Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thực tiễn giải quyết vấn đề ly hôn tại toà án nhân dân thành phố vinh và một số giải pháp nhằm đảm bảo việc giải quyết vấn đề ly h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.1 KB, 56 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những nhiệm
vụ trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta
thì cần phải có con người xã hội chủ nghĩa, đó là địi hỏi tất yếu khách
quan. Nhưng muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải có một gia đình
mẫu mực, bởi gia đình quyết định một phần rất lớn tới bản chất con người.
Gia đình hiện nay còn được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có một
xã hội phát triển và lành mạnh thì cần phải có gia đình tốt – gia đình văn
hố mới. Gia đình là nơi sản sinh ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục
con người cho xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua
ln ln quan tâm tới vấn đề gia đình. Luật hơn nhân và gia đình có vai
trị góp phần xây dựng, hồn thiện và bảo vệ chế độ hơn nhân gia đình tiến
bộ, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc và bền
vững. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình được ghi nhận tại
Điều 64 Hiến pháp 1992: “ Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo
hộ hơn nhân và gia đình theo ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm ni dạy con thành
những người cơng dân tốt, con cháu có bổn phận chăm sóc ơng bà, cha
mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các
con.”
Mặc dầu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước đã đề cập như vậy, song hiện nay có khơng ít gia đình vì những lý do
khác nhau đã khơng thực hiện tốt chức năng của nó. Một trong số các
nguyên nhân đó là cha mẹ, vợ chồng sống không hạnh phúc, bất đồng,
mâu thuẫn trong nội bộ dẫn tới ly hôn.


Ngày nay, dưới sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, cùng những
lối sống tiêu cực, ham hưởng thụ hoặc chạy theo đồng tiền làm cho vợ chồng,
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

1


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

cha mẹ, con cái bỏ bê, khơng quan tâm chăm sóc nhau. Tranh chấp về ly hơn
ngày càng nhiều trên phạm vi tồn quốc trong những năm gần đây, tình trạng
ly hơn ở nước ta diễn ra rất phổ biến, lý do rất đa dạng, phức tạp cả về chủ thể
lẫn nội dung. Theo báo cáo của ngành Toà án, những án kiện về hơn nhân gia
đình ln chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các án kiện dân sự. Trong các án kiện
về hơn nhân gia đình thì án kiện về ly hôn luôn chiếm khoảng 90%.
Ở Thành phố Vinh trong những năm qua, số lượng án về ly hơn có phần tăng.
Đối với loại án này mỗi vụ việc có nội dung đa dạng và tính phức tạp cũng
khác nhau, nên việc giải quyết loại án này gặp khơng ít khó khăn trong nhận
thức vận dụng pháp luật cũng như những khó khăn từ khách quan mang lại.
Tuy vậy, q trình giải quyết ly hôn ở Thành phố Vinh trong những năm qua
đã đạt được những kết quả nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất
hồ trong hơn nhân, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của các đương sự đặc biệt
là quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em. Thông qua việc giải quyết
ly hơn đã góp phần làm ổn định các quan hệ trong hơn nhân, giữ gìn kỷ cương
pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, góp phần tăng cường
nền pháp chế trên toàn tỉnh Nghệ An.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, trong hoạt động xét xử ở Toà án nhân dân
Thành phố Vinh cũng đã bộc lộ một số tồn tại như xét xử oan sai, án tồn

đọng, cịn có vụ vi phạm thời hạn tố tụng , một số vụ án bị sửa, …làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Hơn nữa, ảnh hưởng của ly hôn theo
hướng tiêu cực như: sự ly tán gia đình, sự phân chia tài sản, trẻ em thiếu sự
chăm sóc, giáo dục trực tiếp của cha mẹ … đang là những gánh nặng, những
hậu quả để lại cho gia đình và xã hội mà đang là những câu hỏi lớn đặt ra cần
được giải quyết?
Xuất phát từ những lý do trên, người viết chọn đề tài “ Vấn đề ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân Thành phố
Vinh từ năm 2008 đến năm 2011” là rất cần thiết. Qua q trình nghiên cứu,
chúng ta có thể làm rõ những quy định của pháp luật về ly hôn, những điểm
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

2


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

cần hồn thiện nhằm góp phần làm nâng cao cơ sở lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp từ các án kiện ly hôn hiện nay.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về ly hôn, qua việc so sánh
đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan chuyên trách góp phần
tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân. Qua việc phân tích, tìm ra
những vướng mắc, thiếu sót, đề xuất những kiến nghị phù hợp với yêu cầu tất
yếu khách quan của xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Qua đề tài, chúng tơi muốn góp phần cơng sức nhỏ bé của mình vào nhiệm vụ
chung của tồn xã hội để xây dựng một chế độ pháp lý ngày càng hồn thiện
góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật, xây dựng một nhà nước pháp quyền

ngày càng vững mạnh. Hy vọng khoá luận này sẽ là một tài liệu tham khảo và
là gợi ý, hướng dẫn cho việc áp dụng và thực hiện các quy định của pháp luật
về ly hơn.
3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi đi tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này chúng ta không chỉ thấy được thực
trạng ly hôn đang diễn ra như thế nào mà qua đó chúng ta cịn có thể đi sâu
tìm hiểu các nguyên nhân dẫn tới ly hôn và sự tác động của vấn đề ly hôn tới
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
Thơng qua việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng ta có được cách hiểu sâu
hơn, đúng đắn hơn cơ sở lý luận của vấn đề ly hôn theo pháp luật hơn nhân và
gia đình.
Nghiên cứu đề tài này cịn nhằm thu thập các số liệu tìm ra những vướng mắc,
bất cập khi áp dụng giải quyết để từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp, góp
phần xây dựng và hồn thiện pháp luật hơn nhân và gia đình và nhằm bảo vệ
chế độ hơn nhân gia đình tiến bộ, bền vững kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Khi thực hiện đề tài của mình, người viết tuân thủ phương pháp nghiên cứu
chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

3


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

Mác- Lênin. Trên cơ sở phương pháp luận đó, người viết sử dụng phương
pháp cụ thể như so sánh, phân tích, tổng hợp để hồn thành đề tài của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung tìm hiểu, nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành
về chế định ly hôn và những văn bản hướng dẫn thi hành đồng thời có sự so
sánh đối chiếu với các quy định về vấn đề ly hôn trong các văn bản pháp luật
về hơn nhân gia đình trước đó để thấy được những điểm khác và điểm mới
qua đó thấy được những bước tiến trong q trình lập pháp ở nước ta. Bên
cạnh đó, đề tài cịn được tiến hành nghiên cứu, tiếp xúc thực tiễn tại Toà án
nhân dân Thành phố Vinh – cơ quan chuyên trách giải quyết các án kiện hôn
nhân trên địa bàn Thành phố Vinh.
Do lần đầu tiên tiếp cận với việc nghiên cứu một đề tài và có giới hạn về mặt
thời gian nên khoá luận chưa thể đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác như về
thủ tục tố tụng của một vụ án ly hôn hay vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngồi.
Vì vậy, q trình thực hiện đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót mong q
thầy cơ và các bạn góp ý, bổ sung để khố luận được hoàn thiện hơn.
5. Bố cục của đề tài
Cơ cấu của đề tài bao gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và cơ sở pháp lý của ly hôn
Chương 2: Thực tiễn giải quyết vấn đề ly hơn tại Tồ án nhân dân Thành phố
Vinh và một số giải pháp nhằm đảm bảo việc giải quyết vấn đề ly hơn tại Tồ
án nhân dân Thành phố Vinh
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

4


Khoá luận tốt nghiệp


GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và cơ sở pháp lý của nó
1.1 Khái niệm và đặc điểm của ly hôn
1.1.1 Khái niệm
Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân . Nếu kết hôn là một hiện tượng bình
thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hơn là một hiện tượng bất bình
thường, là mặt trái của quan hệ hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được
khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Trong trường hợp đó ly hơn là một
việc cần thiết cho cả vợ chồng và cho xã hội, vì nó giải phóng cho tất cả mọi
người, cho cả vợ chồng, các con cũng như những thành viên trong gia đình
thốt khỏi xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung. Thực hiện

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

5


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

ngun tắc hơn nhân tự nguyện và tiến bộ, bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao
gồm quyền tự do kết hôn của nam nữ và quyền tự do ly hôn của vợ chồng.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì ly hơn là việc hai vợ chồng bỏ quan hệ
vợ chồng chính thức, vì những ngun nhân nào đó mà khơng đạt được mục
đích hơn nhân. Việc ly hơn có thể xảy ra ở hai thời kỳ: sau khi dạm hỏi( trước
khi cưới) và sau khi cưới khi hai vợ chồng đã ăn ở với nhau một thời gian

thậm chí sau khi đã sinh con cái.
Trước năm 1945, vợ chồng muốn ly dị phải trình làng, làng xử khơng được
phải đến cửa quan( quan huyện, quan phủ). Đàn ông muốn bỏ vợ phải viết tờ
ly dị. Vợ cầm tờ giấy ấy trình làng, trình quan xong mới được lấy vợ khác.
Dưới các chế độ phụ quyền, đặc biệt là xã hội phong kiến phương Đông, với
tư tưởng trọng nam khinh nữ, trong ly hơn nữ giới chịu nhiều thiệt thịi hơn
nam giới.
Hệ thống pháp luật về hơn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945 đến
nay quy định về vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự
do ly hon chính đáng của vợ chồng, vừa quy định giải quyết ly hơn có lý, có
tình. Bằng pháp luật nhà nước kiểm sốt quyền tự do ly hơn của vợ chồng vì
lợi ích của gia đình và xã hội.
Tại khoản 8 Điều 8 luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Ly hơn là
chấm dứt quan hệ hơn nhân do tồ án cơng nhận hoặc quyết định theo yêu
cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hơn nhân( trong đó có ly hơn) là
hiện tượng xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật của Nhà nước phong
kiến, tư sản thường quy định hoặc là cấm vợ chồng ly hôn, hoặc là đặt ra các
điều kiện hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng, hoặc quy định giải quyết ly hôn
dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng. Hệ thống pháp luật hơn nhân và gia đình ở
nước ta dưới thời phong kiến, thực dân đã thể hiện luận điểm trên. Dưới chế
độ cũ, quyền yêu cầu ly hôn và các duyên cớ ly hôn theo luật định thường dựa
trên quan hệ “ bất bình đẳng” giữa vợ và chồng. Ly hơn là một hiện tượng xã
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

6


Khoá luận tốt nghiệp


GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi
ích của gia đình và xã hội. Trong những năm gần đây, các việc ly hôn ở nước
ta và các nước trên thế giới gia tăng đáng kể. Những nguyên nhân, lý do ly
hôn cũng rất đa dạng và phức tạp. Vì vậy, muốn giải quyết ly hơn chính xác,
vừa đảm bảo quyền tự do ly hơn chính đáng của vợ chồng, vừa đảm bảo lợi
ích gia đình và xã hội, cán bộ thẩm phán cần nắm vững quy định của pháp
luật, điều tra, tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng,
tâm tư tình cảm, nguyện vọng của mỗi đương sự, đồng thời phải lưu ý đến các
đặc điểm về tình hình kinh tế - chính trị và xã hội tác động vào quan hệ hôn
nhân trong thời điểm giải quyết ly hôn, để kết hợp đúng đắn đường lối chính
sách cụ thể của Đảng và Nhà nước đối với việc giải quyết từng loại án kiện về
ly hôn.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ chồng khơng
có nghĩa là giải quyết ly hơn tuỳ tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng
muốn sao làm vậy mà bằng pháp luật, Nhà nước kiểm soát việc giải quyết ly
hơn. Bởi vì, trong quan hệ hơn nhân khơng phải chỉ có lợi ích riêng tư của vợ
chồng mà cịn có lợi ích của Nhà nước và xã hội thể hiện qua những chức
năng của gia đình - tế bào của xã hội và lợi ích của con cái – thành viên của
gia đình và xã hội. Vì vậy vợ chồng không thể chỉ chú ý đến hạnh phúc cá
nhân mà xin ly hôn một cách tuỳ tiện.
1.1.2 Đặc điểm của ly hôn
Xuất phát từ khái niệm ly hôn được quy định tại khoản 8 Điều 8 luật HNGĐ
năm 2000, ly hơn có hai đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Việc ly hôn phải theo ý muốn của một hoặc của cả hai vợ
chồng( khi còn sống), hoặc theo ý muốn của một bên khi bên kia bị toà án
tuyên bố là mất tích. Xuất phát từ đặc trưng quan hệ hơn nhân gia đình là một
quan hệ đặc biệt gắn liền với nhân thân của cả hai vợ chồng, do đó chỉ có họ
mới quyết định việc tồn tại hay chấm dứt quan hệ vợ chồng mà không ai có

quyền u cầu hoặc can thiệp. Luật hơn nhân và gia đình năm 1959,
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

7


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

1986( Điều 40), luật HNGĐ năm 2000( khoản 1 Điều 85) cũng chỉ quy định
vợ hoặc chồng mới có quyền ly hơn. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng
quy định đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác
thay mặt mình tham gia tố tụng ( khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004).
Thứ hai: Việc ly hôn do TAND giải quyết bằng việc ra quyết định công nhận
thuận tình ly hơn hoặc bằng bản án. Vì việc kết hôn là xác lập quan hệ hôn
nhân do cơ quan hành chính thực hiện cụ thể là Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc
UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( đối với trường hợp kết hơn
có yếu tố nước ngồi) nhưng ly hơn để chấm dứt quan hệ vợ chồng thì thuộc
cơ quan tư pháp, cụ thể là Toà án nhân dân. Cho dù thực tế họ đã chấm dứt
quan hệ vợ chồng, trên thực tế họ khơng cịn chung sống với nhau nữa hoặc
chính quyền địa phương đã có quyết định khác như biên bản hồ giải đồn tụ
khơng thành của Uỷ ban nhân dân cấp xã, nhưng về mặt pháp lý, quan hệ hôn
nhân vẫn cịn tồn tại, khi chưa có quyết định hoặc bản án của Tồ án có thẩm
quyền giữa người vợ và người chồng vẫn còn ràng buộc pháp lý về quan hệ
nhân thân, quan hệ tài sản và quan hệ con cái. Chỉ khi Toà án xem xét giải
quyết và quyết định cho họ chấm dứt hay tiếp tục tồn tại quan hệ hơn nhân đó,
quyết định của Tồ án là quyết định cuối cùng. Trường hợp Toà án xử cho ly
hôn bằng một bản án hay ra một quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn, khi
đó giữa người vợ và người chồng khơng cịn sự ràng buộc về mặt pháp lý cả

về quan hệ nhân thân lẫn quan hệ tài sản. Quyết định của Tồ án là quyết định
có giá trị cao nhất.
1.2 Các căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam
1.2.1 Khái niệm
Căn cứ ly hôn được định nghĩa là những tình tiết( điều kiện) được quy định
trong pháp luật và chỉ khi có những tình tiết, điều kiện đó, Tồ án mới được
xử cho ly hơn. Như vậy “ căn cứ ly hôn” ở đây cần được hiểu theo nghĩa của
một thuật ngữ pháp lý, theo đó khi một đề nghị xin ly hơn đã hội đủ các điều
kiện quy định trong luật, Tồ án khơng dựa vào bất cứ lý do nào ngoài những
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

8


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

điều kiện ấy để bác đơn xin ly hơn của đương sự. Chính trong ý nghĩa pháp lý
của thuật ngữ này mà lý luận pháp luật Việt Nam phân biệt “ căn cứ” ly hôn
với “ động cơ” ly hôn, hay “ mục đích” ly hơn, hai khái niệm này đồng nghĩa
nhưng khơng được coi là những điều kiện ly hôn quy định trong luật.
Trong xã hội có giai cấp, ly hơn cũng thể hiện tính giai cấp. Việc quy
định về ly hơn và căn cứ cho ly hơn thể hiện ý chí và quan điểm của giai cấp
thống trị xã hội.
Quan điểm của những nhà làm luật tư sản cho rằng hôn nhân thực chất
là một “khế ước” , một hợp đồng do hai bên nam nữ tự do, tự nguyện xác lập,
vậy thì chỉ được xố bỏ hơn nhân, khế ước đó trên cơ sở lỗi của các bên. Bộ
luật dân sự Pháp quy định: “ Vợ chồng có thể xin ly hôn do những sự việc bên
kia gây ra, vi phạm nghiêm trọng và liên tục bổn phận và nghĩa vụ hôn nhân

khiến cho đời sống chung không thể duy trì được”(Điều 242 mục III Thiên
VI). Theo đó, việc giải quyết các hậu quả của ly hôn cũng như quyền lợi về
tài sản, trách hiệm đối với con cái, cũng dựa trên căn cứ này.
Luật hơn nhân và gia đình các nước Xã hội chủ nghĩa quy định giải
quyết ly hơn theo đúng thực chất của vấn đề, hồn tồn khơng dựa vào lỗi của
vợ chồng, trên cơ sở nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng thực chất của quan
hệ hôn nhân thực sự tan vỡ.
Ở nước ta căn cứ ly hôn được quy định trong các văn bản pháp luật ở
từng giai đoạn khác nhau.
Trong cổ luật Việt Nam, các căn cứ ly hôn thường được biết tới với tên
gọi “ duyên cớ” ly hôn hay “ các trường hợp ly hôn”. Các duyên cớ ly hôn
trong cổ luật cũng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nho giáo, nghĩa là chúng dựa
trên sự bất bình đẳng giữa vợ - chồng và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia
đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân. Chính trong ý nghĩa này mà duyên cớ
ly hôn trong cổ luật được chia làm ba loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hơn
thuận tình.

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

9


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngoài tầm kiểm
soát của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định, nếu
người vợ phạm vào một trong các điều “ thất xuất” thì chồng phải bỏ vợ,
không bỏ sẽ bị tội biếm. Theo Hồng Đức Thiện chính thư( đoạn 164) và bộ

luật Gia Long (Điều 108) đã nêu rõ đó là bảy trường hợp sau: khơng có con,
dâm đãng, khơng thờ bố mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và bị ác
tật.
Ly hôn bắt buộc là trường hợp khi việc kết hôn vi phạm các điều kiện
thiết yếu của hơn nhân thì vợ chồng bị buộc phải ly dị. Chẳng hạn Điều 308
Bộ luật Hồng Đức quy định: “ Chồng bỏ lửng vợ 5 tháng thì mất vợ”, Điều
108 Lệ thứ hai luật Gia Long cũng quy định : “ Nếu người chồng mất tích
hoặc bỏ trốn 3 năm khơng về thì người vợ được trình quan xin phép cải giá và
nhà vợ khơng phải hồn lại đồ sính lễ”.Đặc biệt Điều 108 luật Gia Long quy
định khi vợ chồng phạm phải điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly hơn. “ Nghĩa
tuyệt” có thể là do lỗi của vợ ( mưu sát chồng), hoặc lỗi của chồng ( chồng
bán vợ, cho thuê vợ hay cầm vợ), nhưng cũng có thể là do lỗi của cả hai vợ
chồng ( người chồng đem vợ bán cho nhân tình của vợ).
Thuận tình ly hơn là việc hai vợ chồng bất hoà tự nguyện xin ly dị
[9,55]
Căn cứ ly hơn trong pháp luật chính quyền nguỵ quyền Sài Gịn trước
1975 ( ở Miền Nam): Luật gia đình 1959 của Ngơ Đình Diệm quy định cấm
ly hơn chỉ cho ly thân, trừ một số trường hợp phải có tổng thống xét là tối đặc
biệt mới cho ly hôn. Để biện hộ cho quy định này Trần Lệ Xuân nêu lý do:
Cấm cho ly hôn nhằm bảo vệ và củng cố gia đình dành thời gian xoa dịu các
mối bất hồ, cho đơi bạn có cơ hội đồn tụ, làm cho thanh niên lựa chọn bạn
đời thận trọng hơn.
Đến năm 1964, sau khi chính quyền bị lật đổ lúc này mới đề nghị xét
lại quy định trên. Do vậy, Bộ Dân luật 1972 của chính quyền Thiệu đã quy
định vợ chồng có thể xin ly hơn vì ba dun cớ: và sự ngoại tình của bên kia,
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

10



Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

bên kia bị kết án trọng hình về thượng tội, vợ chồng bị ngược đãi không thể
ăn ở được với nhau.
Căn cứ ly hôn các văn bản sau năm 1945: Sau khi nước nhà độc lập,
nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950, sắc lệnh 159/SL
ngày 17/11/1950. Theo sắc lệnh 159, xố bỏ các dun cớ ly hơn được quy
định trong các bộ dân luật của thực dân phong kiến trước đó và đề ra năm căn
cứ ly hơn cho cả và chồng bao gồm: ngoại tình, một bên can án phạt giam,
một bên bị bệnh điên, hoặc một bệnh khó chữa khỏi, vợ chồng tính tình khơng
hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể chung sống được ( Điều 2).
Luật hơn nhân và gia đình 1959 (Điều 6), luật HNGĐ 1986 ( Điều 40),
và luật HNGĐ năm 2000 ( Điều 89) đã quy định căn cứ ly hôn dựa trên quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, theo đó khơng quy định căn cứ riêng biệt mà
quy định thống nhất về căn cứ ly hôn dù là trường hợp hai bên thuận tình ly
hơn hay một bên vợ hoặc chồng yêu cầu: “ Tình trạng trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được thì Tồ án quyết
định cho ly hơn”. Ngồi ra, còn quy định: “ Trong trường hợp vợ hoặc chồng
bị Tồ án tun bố mất tích xin ly hơn thì Tồ án giải quyết cho ly hơn”.
1.2.2 Nội dung các căn cứ ly hôn
Khi vợ chồng hay cả hai vợ chồng có u cầu ly hơn, sau khi thụ lý vụ
kiện, Toà án phải tiến hành điều tra và hồ giải, nếu hồ giải khơng thành và
xét thấy giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm u thươg khơng cịn
nữa, mục đích của hơn nhân khơng đạt được, Tồ án mới giải quyết cho ly
hơn”.
Điều 89 luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“ 1. Tồ án xem xét u cầu ly hơn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,
đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì

Tồ án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tồ án tun bố mất
tích xin ly hơn thì Tồ án giải quết cho ly hôn.”
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

11


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

“ Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” ở đây cần
được hiểu là giữa vợ chồng có nhiều lục đục, mâu thuẫn sâu sắc đến mức vợ
chồng không thể chịu đựng được nhau nữa, các thành viên trong gia đình
khơng thể nào sống chung bình thường, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại
được, sự tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia đình là khơng thể tránh khỏi.
Vì thế khơng thể hiểu đơn thuần “ tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài” chỉ là biểu hiện tình u giữa vợ chồng khơng cịn nữa.
Khi nói đến tình u trong quan hệ vợ chồng cịn hay hết là mới chỉ nói đến
quan hệ tình cảm có tính chất riêng tư của vợ chồng mà chưa thấy hết mọi
mặt khác trong đời sống vợ chồng nói riêng và đời sống gia đình nói chung.
Và như vậy, khi giải quyết việc ly hơn, Tồ án cần phải thẩm tra, xem xét lợi
ích của vợ chồng, của con cái, của gia đình và xã hội trong quan hệ hơn nhân
đó ra sao? Có nhìn nhận một cách tồn diện như vậy thì giải quyết ly hơn
chính xác mới mang lại kết quả tích cực thúc đẩy các quan hệ hơn nhân và gia
đình phát triển phù hợp với đạo đức Xã hội chủ nghĩa, phù hợp với lợi ích
chung tồn xã hội.
Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định

của Luật hơ nhân gia đình năm 2000 đã nêu rõ:
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Tồ án quyết định cho ly hơn
nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được,
mục đích hơ nhân khơng đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như
người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc chồng muốn
sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của ho hoặc cơ quan, tổ chức
nhắc nhở, hồ giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng ln có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường
xuyên đánh đập hoặc có hành vi xúc phạm khác đến danh dự, nhân phẩm và
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

12


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức,
đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng khơng chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ
quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ
ngoại tình.
a.2 Để có cơ sở nhận định đời sống chung khơng thể kéo dài được, thì
phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như
hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở
nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly

thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm
nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không
thể kéo dài được.
a.3 Mục đích của hơn nhân khơng đạt được có nghĩa là khơng có tình
nghĩa vợ chồng; khơng bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng;
không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không giúp đỡ
tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt”.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài” thì thường dẫn tới “ mục đích hơn nhân khơng đạt
được”. Mục đích hơn nhân dưới chế độ XHCN là nhằm mục đích xây dựng
gia đình ấm no, bình đẳng , tiến bộ, hạnh phúc và bền vững ( Điều 1 Luật
HNGĐ 2000). Tờ trình về dự luật hơn nhân gia đình 1959 của Chính phủ
trước Quốc hội đã chỉ rõ: “ Mục đích của hơn nhân trong chế độ ta là xây
dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hồ thuận, trong đó mọi người
thương u, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống
được lành mạnh, tương lai con cái được tốt đẹp, cho xã hội được phát triển
thịnh vượng và làm cho mọi người trong gia đình đều phấn khởi lao động,
cùng nhau cải thiện đời sống và kiến thiết tổ quốc.”Điều đó thể hiện mối liên
hệ hài hồ, gắn bó giữa mặt riêng tư và mặt xã hội trong quan hệ hôn nhân.
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

13


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

Nếu hạt nhân của xã hội tồn tại khơng bình thường và lành mạnh, quan hệ vợ
chồng tồn tại khơng có lợi cho gia đình và cho xã hội thì ly hơn là tất yếu

không tránh khỏi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 Luật hơn nhân và gia đình năm
2000: “ Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tun bố mất
tích xin ly hơn thì Tồ án giải quyết cho ly hôn”. Quy định này đã cụ thể hố
hậu quả của việc Tồ án tun bố cơng dân bị mất tích trong Bộ luật dân sự
của Nhà nước ta. Trong quan hệ hơn nhân và gia đình việc chồng hoặc vợ bị
mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ vợ chồng và các thành viên trong
gia đình. Cần phải giải phóng cho vợ hoặc chồng thốt khỏi “ hồn cảnh đặc
biệt” này, khi họ có u cầu được ly hôn với người chồng ( vợ) đã bị Tồ án
tun bố mất tích.
Như vậy căn cứ ly hơn trong luật hơn nhân gia đình Việt Nam năm
2000 của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác
– Lênin có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm
qua. Từ khi Nhà nước ta ban hành Luật HNGD năm 1959, khi giải quyết ly
hôn không thể hiểu đơn thuần “ tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng
thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được” là tình u giữa vợ chồng
khơng cịn nữa mà điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ
vợ chồng khơng thể tồn tại được nữa vì “ sự tồn tại của nó chỉ là bề ngồi và
giả dối” và ly hơn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng
như các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó, bảo
đảm lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
1.3 Quyền ly hôn
Ly hôn thực chất là mặt trái của quan hệ hôn nhân. Việc ly hôn là bất
đắc dĩ khi quan hệ vợ chồng đã đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Trước đây, do ảnh hưởng của những quan niệm cũ lạc hậu thì việc ly
hơn bị coi là hiện tượng khơng bình thường, phần nào bị xã hội lên án và bị

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

14



Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

hạn chế nhất là đối với phụ nữ việc chủ động ly hôn là điều khó có thể chấp
nhận.
Tuy nhiên những năm gần đây cách nhìn nhận vấn đề ly hơn có xu
hướng thống hơn và ly hơn được xem như là một hiện tượng bình thường,
một quyền dân sự của cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ
Bộ luật dân sự 1995 ( Điều 38) và BLDS 2005 ( Điều 42) đã quy định “
vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền u cầu Tồ án cho chấm dứt
quan hệ hơn nhân khi có lý do chính đáng”. Ly hôn là mặt trái của quan hệ
hôn nhân chỉ đặt ra khi hạnh phúc gia đình khơng cịn tồn tại, cuộc sống
chung nảy sinh nhiều mâu thuẫn, mục đích của việc kêt hôn không đạt được.
Với đặc điểm của quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình, quyền kết hôn, ly
hôn là quyền nhân thân không thể chuyển giao, chỉ có chủ thể của quan hệ
pháp luật mới có quyền yêu cầu giải quyết. Nên cha mẹ bên vợ hoặc bên
chồng hay bất cứ người nào khác không thể u cầu Tồ án giải quyết việc ly
hơn, mà chỉ có vợ chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền u cầu ly hơn
khi có lý do chính đáng. Theo khoản 1 Điều 85 Luật hôn nhân gia đình năm
2000 quy định: “…đối với việc ly hơn đương sự không được uỷ quyền thay
cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”. Như vậy, quyền yêu cầu Tồ
án giải qutts cho ly hơn là quyền của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng.
Quyền này gắn liền với nhân thân của vợ chồng, không thể chuyển gia.
Nhưng hiện nay bàn về vấn đề quyền ly hơn đã xó một số vướng mắc giữa
quy định của luật nội dung và luật hình thức. Cụ thể là sự khơng phù hợp giữa
luật hơn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ nhất: đó là trường hợp bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị

tâm thần khởi kiện xin ly hôn hay khơng? Trong thời gian qua có một vài vụ
việc bố hoặc mẹ viết đơn gửi Toà án với tư cách là người đại diện xin ly hôn
thay cho người con của mình mắc bệnh tâm thần, các Tồ án đã lúng túng
trong xử lý? Có Tồ án trả lại đơn kiện, có Tồ án thụ lý vụ án và xem xét yêu
cầu mà người đại diện đưa ra. Thực tế cũng có trường hợp trong hồ sơ đơ xin
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

15


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

ly hơn do người bị bệnh tâm thần đứng tên, và bố hoặc mẹ có đơn gửi Tồ án
xin là người đại diện cho con đang bị tâm thần đã mất năng lực hành vi dân sự
để giải quyết ly hôn cho con.
Đối với loại việc này nên xử như thế nào hiện cịn có nhiều quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật
hôn nhân gia đình, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 62, 67, 139 Bộ luật
dân sự thì việc xin ly hôn là một loại quan hệ nhân thân gắn liền với mỗi chủ
thể, không thể tách rời. Do đó, khơng ai có thể uỷ quyền cho người khác thay
mặt mình trước Tồ án để giải quyết việc ly hơn; nếu người đó mất năng lực
hành vi dân sự thì cũng khơng ai có thể đại diện họ để khởi kiện xin ly hôn và
đại diện cho họ trước Toà để giải quyết quan hệ nhân thân này. Do đó, Tồ án
phải trả lại đơn khởi kiện của bố hoặc mẹ đứng đơn với tư cách là người đại
diện cho người con mất năng lực hành vi dân sự trong vụ án ly hơn, vì những
người này khơng có quyền khởi kiện để xin ly hơn hay chia tài sản chung thay
cho gười mất năng lực hành vi dân sự.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Khi người vợ hoặc người chồng của người
mất năng lực hành vi dân sự mà thiếu trách nhiệm vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ vợ chồng với người đang mất năng lực hành vi dân sự, thì bố hoặc
mẹ sẽ là người giám hộ, người đại diện đương nhiên cho con mình khởi kiện
xin ly hơn, chia tài sản, con cái… Tồ án phải thụ lý giải quyết đơn của họ.
Nếu Toà án thấy khơng thể duy trì được quan hệ vợ chồng thì Toà án cho
người vợ hoặc người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự ly hôn và giải
quyết các quan hệ khác kèm theo nếu người đại diện yêu cầu.
Quan điểm thứ ba cho rằng bố hoặc mẹ của người mất năng lực hành vi
dân sự khơng có quyền đại diện thay con để xin ly hơn, vì đó là quan hệ nhân
thân không được uỷ quyền, không được đại diện. Bố hoặc mẹ của người đó
chỉ có quyền đại diện cho con để khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết quan hệ

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

16


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

con cái, tài sản, yêu cầu buộc bên kia cấp dưỡng và Toà án phải thụ lý, giải
quyết quan hệ con cái, tài sản khi bố mẹ đại diện yêu cầu.
Như vậy, để xác định bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị bệnh
tâm thần khởi kiện xin ly hôn hay khơng thì cần phải nghiên cứu chế định đại
diện và chế định giám hộ được quy định trong Bộ luật dân sự. Tại khoản 2
Điều 24 Luật hôn nhân gia đình quy định rõ: “ vợ chồng đại diện cho nhau khi
một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người
giám hộ”. Nhưng nếu người vợ ( hoặc chồng) mất năng lực hành vi dân sự mà

người chông ( hoặc vợ) không chăm sóc, khơng chung thuỷ, thậm chí cịn
đánh đập hành hạ họ và lấy tài sản chung cho người tình hoặc tẩu tán tài sản
chung thì trong trường hợp này người chồng ( hoặc vợ) khơng làm được vai
trị là người giám hộ, là người đại diện mà pháp luật đã trao cho họ, vậy ai có
quyền đại diện cho người vợ ( hoặc chồng) mất năng lực hành vi dân sự để
khởi kiện bảo vệ quyền nhân thân như quyền ly hôn, quyền tài sản cho họ
không? Vấn đè này đang đặt ra nhiều vướng mắc mà vẫn chưa có hướng dẫn
cụ thể.
Thứ hai: Về vấn đề người đại diện theo pháp luật trong vụ án ly hôn.
Căn cứ vào quy định của pháp luật về hôn nhân và thực tế trong đời sống xã
hội, đã có nhiều nam nữ vừa câm, vừa điếc hoặc nam nữ đều mù hai mắt mà
đã kết hôn với nhau. Hoặc khi kết hơn, nam nữ đều là người bình thường,
nhưng trong q trình chung sống, lao động, sản xuất, làm việc, sinh hoạt thì
một bên vợ ( chồng) trở thành người mắc bệnh tâm thần hoặc là người có
nhược điểm về thể chất hoặc là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và
họ lại có u cầu Tồ án giải quyết ly hôn. Như vậy, trong thực tế đã có các
trường hợp ly hơn đối với người mắc bệnh tâm thần hoặc đối với có nhược
điểm về thể chất. Vấn đề đặt ra là trongg các trường hợp ly hơn này, thì đương
sự có đại diện tham gia tố tụng khơng? Nếu có thì người đại diện nào? Thủ
tục giải quyết như thế nào là hợp pháp?

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

17


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang


Ví dụ 1: Vợ chồng đều mù cả hai mắt mà một bên có u cầu ly hơn.
Anh Lê Đình M ( mù hai mắt) kết hôn với anh Nguyễn Thị H ( mù hai mắt)
đã hơn 10 năm, vào tháng 6 năm 2008, anh M có đơn u cầu Tồ án giải
quyết ly hôn với chị H ( đơn nhờ người khác viết, anh M chỉ điểm chỉ vào
đơn). Khi giải quyết vụ ly hơn giữa anh M với chị H, Tồ án huyện P tỉnh H
đã có ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng: nguyên đơn và bị đơn đều phải
có người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng. Ý kiến khác lại cho
rằng: giải quyết ly hôn theo thủ tục tố tụng thông thường mà khơng cần có
người đại diện theo pháp luật. Vì những người mù trong vụ án ly hôn không
thuộc trường hợp có người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng.
Ví dụ 2: Ly hơn đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Chị
Nguyễn Thị L kết hôn anh Trần Văn P từ năm 1998 đã có một con chung. Sau
khi ly hơn, chị L mới biết anh P là người nghiện ma tuý. Anh P đã vào trại cai
nghiện một thời gian được trở về nhà, nhưng anh P bị nghiện lại.Hậu quả của
việc tái nghiện là anh P khơng phụ giúp gì cho vợ con trong sinh hoạt gia đình
mà bán hết tài sản của gia đình để lấy tiền mua ma tuý. Anh P nói năng như
người hun thun như người khơng biết gì, thỉnh thoảng lại đánh chưởi vợ
con thậm tệ, vợ chồng không thể sống chung được với nhau.
Năm 2007, chị L có đơn u cầu Tồ án giải quyết ly hôn đối với anh P.
Khi giải quyết vụ ly hôn này, ồ án huyện C, tỉnh H đã có ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng: yêu cầu chị L có đơn u cầu Tồ án tun bố anh P là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, nếu Toà án chấp nhận yêu cầu của
chị L và ra quyết định tuyên bố anh P là người hạn chế năng lực hành vi dân
sự thì sau đó Toà án sẽ chỉ định người đại diện theo pháp luật theo quy định
tại khoản 3 Điều 414 của Bộ luật dân sự để người đại diện theo pháp luật
tham gia tố tụng. Ý kiến khác lại cho rằng: thực hiện theo cơng văn số
57/KHXX ngày 21/9/1996 của Tồ án nhân dân tối cao yêu cầu phía anh P cử
người đại diện để tham gia tố tụng và giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục

SVTH:Nguyễn Thị Thảo


18


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

thơng thường mà không cần phải tiến hành thủ tục tuyên bố anh P là người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Vấn đề thứ ba: Đó là về vấn đề có được giải quyết việc ly hôn cho
người vợ chưa thành niên không? Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hơn
nhân gia đình năm 2000 thì “ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên có
thể đăng ký kết hơn”,và theo các văn bản hướng dẫn Luật hơn nhân gia đình
năm 2000 đó là: Nghị định số 70/2001/ND – CP của Chính phủ ngày
3/10/2001; cơng văn số 268/TP – HT của Bộ tư pháp ngày 19/4/2001; Nghị
quyết số 02/2000/NQ – HDTP của Hội đồng thẩm phán Tồ án nhân dân tối
cao ngày 23/12/2000 thì khơng buộc nam nữ phải đủ 20 tuổi, nữ phải đủ 18
tuổi trở lên mới được kết hôn, mà chỉ cần nam bước sang tuổi 20, nữ bước
sang tuổi 18 là đủ điều kiện về độ tuổi kết hôn. Như vậy, đối với nữ “ bước
sang tuổi 18” có nghĩa là từ đủ 17 tuổi + 1 ngày là có thể đăng ký kết hơn.
Trong khi đó, theo Điều 20 Bộ luật dân sự thì người thành niên là người từ đủ
18 tuổi trở lên. Từ đó nảy sinh một vướng mắc là: khi có sự kiện xin ly hơn
mà người vợ vẫn chưa đên tuổi thành niên thì Tồ án có thụ lý giải quyết
khơng?
Về ngun tắc, khi vợ chồng đã đăng ký kết hơn tại cơ quan có thẩm
quyền thì có thể xin ly hơn ngay sau ngày đăng ký nếu có lý do chính đáng.
Ví dụ: Chị B 17 tuổi 5 ngày kết hôn với anh A 25 tuổi. Đăng ký kết hơn được
5 ngày thì anh A và chị B đến Tồ án xin thuận tình ly hôn. Lúc này chị B mới
17 tuổi 10 ngày. Tuy nhiên nếu thụ lý giải quyết việc xin ly hôn của chị

B( người vợ chưa thành niên) Toà án sẽ gặp vướng mắc về pháp luật tố tụng.
Cụ thể theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì
đương sự phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi
tố tụng dân sự. Nghĩa là từ đủ 18 tuổi trở lên họ mới có quyền khởi kiện yêu
cầu Toà án giải quyết các vụ việc dân sự ( trừ trường hợp quy định tại khoản 6
Điều 57 đối với tranh chấp lao động). Như vậy, theo các quy định trên thì có
thể thấy rằng, người vợ chưa thành niên khơng thể tự mình tham gia tố tụng
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

19


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

để giải quyết việc ly hơn của chính mình, đồng thời pháp luật cũng không cho
phép người khác đại diện thay cho người vợ chưa thành niên trong vụ án ly
hôn (khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004). Rõ ràng ở đây có sự “ xung đột” giữa
luật nội dung( luật HNGD) và luật hình thức ( Luật TTDS). Việc quy định
khơng thống nhất giữa luật nội dung và luật hình thức đã dẫn đến những cách
hiểu và xử lý khác nhau giữa các cơ quan xét xử. Thiết nghĩ, nếu Toà án để
cho đương sự đủ 18 tuổi mới giải quyết thì sẽ không đảm bảo quyền lợi cho
các bên, đặc biêt là lợi ích của người vợ. Trong khoảng thời gian đó sẽ khơng
lường trước được bao nhiêu quyền lợi, lợi ích của người vợ bị xâm phạm,
không biết bao nhiêu hậu quả sẽ phát sinh. Như vậy, nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi cho người vợ và con không bảo đảm. Do đó, cần phải có một thủ tục tố
tụng quy định riêng đó là: “ Vợ chồng đã kết hơn hợp pháp thì có quyền u
cầu Tồ án giải quyết cho ly hôn”.
1.4 Hạn chế quyền ly hôn

Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo vệ phụ nữ có thai
và thai nhi Luật hơn nhân gia đình năm 2000 tại khoản 2 Điều 85 quy định: “
Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi thì chồng
khơng có quyền u cầu xin ly hôn”.
Cần hiểu rằng, trong quan hệ vợ chồng, việc sinh đẻ không phải đơn
thuần là việc riêng của người vợ, đó là việc chung, là trách nhiệm chung của
cả hai vợ chồng. Mặt khác, sinh đẻ là chức năng xã hội của gia đình. Vì vậy,
phải thấy được trách nhiệm chung đó để giải quyết vấn đề ly hơn cho thoả
đáng, hợp lý, hợp tình nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và của con cái,
bảo vệ lợi ích gia đình và xã hội.
Theo nghị quyết số 02/2000/NQ – HDTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của luật hơn nhân gia đình năm 2000 thì luật chỉ quy
định “ vợ đang có thai hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi”. Do đó, khi
người vợ đang thuộc một trong các trường hợp này ( không phân biệt người

SVTH:Nguyễn Thị Thảo

20


Khố luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người
chồng lại có yêu cầu ly hơn thì giải quyết như sau:
+ Trong trường chưa có thụ lý vụ án thì Tồ án áp dụng điểm b khoản 1
Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 trả lại đơn kiện cho người nộp đơn.
+ Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Tồ á giải thích cho người nộp đơn
biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút u cầu

xin ly hơn thì Tồ án áp dụng điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2004 ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn khơng rút u cầu
xin ly hơn thì Tồ án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết
định bác u cầu xi ly hơn.
Ngồi ra, tuy pháp luật tố tụng không quy định nhưng theo hướng dẫn
tại điểm c muc 10 Nghị quyết 02/2000/NQ – HDTP TANDTC đã chỉ rõ: Đối
với người có đơn xin ly hơn mà bị Tồ á bác đơn xin ly hơn thì sau một năm
kể từ ngày bản án, quyết định của Tồ án bác đơn xin ly hơn có hiệu lực pháp
luật, người đó mới lại được u cầu Tồ án giải quyết việc xin ly hôn. Đây là
thời gian hợp lý nhằm tạo điều kiện cho cả hai vợ chồng suy nghĩ lại về quyết
đinh xin ly hơn của mình.
Lưu ý, điều kiện hạn chế ly hôn này chỉ áp dụng đối với người chồng,
mà không áp dụng đối với người vợ. Trong trường hợp người vợ đang có thai
hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng rất
sâu sắc, tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, nếu duy trì quan hệ hơn
nhân sẽ khơng có lợi cho sức khoẻ của mình, của thai nhi hay của con mới
sinh, mà người vợ có u cầu ly hơn thì Tồ án vẫn thụ lý đơn yêu cầu xin ly
hôn của người vợ và giải quyết vụ án theo thủ tục chung
1.5 Nguyên nhân dẫn tới ly hơn
Có thể nói rằng ly hơn là một vấn đề hết sức phức tạp và tế nhị. Sau khi
đã kết hôn với nhau, đôi vợ chồng sẽ cùng nhau xây dựng tương lai của họ,
xây dựng một gia đình hạnh phúc, hồ thuận và bền vững. Nhưng thực tế
không phải cặp vợ chồng nào cũng làm được điều đó, hoặc để đạt được điều
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

21


Khoá luận tốt nghiệp


GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

đơn giản ấy họ phải mất rất nhiều thời gian, vượt qua rất nhiều khó khăn của
đời thường và tất nhiên trong số đó khơng ít cặp vợ chồng đã tan vỡ, họ đã
khơng bao giờ đến được mục đích mà họ muốn đến, muốn vươn tới.
Trong hàng ngàn vụ ly hơn thì mỗi trường hợp có một hoặc nhiều
nguyên nhân khác nhau phát sinh trong những hoàn cảnh khác nhau. Tuy
nhiên, tựu chung lại thì ly hơn xuất phát ở một số những nguyên nhân chủ yếu
sau:
1.5.1 Nguyên nhân do ảnh hưởng của những tàn tích lạc hậu của chế độ
hơn nhân và gia đình phong kiến và chế đọ hơn nhân tư sản.
Do ảnh hưởng những mặt tiêu cực của tư rưởng nho giáo, một bộ phận
khơng nhỏ gia đình vẫn tồn tại tư tưởng bất bình đẳng giới, cụ thể là “ trọng
nam khinh nữ” với các thuyết “ tam tòng tứ đức”, đối với phụ nữ. Những vụ
án ly hôn xuất phat từ nguyên nhân này cho đến nay vẫn cịn phát sinh và
khơng phải là ít. Biểu hiện của loại nguyên nhân này là:
- Sự độc tôn gia trưởng trong quan hệ vợ chồng của người chồng
- Ảnh hưởng của gia đình ( cha mẹ hai bên) đến quan hệ hơn nhân.
Nhiều khi là ngun nhân chính dẫn đến ly hôn ( chẳng hạn nhà chồng hoặc
vợ đã trả con dâu hoặc con rể về bên gia đình vợ hoặc chồng thì con phải
nghe theo)
- Vợ hoặc chồng sống bng thả, cờ bạc, rượu chè…
- Khơng có quan niệm rõ ràng về xây dựng gia đình hạnh phúc, bền
vững.
- Xây dựng cuộc hôn nhân với ý thức lợi dụng lẫn nhau…
1.5.2 Nguyên nhân về tâm lý, sinh lý, sức khoẻ
Những nguyên nhân này tuy không phải là nhiều nhưng cũng rất đáng
quan tâm và thường một hoặc hai bên ít thổ lộ ra. Biểu hiện của loại nguyên
nhân này là:
- Tính tình trái ngược, khơng phù hợp nhau, thường gây ra những bất

đồng hoặc khó chịu với nhau
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

22


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

- Biểu lộ tình cảm khác nhau, sự quan tâm đến nhau biểu hiện không rõ,
dễ làm hiểu lầm nhau.
- Khả năng quan hệ sinh lý không đáp ứng yêu cầu để dẫn đến ngoại tình
hoặc khơng thể có con với nhau.
1.5.3 Ngun nhân về kinh tế
Đây là loại nguyên nhân tương đối phổ biến, điều đáng chú ý là nhiều
cặp vợ chồng gặp khó khăn kinh tế sinh ra mâu thuẫn và ly hơn, nhưng một số
khác thì do điều kiện kinh tế khá hẳn lên cũng sinh ra mâu thuẫn và ly hôn.
Biểu hiện của loại nguyên nhân này là:
- Kinh tế gia đình đang khá giả thì gặp khó khăn ( như kinh doanh thua
lỗ, bị sa sút..) từ đó vợ chồng lục đục, mâu thuẫn dẫn đến ly hôn
- Phát sinh từ một khoản nợ lớn do vợ hoặc chồng gây ra
- Kinh tế gia đình đang bình thường thì gặp thuận lợi và trở nên khá giả
hoặc giàu có vợ hoặc chồng dễ sinh ra nghi kỵ nhau, dành quyến quản lý, tiêu
pha tiền bạc phug phí hoặc sinh ra tật cờ bạc, quan hệ ngoại tình…từ đó dẫn
đến mâu thuẫn với nhau.
- Một hoặc hai bên lo thu vén riêng cho mình như mua sắm tiêu sài riêng
hoặc cho cha, mẹ, anh,chị,em mà không chăm lo đến vợ hoặc chồng, con như
xây nhà, mua tài sả cho cha,mẹ.anh.em trong khi vợ hoặc chồng,con thì nheo
nhóc

1.5.4 Ngun nhân ngoại tình và ghen tng
Ngun nhân này thường là hệ quả của các nguyên nhân khác như tư tưởng
đàn ông “trai năm thê, bảy thiếp” tồn tại trong một số người chồng hoặc lối
sống hưởng thụ cái mới lạ hoặc tình cảm, tính tình khơng hợp nhau rồi đi tìm
“người khác”, … Tất cả những nguyên nhân trên có thể dẫn đến người vợ
hoặc người chồng ngoại tình, thậm chí có trường hợp “ơng ăn chả, bà ăn
nem”, cuộc sống vợ chồng không trung thực, chung thuỷ với nhau, mâu thuẫn
rồi ly hôn. Biểu hiện của loại nguyên nhân này là:
- Một hoặc cả hai bên ngoại tình, sống khơng chung thuỷ với nhau
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

23


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

- Một hoặc cả hai bên có tính ghen và thường ghen tng vô cớ khiến
cho một bên không thể chịu đựng được
1.5.5 Nguyên nhân vợ chồng có sự khác biệt về địa vị xã hội, trình độ học
vấn
Biểu hiện của loại nguyên nhân này là:
- Một bên vợ, chồng có trình độ học vấn khác xa nhau, chẳng hạn một
người có trình độ đại học hoặc một người chỉ mới học hết lớp 2 phổ thơng.
- Một bên vợ chồng có địa vị xã hội cao.
1.5.6 Nguyên nhân do thiếu những hiểu biết cơ bản về quan hệ hôn nhân
Biểu hiện của loại nguyên nhân này là:
- Một hoặc hai bên thiếu hiểu biết, quan niệm không đúng về hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ.

- Khơng có sự chuẩn bị cho việc chung sống sau kết hôn một cách thực
tế
- Kết hôn vội vã, thiếu sự tìm hiểu nhau trước.
- Khơng hiểu biết về luật hơn nhân và gia đình, khơng nắm vững những
nguyên tắc về xây dựng gia đình trong xã hội mới, dẫn đến nhận thức xử sự
trái pháp luật từ đó dẫn đến ly hơn.
1.5.7 Ngun nhân về nghề nghiệp, nơi cư trú, môi trường sinh sống
Biểu hiện của loại nguyên nhân này là:
- Khác biệt về nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến tính cách và sinh hoạt
hàng ngày
- Ảnh hưởng của bệnh nghề nghiệp làm thay đổi cách sống, tính tình, sức
khoẻ.
- Thay đổi nơi làm việc như do làm xa nhà, công việc thường xuyên phải
đi công tác xa, di chuyển địa điểm như thuỷ thủ đi tàu viễn dương, tài xế lái
xe đường dài, buôn bán đường dài, đi lao động học tập ở nước ngoài, …
- Thay đổi nơi cư trú như một người đi xuất cảnh định cư ở nước ngoài
- Thay đổi điều kiện sinh sống như từ nông thôn lên thành thị
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

24


Khoá luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Thái Tăng Bang

Trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ly hôn của nhiều cặp vợ
chồng hiện nay. Ngoài những nguyên nhân vừa nêu, còn tồn tại rất nhiều
nguyên nhân khác trực tiếp và gián tiếp dẫn đến tình trạng ly hơn như vấn đề
bạo lực gia đình là một hiện tượng rất phổ biến trong xã hội ngày nay. Theo

số liệu của Toà án nhân dân tối cao, từ ngày 01/01/2000 – 31/12/2005, các
Toà án tỏng địa phương đã thụ lý và giải quyết sơ thẩm 352.047 vụ việc về
lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Trong đó đã xử 186.954 vụ ly hơn do bạo lực
gia đình, chiếm 53,1% trong tổng số vụ ly hơn.Riêng năm 2005 có đến 39.730
vụ ly hôn trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân gia đình, chiếm tỷ lệ
60,3%. Trên thực tế thì thường các nguyên nhân này ẩn vào nhau, xen kẽ lẫn
nhau. Nhiều nguyên nhânn loại này là nguyên nhân phát sinh của loại nguyên
nhân kia hoặc ngược lại chứ không đứng tách rời độc lập.
Thực tiễn xét xử ở Toà án giải quyết cho các cặp vợ chồng được ly hơn
khi có 1 trong 8 ngun nhân sau: tính tình khơng hợp; mâu thuẫn gia đình;
ngoại tình; mâu thuẫn về kinh tế; xa cách lâu năm; bệnh tật khơng có con; một
bên bị xử giam hoặc đi công tác ở nước ngoài; ở lại nước ngoài hoặc người
nước ngoài đã về nước; đánh đập, ngược đãi nhau, phá tán tài sản như ma tuý,
đánh bạc, đập phá tài sản và những lý do khác như trường hợp vợ chồng
“đóng cửa bảo nhau” ở các gia đình tri thức. Khi giải quyết, Tồ án cịn căn
cứ vào mức độ các ngun nhân trên và còn tuỳ vào các trường hợp cụ thể mà
quyết định cho ly hô hoặc bác đơn ly hơn của đương sự.
1.6. Hồ giải khi ly hơn
1.6.1. Việc khuyến khích hồ giải ở cơ sở khi có u cầu ly hôn
Điều 86 Luật HNGĐ 2000 quy đinh: “ Nhà nước và xã hội khuyến khích việc
hồ giải ở cơ sở khi vợ, chồng có u cầu ly hơn. Việc hoà giải được thực
hiện theo quy định của pháp luật về hoà giải ở cơ sở.
Hoà giải ở cơ sở là một trong những hình thức hồ giải có sự giúp đỡ của
người trung gian như tổ hoà giải, hoặc các hình thức thích hợp khác của nhân
dân ở các thơn xóm,bản ,ấp, tổ dân phố, cụm dân cư. Bằng các lý lẽ có tình có
SVTH:Nguyễn Thị Thảo

25



×