơng nghiệp chiếm 48%, cịn nữa là đất lâm nghiệp và đồi
núi, ao hồ. Phía đơng giáp huyện Hưng Nguyên và huyện Nghi Lộc, phía tây
giáp huyện Thanh Chương, phía bắc giáp huyện Đơ Lương, phía nam giáp
huyện Hương Sơn và huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Huyện có 23 xã và 1
thị trấn, trung tâm huyện lỵ cách Thành phố Vinh 20km. Dân số 159433 người,
mật độ dân số 542 người/km2, chỉ có dân tộc kinh sinh sống.
Hiện nay, hệ thống giao thông vận tải, thơng tin liên lạc của huyện đã khá
hồn chỉnh và đồng bộ. Y tế, văn hóa, giáo dục được đầu tư phát triển khá. Nhìn
chung đời sống vật chất của người dân được nâng lên đáng kể.
Nam Đàn là vùng đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống cách mạng lâu
đời. Nơi đây đã sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt trong lịch sử dân tộc và danh
nhân như Mai Thúc Loan, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Nam Đàn cũng là quê
hương của 38 vị đại khoa Việt Nam như: Đình Nguyên, Thám Hoa Nguyễn Đức
21



Đạt; Thám hoa Nguyễn Văn Giao đời Nguyễn; Đình nguyên Tiến sĩ Vương Hữu
Phu (khoa Canh Tuất - 1910); cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc… Nơi đây được
Mai Thúc Loan chọn làm nơi khởi nghĩa chống giặc nhà Đường, sau đó vua Mai
Thúc Loan đóng đơ tại thành Vạn An (xã Vân Diên ngày nay). Đặc biệt là quê
hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới. Trong kháng chiến cứu nước của dân tộc, Nam Đàn là
một trong những cái nôi của cách mạng Việt Nam, nổi tiếng như phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh...
Với đặc điểm như vậy nên Nam Đàn ngày nay tồn tại nhiều đền, chùa thờ
cúng, ghi công các vị anh hùng dân tộc như Khu Di tích lịch sử và nhà thờ Chủ
tịch Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên, Khu mộ và Đền thờ Vua Mai Hắc Đế tại Thị
Trấn, Vân Diên, Chùa Đại Tuệ, Chùa Viên Quang ...
Với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội như đã trình bày, huyện
Nam Đàn đã có những chính sách thiết thực và cụ thể đang ngày càng phát huy
những nét đặc sắc trong sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo làm phong phú thêm
truyền thống văn hóa bản sắc dân tộc của địa phương.
Tình hình tơn giáo ở huyện Nam Đàn
Theo số liệu thống kê, tồn huyện có đồng bào theo tơn giáo sinh hoạt
theo 3 tôn giáo là Công giáo, Đạo Tin lành, Đạo Phật.
Về Đạo Công giáo: là tôn giáo chủ yếu ở huyện Nam Đàn với 12 xã và 1
thị trấn có đồng bào cơng giáo sinh sống. Tổng số hộ là 2.975 với 14021 người,
chiếm 8,6 % dân số toàn huyện. Có 62/330 xóm có giáo dân, trong đó: có 20
xóm là giáo tồn tịng và 1 xã giáo tồn tịng (xã Nam Lộc). Có 1 giáo hạt, 5
giáo xứ và 19 họ đạo. Có 2 Tu viện thuộc dịng mến Thánh Giá là Quy Chính và
Vạn Lộc, gần 200 tu sỹ và 55 nữ sinh tập tu. Ngoài ra cịn có 1 sở dịng Bác Ái ở
xã Vân Diên do linh mục Nguyễn Đăng Điền lập ra đã hơn 10 năm, đến nay vẫn
chưa được công nhận tư cách pháp nhân nhưng vẫn hoạt động.
Danh sách các cơ sở của công giáo trên địa bàn huyện (do Ban Dân vận
Huyện ủy Nam Đàn rà soát năm 2010), gồm:

22


1. Giáo xứ Vạn Lộc, xã Nam Lộc
2. Giáo xứ Quy Chính, xã Vân Diên
3. Giáo xứ Thượng Nậm, xã Hồng Long
4. Giáo xứ Trang Đen, xã Nam Hưng
5. Giáo xứ Yên Lạc, xã Nam Lĩnh
Các giáo họ gồm:
Đối với các giáo họ nhà xứ:
1. Giáo họ Vạn Lộc gắn với xứ Vạn Lộc, xã Nam Lộc. Phân bố trên địa
bàn 7 xóm từ xóm 1 đến xóm 7 đều là giáo tồn tịng có 1028 hộ với 4923 nhân
khẩu.
2. Giáo họ Quy Chính gắn với giáo xứ Quy Chính, xã Vân Diên. Phân bố
trên địa bàn 2 xóm Quy Chính 1 và Quy Chính 2 đều là giáo tồn tòng. Tổng số
hộ giáo dân là 273 hộ với 1173 nhân khẩu.
3. Giáo họ Thượng Nậm gắn với giáo xứ Thượng Nậm, xã Hồng Long,
bao gồm các xóm 3,4,5,6,9, xóm giáo tồn tịng là xóm 3 và xóm 4. Tổng số hộ
là 200 với 981 giáo dân.
4. Giáo họ Trang Đen gắn với Giáo xứ Trang Đen, xã Nam Hưng. Phân
bổ trên địa bàn 2 xóm giáo tồn tịng là xóm Hồng Lĩnh và xóm Hồng Lam, có
156 hộ với 980 khẩu.
5. Giáo họ Yên Lạc gắn với giáo xứ Yên Lạc, xã Nam Lĩnh. Có 185 hộ
với 766 khẩu. Xóm 3 là xóm giáo tồn tịng.
* Các giáo họ khác, gồm:
1. Giáo họ Đặng Phúc, thuộc giáo xứ Vạn Lộc, xã Nam Lộc
2. Giáo họ Trung Sơn, thuộc giáo xứ Vạn Lộc, xã Nam Lộc
3. Giáo họ Thanh Khoa xã Nam Tân, thuộc giáo xứ Vạn Lộc
4. Giáo họ Nhật Quang, thuộc giáo xứ Quy Chính xã Vân Diên
5. Giáo họ Đan Nhiệm, thuộc giáo xứ Quy Chính, xã Vân Diên.

6. Giáo họ Đông Quy, thuộc giáo xứ Quy Chính, xã Vân Diên
7. Giáo họ Ngọc Thơn, thuộc giáo xứ Thượng Nậm, xã Hồng Long
23


8. Giáo họ Xuân Lâm, xã Xuân Lâm, thuộc giáo xứ Thượng Nậm
9. Giáo họ Trang Thọ, xã Hùng Tiến, thuộc giáo xứ Thượng Nậm
10. Giáo họ Trang Bồn, thuộc giáo xứ Trang Đen, xã Nam Hưng
11. Giáo họ Tân Nghĩa, xã Nam Nghĩa, thuộc giáo xứ Trang Đen
12. Giáo họ Xuân Liễu, xã Nam Xuân thuộc giáo xứ Yên Lạc, xã Nam
Lĩnh.
13. Giáo họ Xuân Hồ, xã Xuân Hòa, thuộc giáo xứ Yên Lạc.
14. Giáo họ Yên Lĩnh xã Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ An trực thuộc giáo
xứ Thọ Ninh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đại đa số đồng bào cơng giáo đều có thái độ tích cực trong việc đạo, việc
đời, thực hành kính chúa u nước góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh,
mong muốn được sinh hoạt tơn giáo một cách bình thường. Một số linh mục và
chức việc đã có thái độ tích cực hợp tác với chính quyền và báo cáo các nội
dung hoạt động tơn giáo của mình. Nhìn chung tình hình đạo Công giáo trên địa
bàn huyện Nam Đàn tương đối ổn định.
Về hạn chế: Trong hoạt động cơng giáo vẫn cịn diễn ra một số biểu hiện
thiếu lành mạnh, thậm chí cịn có nơi vi phạm pháp luật như:
Một số linh mục trẻ thường có thái độ bất hợp tác, lợi dụng tự do ngơn
luận, trong rao giảng nói xấu Đảng, chính quyền gây mất đồn kết lương giáo.
Thậm chí có hành vi ngăn cản công dân thực hiện bổn phận đối với đất nước,
ngăn cấm quần chúng vào Đảng, cô lập đảng viên gốc giáo ... xúi dục đồng bào
giáo dân di chuyển vào Quảng Bình tham gia gây rối ở tháp chng Tam Tịa
với con số lên tới hàng trăm người.
Trong q trình giải phóng mặt bằng để làm đường ven Sông Lam, linh
mục Nguyễn Ngọc Nam và một số giáo dân xứ Thượng Nậm (xã Hồng Long) đã

có thái độ ngăn cản, gây khó khăn cho cơng tác thi cơng cơng trình từ năm 2007
đến nay.
Giáo hội cơng giáo ngày càng muốn phô trương thanh thế, tổ chức sinh
hoạt và rước ngồi khn viên nhiều hơn, ngồi các hội đồn phục vụ lễ nghi thì
24


ngày càng có nhiều hội đồn hoạt động như: Hội phụ huynh gia trưởng, Hội phụ
nữ bác ái, Hội con đức mẹ, Hội thanh niên, sinh viên công giáo ... Một số xóm
giáo ở xã Nam Lộc, trong sinh hoạt xóm các Hội này muốn lấn lướt các đồn
thể. Từ đầu năm 2009 các xứ, họ bắt đầu tổ chức các nhóm đọc kinh tại các gia
đình vào ban đêm và các ngày khơng có lễ.
Về đất đai, giáo hội Công giáo tỏ rõ ý đồ muốn mở rộng khuôn viên nhà
thờ, địi lại đất bằng nhiều cách nhưng khơng thành như:
Đến nay, có 2 cơ sở chưa nhận Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất để
xin thêm đất như giáo xứ Quy Chính (xã Vân Diên), giáo họ Tân Nghĩa (xã Nam
Nghĩa).
Tại xứ Trang Đen (xã Nam Hưng) có 3 hộ giáo dân hiến đất 3700 m 2 đất,
giáo xứ tự ý phá tường rào nới rộng khuôn viên mà khơng xin pháp chính quyền.
Tại giáo xứ Nam Lộc, linh mục thường xuyên yêu cầu giáo dân đóng góp
xây lễ đài và tường bao tại nghĩa địa Vạn Lộc mà khơng xin phép chính quyền.
Về việc xin tách họ Đạo: tại xóm Đơng Tiến xã Vân Diên, tháng 5/2007
giáo dân xin được 1 ngôi nhà gỗ 5 gian ở Hà Tĩnh đưa về dựng trong vườn Ông
Lê Văn Tam và trình bày với chính quyền là làm nhà cho ông Tam ở. Nhưng sau
đó đã tu sửa làm nơi sinh hoạt tơn giáo. Và Ơng Tam đã có đơn hiến đất cho
giáo hội, chính quyền đã lập hồ sơ đề nghị UBND tỉnh cho thành lập Họ Đạo
mới ( Họ Đông Quy ).
Với những biểu hiện không lành mạnh, vi phạm pháp luật của một số linh
mục và giáo dân cơng giáo, tình hình sinh hoạt tơn giáo của đồng bào công giáo
tiềm ẩn những nguy cơ gấy mất đồn kết lương giáo, an ninh tơn giáo và an ninh

chính trị trên địa bàn huyện Nam Đàn.
Về Đạo Tin Lành: Mới du nhập vào địa bàn huyện từ khoảng từ năm 2005
đến nay. Trên địa bàn huyện có 2 nhóm đạo tin lành chưa được chính quyền
cơng nhận ở xã Nam Lĩnh và xã Khánh Sơn. Hai nhóm này đã có nhiều hoạt
động truyền đạo trái phép. Mặc dầu hai nhóm này đã viết đơn xin chứng nhận
điểm nhóm để sinh hoạt truyền giáo nhưng không chứng minh được số lượng tín
25


×