Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu MÀU SẮC VÀ ÁNH SÁNG TÂM LINH NƠI THỜ TỰ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.21 KB, 6 trang )

MÀU SẮC VÀ ÁNH SÁNG TÂM LINH NƠI THỜ
TỰ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm chùa Bà Đá, Hà Nội
Khu vực đồng bằng Bắc Bộ là nơi tập trung nhiều đình, chùa, đền, miếu, văn
chỉ, võ chỉ, từ đường... là nơi thờ thành hoàng làng, thờ phật, thờ thánh, thờ thần, thờ
các đường âm liệt tôn, liệt tổ của các gia tộc, dòng họ v.v.. Tục thờ các vị ngay trên
quê hương mình và theo tập quán thờ tự đã có ngàn xưa để lại.
Hầu hết kiến trúc các nơi thờ tự ở khu vực đồng bằng bắc bộ từ buổi sơ khai là
kiến trúc kiểu chữ Nhất, rồi chữ Nhị, chữ Công, chữ Đinh, chữ Tam, nội công ngoại
quốc v.v.. với hệ mái vì kèo đòn tay thượng lương, dùi, mè... để đỡ mái. Lúc đầu mái
lợp lá, lợp rơm, lợp rạ, lợp cỏ tranh, sau này lại lợp ngói để chống nắng mưa và có độ
bền cao. Các công trình kiến trúc phục vụ tín ngưỡng tôn giáo có đặc thù riêng với hệ
mái cong và bốn góc theo kiểu tàu đao, lá mái, lòng thuyền,... rồi chồng mái, kéo mái,
nối mái, vẩy mái... Chiều cao mái bằng 2/3 chiều cao công trình. Hệ mái này còn được
gắn các tượng tròn, phù điêu, hoa lá cách điệu, con kìm, hoặc tứ linh (long - li - qui -
phượng) tạo ra các giá trị thẩm mĩ cho kiến trúc công trình. Đồng thời che mưa, che
nắng và tạo ánh sáng lung linh huyền ảo cho nội thất kiến trúc nơi thờ tự.
Màu sắc và ánh sáng tâm linh trong nơi thờ tự nói chung tương tự nhau do kết
cấu và bố cục kiến trúc. Khu vực có ánh sáng mạnh nhất là ở ngoài sân, tiếp đến là tiền
tế hoặc tiền đường (ánh sáng giảm dần và gần như tối hẳn). Khi bước qua hàng hiên và
bậc cửa ta thường phải dừng lại giây lát rồi mới bước tiếp bởi ánh sáng đã giảm đáng
kể, tới hậu cung thâm nghiêm thì màu sắc và ánh sáng nơi đây đã khác hẳn, nó đã hoàn
toàn hoà nhập với kiến trúc trong không gian u tịch. Màu sắc và ánh sáng được bộc lộ
thật rõ khi nó được phân chia bởi hệ thống lớp lang của không gian kiến trúc nơi tôn
nghiêm của tín ngưỡng, tôn giáo... Trong phạm vi bài viết này xin được giới hạn ở
màu sắc và ánh sáng tâm linh trong nơi thờ tự ở các ngôi chùa thuộc khu vực đồng
bằng Bắc Bộ.
Trong hệ thống kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo, chùa làng là một trong những thể
loại kiến trúc tạo nên nhiều nét đẹp truyền thống. Đây là những công trình kiến trúc gỗ
kết hợp với đá, đất nung, ở vài nơi còn dùng cả đá ong thô nhám rất thẩm mĩ. Hầu hết


các chùa làng đều có trang trí trên hệ thống kết cấu kiến trúc, các hình chạm khắc hay
phù điêu gỗ được trang trí, tập trung nhất vẫn là ở khu vực phật đường, đây là khu thờ
tự chính. Mật độ chạm khắc thường dày đặc trên cốn, ván bưng, vì kèo, cửa võng,
hoành phi câu đối, đại tự... Tuy các hình trang trí trên kiến trúc còn phụ thuộc vào độ
lớn, nhỏ của gỗ, nhưng nó rất tinh vi, uyển chuyển bởi những bàn tay tài khéo của các
nghệ nhân làng nghề, họ đã mang hết tâm, hết sức vào công việc của nhà Phật...
Khu vực tòa thượng điện có mật độ ánh sáng tự nhiên giảm tới mức tối đa và
nhường chỗ cho ánh sáng nhân tạo tác động vào không gian nội thất. Hơn nữa ở phật
điện, lớp trên cùng trong xa nhất thờ hết thảy các chư Phật, lớp dưới ở giữa là điện thờ
phật và bồ tát chủ việc tiếp dẫn chúng sinh về cõi cực lạc, lớp thứ ba thờ Phật và bồ tát
chủ việc giáo hoá chúng sinh ở cõi sa bà (là cõi thế giới ta ở đây), lớp thứ tư thờ Phật
Thích Ca mới giáng sinh ra ở đời và hai vị Thiên Vương làm chủ tể trên cõi trời, các
lớp ngoài thờ bốn vị Thiên Vương và Thiên Thần chủ việc hộ trì Pháp Phật.. Theo cái
lí ấy thì ở trong điện Phật phải có bốn lớp hay sáu lớp từ trong cùng điện ra đến ngoài
bái đường. Các lớp tượng khá dày đặc được bài trí từ cao đến thấp, từ trong ra ngoài,
do vậy ánh sáng ở nơi đây lại càng âm u, huyền ảo, tĩnh mịch... Mặt khác, nhiệt độ
không khí ở nơi đây so với bên ngoài cũng giảm hẳn, khiến ta có một cảm giác nhẹ
nhàng, dễ chịu như đang bước vào một thế giới khác với thế giới bên ngoài, để tĩnh
tâm hướng tới cảnh Phật.
Phụ thuộc vào qui luật của tự nhiên mà ánh sáng trong kiến trúc, điêu khắc ở
chùa cũng thay đổi theo, nhưng ở một góc độ nào đó thì nội thất chùa đã giải quyết
được những ưu điểm của ánh sáng trong nội thất bằng ánh sáng nhân tạo mang tính
khả quan. Xét chi tiết về ánh sáng trong chùa tôi xin có mấy nhận xét sau:
Trong chùa luôn có sự thay đổi không gian ánh sáng theo mùa khác nhau. Mùa
hạ, mùa thu ánh sáng nhiều; mùa đông, mùa xuân ánh sáng ít.
Ngay trong ngày nơi đây cũng luôn có sự thay đổi không gian ánh sáng theo
thời gian, từ mờ sáng đến trưa, chiều, tối và đêm.
Mật độ và vị trí bày đặt tượng pháp khác nhau, dẫn đến cường độ ánh sáng của
từng nơi trong chùa cũng không hoàn toàn giống nhau.
Trong khuôn viên chùa cho thấy: khu sáng nhất là hành lang, rồi đến tiền

đường, ít hơn là thiêu hương. Toà thượng điện là ít ánh sáng hơn cả, nên tối nhất.
Dựa vào những điều kiện khách quan của ánh sáng tự nhiên và điều kiện bắt
buộc của việc bài trí tượng pháp trong chùa mà ta phải có hệ thống ánh sáng nhân tạo
cho phù hợp với không gian kiến trúc nơi thờ tự.
Toà bái đường có ánh sáng mạnh nên các pho tượng hiện diện nhiều chi tiết,
mỗi pho tượng lại có vai trò và tư thế biểu lộ khác nhau, các nghệ nhân lại sơn các
màu cụ thể khác nhau để diễn tả các chất liệu khác nhau trên các pho tượng. Do vậy
khi được ánh sáng chiếu vào, làm khối thay đổi về ảo giác, đã tạo nên sự sống động
cho các pho tượng. Mặt khác bản thân mỗi pho tượng tự bộc lộ hình khối riêng, nhưng
lại hoà nhập được với quần thể chung để tạo nên nét đẹp hài hoà của tổng thể không
gian nghệ thuật. Tòa bái đường có nhiều ánh sáng nhất nên sự va đập của ánh sáng tự
nhiên đã ảnh hưởng trực tiếp đến các pho tượng, làm nổi bật các chi tiết trang trí và
khối điêu khắc trong thủ pháp thể hiện tính cách nhân vật. Do vậy, đã in sâu ấn tượng
cho các tín đồ khi đứng trước các tác phẩm nghệ thuật mang phong cách tả thực này.
Khu vực thiếu ánh sáng nhất là toà thượng điện. Nơi đây là thế giới tượng pháp
các chư phật, bồ tát, thiên vương và thiên thần... Ta chỉ nhìn thấy và cảm thấy hình
bóng của các ngài đứng, ngồi, lớp trước, lớp sau chứ hoàn toàn không thể thấy cụ thể
được các chi tiết. Các pho tượng ở khu vực này chỉ phủ hoàng kim và sơn son thiếp
vàng, khi được đón ánh sáng từ các đèn dầu và nến, ánh sáng kim loại của từng pho
tượng sẽ tự phát sáng như ánh hào quang, lung linh và huyền ảo vì bản thân mỗi pho
tượng là một nguồn sáng tự thân, nên đã tạo ra được sự hư hư, thực thực phù hợp với
triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.
Phía sau điện thờ Phật có nhà tổ (còn gọi là Tăng đường), ở Việt Nam các nhà
tổ trong chùa thường thấy thờ đức Ananđà làm thánh tăng.
Trên bàn thờ các vị tổ ở tăng đường còn thờ đức “Tổ tây” chính Pháp danh của
ngài là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Đáng lẽ ở nhà tăng đường chỉ thờ vị Thánh
Tăng và Chư Tổ đã tu ở chùa mà thôi. Song ta thường thấy ở gian giữa nhà ấy có ban
thờ Phật, gian bên hữu có ban thờ các Tổ, ban bên tả có ban thờ Chư Vị.
Chư vị nói chung là các vị thánh thần của Điện tứ phủ là thiên phủ, địa phủ,
thuỷ phủ và nhạc phủ, cùng các thánh mẫu ở tam toà là Đệ Nhất Thượng Thiên, Đệ

Nhị Thượng Ngàn, Đệ Tam Thoải Cung... Chư vị thánh thần của điện thờ tứ phủ
không có quan hệ gì đến đạo Phật, nhưng trong tín ngưỡng dân gian, dân ta thường tin
các vị thần thánh ấy có can dự đến sinh mệnh, hoạ, phúc của đời người nên chùa
thường làm ra điện tứ phủ bên cạnh để thờ chư vị. Khu vực này thường là nhà một lớp
kiểu chữ Nhất, chan hoà ánh sáng nên các tượng thờ thấy rất rõ hình khối, đường nét
và đặc tính của từng ngôi vị. Được tô vẽ sơn màu, tả chất và còn có cả xiêm y như

×