Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.36 KB, 19 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Lược sử chữ Hán Giới thiệu: Chữ Hán là chữ của Trung Quốc đã sáng tạo từ thời xa xưa dựa trên việc vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt Tự 甲骨字), xuất hiện vào đời nhà Ân (殷) khoảng thời 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mu rùa hay xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được. Lịch sử chữ Hán trải qua các hinh dạng Chữ Giáp Cốt, chữ Kim, chữ Triện, chữ Lệ. chữ Khải và chữ Thư hiện nay. 1. Giáp cốt văn Giáp cốt văn 甲骨文 nghĩa đen là chữ viết được khắc trên mai rùa (giáp) và xương thú (cốt). Giáp cốt văn (hay chữ giáp cốt) là thể chữ Hán cổ xưa nhất được tìm thấy cho đến ngày nay. Thời đại của những mảnh xương thú, mai rùa có khắc chữ giáp cốt là thời kì Ân Thương.. Lịch sử:.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Nội dung của những đoạn văn tự giáp cốt chủ yếu là nói về việc bói toán. Người đời Thương thường dùng mai rùa, xương thú để xem bói. Người ta đốt xương hoặc mai rùa rồi căn cứ vào những vết rạn trên đó để đoán cát hung (những vết rạn đó được gọi là “triệu”兆). Ngoài ra giáp cốt văn còn ghi chép về khí tượng, địa lí, thiên văn, tôn giáo… phục vụ cho tầng lớp vua chúa. Giáp cốt văn hoàn chỉnh nhất là vào thời Vũ Đinh nhà Thương, và lượng văn tự được tìm thấy ngày nay cũng chủ yếu ở vào thời kì này. Khoảng đời Quang Tự nhà Thanh, một số nông dân đi hái lạc đã vô tình tìm được những mảnh mai rùa, xương thú có khắc chữ. Họ cho rằng đó là “long cốt” và bán cho các hàng thuốc bắc. Sau đó được nhà kim thạch học Vương Ý Vinh tình cờ phát hiện, ông cho rằng đó là một loại văn tự cổ được khắc trên mai rùa, xương thú chứ không phải “long cốt”. Nghiên cứu sau này đã chứng minh nhận định của ông. Địa điểm tìm được những mảnh xương trên chính là kinh đô cũ của nhà Thương, gọi là Ân Khư 殷墟. Đặc điểm: Chữ giáp cốt là loại văn tự sơ khai, có người cho rằng đó là tiền thân của chữ Hán, cũng có người liệt nó vào một thể loại chữ Hán hoàn chỉnh. Chữ giáp cốt sử dụng các phương pháp tượng hình, chỉ sự, hội ý để tạo chữ. Về mặt dụng tự, ta bắt gặp phương pháp giả tá. Như vậy, về mặt cấu tạo chữ thì chữ giáp cốt mang đầy đủ đặc điểm của chữ Hán thời kì đầu, theo hướng tượng hình. Những chữ dị thể trong giáp cốt văn có rất nhiều, văn tự chưa có sự quy ước thật chặt chẽ. Ngày nay, người ta tìm được khoảng 15 vạn mảnh xương, 4500 chữ, đã đọc được khoảng 1/3..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Bảng đối chiếu một số chữ giáp cốt.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 2. Kim văn Kim văn 金文 hay Minh văn 铭文, Chung Đỉnh văn 钟鼎文 tức là chữ được khắc trên đồ kim khí, cụ thể hơn là trên các chuông (chung) và vạc (đỉnh).. Lịch sử: Kim văn là bước kế thừa của giáp cốt văn, ra đời vào cuối đời nhà Thương, thịnh hành vào đời Tây Chu (tk XI trc.CN – 771 trc.CN). Đời Tây Chu thịnh hành đồ đồng, nên có rất nhiều bài văn được đúc hoặc khắc trên các đồ đồng, đặc biệt là trên những chiếc chuông và vạc. Vì thể loại văn tự này được tìm thấy dưới dạng đúc hoặc khắc trên đồ kim khí nên mới có tên gọi như vậy. Kim văn được chia làm 4 loại, dựa theo 4 thời kì phát triển: Ân kim văn (khoảng năm 1300-1046 trc.CN): Ân kim văn có khá ít, thực chất cũng chỉ từ sau khi Bàn Canh rời đô mà thôi. Nội dung kim văn khá ngắn, chủ yếu là tên của người đúc hoặc tổ tiên người thợ đúc, bài dài nhất khoảng hơn 40 chữ. Tây Chu kim văn (khoảng năm 1046-771 trc.CN): thời Tây Chu, Kim văn bắt đầu hưng thịnh, ghi chép những việc đi tuần, săn bắn của vua chúa. Đông Chu kim văn (năm 770-222 trc.CN): thời kì Đông Chu, đồ sắt xuất hiện, đồ đồng cũng nhiều lên, vì thế kim văn phong phú hơn trước rất nhiều, ghi chép những việc của.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> vương công đại thần, việc chiến sự, âm nhạc… Tần Hán kim văn (năm 221-219 trc.CN): Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, tiến hành thống nhất văn tự. Kim văn chỉ còn xuất hiện trong các đồ đồng ở dân gian, đến đời Hán thì dần biến mất. 3. Chữ Đại triện Chữ Đại triện 大篆 là thể chữ lưu hành thời Tây Chu (khoảng thế kỉ XI đến năm 771 trc.CN), phát triển từ Kim văn. Khái niệm “đại triện” cũng không thống nhất. Có người cho rằng đại triện bao gồm Kim Văn và Lựu Văn, lại có người cho rằng đại triện là Lựu Văn. Cũng có khi người ta gọi tất cả các loại chữ cổ thời tiên Tần là đại triện..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Thư pháp đại triện Lựu Văn 籀文: Đời Chu Tuyên Vương (828-782 trc.CN), Kim văn được giản hóa thành Lựu Văn, vì trong Sử Lựu Thiên 史籀篇 có ghi chép 223 chữ loại này, nên gọi là Lựu Văn. Tương truyền Lựu văn là do Thái Sử Lựu sáng tạo, cũng có người cho rằng Lựu có nghĩa là “thông độc” (dễ đọc). Thạch Cổ Văn 石鼓文: Thạch cổ là chiếc trống đá. Thạch Cổ Văn là văn khắc trên.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> trống đá. Đời Đường có tìm được những chiếc trống đá khắc chữ, cho rằng Thạch Cổ Văn có vào đời Chu, cũng do Thái Sử Lựu biên soạn. Ngày nay giới khảo cổ cho rằng những chiếc trống đá này được làm vào đời Tần Mục Công. Thạch Cổ Văn là loại chữ ở khoảng sau kim văn và trước tiểu triện, nhưng lại có nhiều nét khác với đại triện tiên Tần, nên có người cho rằng Thạch Cổ Văn là loại chữ ở giữa đại triện và tiểu triện. Nhưng cũng có người nhận định rằng Lựu Văn và Thạch Cổ Văn thuộc về cùng một loại chữ, đều có thể tính là đại triện. Thạch Cổ Văn có bút pháp vuông vắn hài hòa, được nhiều người luyện thư pháp yêu thích. 4. Tiểu triện Tiểu triện 小篆 hay Tần triện 秦篆 là văn tự được nhà Tần thống nhất sử dụng sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc (221 trc.CN), là bước phát triển từ chữ đại triện, được dùng đến khoảng đời Tây Hán. Do chữ triện cách viết phức tạp, hình chữ kì lạ, có thể tùy ý thêm nét cong, nên người ta thường dùng để khắc ấn triện, đề phòng giả mạo (vì thế mà được gọi là chữ triện)..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Tác phẩm “Thất ngôn thi – Vịnh Oa” viết bằng tiểu triện Lịch sử: Năm 221 trc.CN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Sau đó, ông đưa ra các chính sách “thư đồng văn, xa đồng quỹ”书同文,车同轨 (sách viết cùng loại chữ, xe có cùng cỡ trục), tức là thống nhất văn tự, thống nhất đơn vị đo lường. Thừa tướng Lý Tư phụ trách việc thống nhất văn tự, đưa chữ tiểu triện vào sử dụng trong các văn bản chính thức. Chữ tiểu triện được xây dựng dựa trên cơ sở chữ triện của nước Tần, tiến hành giản hóa, loại bỏ những chữ dị thể của sáu nước. Việc chế định chữ tiểu triện và lưu hành toàn quốc được coi là một cuộc thống nhất văn tự có hệ thống đầu tiên của Trung.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Quốc. Chữ tiểu triện sau này nhanh chóng bị thay thế bởi chữ Lệ – thể loại chữ đơn giản, dễ viết hơn. Tuy nhiên, do chữ tiểu triện hoa mỹ, nghiêm cẩn, bố cục chặt chẽ, nên vẫn được giới thư pháp yêu thích. 5. Lệ thư Lệ thư 隶书 (hay chữ Lệ) là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển chữ Hán. Nó đánh dấu việc chữ Hán hoàn toàn thoát khỏi hệ thống tượng hình, trở thành văn tự thực sự với sự ước lệ cao trong hình chữ. Lịch sử: Nhiều người cho rằng, chữ Lệ xuất hiện cuối đời Tần. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất văn tự, sử dụng chữ tiểu triện, nhưng vì tiểu triện quá phức tạp, khó viết nên lệnh cho người giản hóa chữ triện, thành chữ lệ. Tương truyền người sáng tạo ra chữ lệ là Trình Mạo, khi ông bị giam trong tù, thấy ngục tốt viết chữ triện rất vất vả, bèn giản hóa chữ triện đi. “Lệ” nghĩa là tù nhân. Tuy nhiên, theo kết quả khảo cổ gần đây, thì chữ Lệ xuất hiện từ thời chiến quốc. Người ta tìm được những thẻ tre chép chữ Lệ ở nước Tần thời Chiến quốc chứ không phải sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất. Vì vậy, giới sử học nhận định rằng, khi Tần Thủy Hoàng tiến hành thống nhất văn tự, người ta đã sử dụng song song chữ Lệ và tiểu triện. Vậy vì sao Tần Thủy Hoàng lại yêu cầu dùng Tiểu triện? Vì Tiểu triện hình chữ hoa mỹ kì lạ hơn chữ Lệ. Chỉ có điều, sự phát triển tất yếu của lịch sử văn tự không phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của nhà cầm quyền. Loại chữ nào dễ đọc, dễ viết hơn sẽ được sử dụng. Cuối cùng, chữ Lệ thắng thế. Hay nói cách khác, cuộc thống nhất văn tự của Tần Thủy Hoàng là không thành công về mặt lựa chọn thể loại chữ. Cũng vì thế, người ta cho rằng, chữ “Lệ”隶 ở đây không phải là tù nhân, mà là “lệ thuộc”, loại chữ lệ thuộc vào chữ triện, được giản hóa từ chữ triện..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Bia miếu Hoa Sơn – Hán Lệ Đặc điểm: Chữ Lệ có thể chia làm 2 thời kì: Tần Lệ và Hán Lệ. Tần Lệ còn mang nhiều đặc điểm của chữ triện. còn Hán Lệ đã hoàn toàn thoát thai khỏi triện thư. Chữ Lệ về cơ bản đã gần giống với chữ Khải ngày nay, tuy nhiên hình chữ hơi bẹt, có “tàm đầu yến vĩ”, “nhất ba tam triết” (cái này xin giải thích sau). Chữ Lệ chỉ có 8 nét cơ bản, tốc độ viết được nâng cao hơn rất nhiều so với chữ triện. 6. Khải thư Khải thư 楷书 là bước phát triển hoàn thiện nhất của chữ Hán. Chữ Khải lưu truyền đến ngày nay, sau chữ Khải không còn thể chữ nào tiến bộ hơn nữa. Chữ Khải kết cấu chặt chẽ, nét.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> bút chỉnh tề, lại đơn giản dễ viết, vô cùng quy phạm. Phần lớn chữ in ngày nay đều thuộc về chữ Khải.. Chữ khải của Âu Dương Tuân.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Lịch sử: Chữ Khải ra đời vào khoảng đời Hán, hoàn thiện vào đời Ngụy Tấn, phát triển rực rỡ vào đời Đường. Chữ Khải thời kì đầu còn có chút xu hướng của chữ Lệ, nhưng cũng rất ít. Cuối đời Đông Hán có Chung Diêu 钟繇, Ngụy Tấn có Vương Hi Chi 王羲之, là những danh gia thư pháp nổi tiếng về chữ Khải và chữ Hành. Đời Đường, thư pháp chữ Khải phát triển cực thịnh, rất nhiều danh gia xuất hiện. Sơ Đường có Ngu Thế Nam 虞世南, Âu Dương Tuân 欧阳询, Chử Toại Lương 褚遂 良, Trung Đường có Nhan Chân Khanh 颜真卿, Vãn Đường có Liễu Công Quyền 柳公权 (xem thêm phần “tứ đại khải thể” trong mục Thư Pháp). Ngày nay, chữ Khải do tính chất quy chuẩn của nó, được sử dụng chính thức trong in ấn. Dùng nhiều nhất là Tống thể (loại chữ khải vuông dùng để in sách đời Tống), sau đó là chữ Khải tiêu chuẩn. 7. Thảo thư Thảo thư 草书 hay chữ Thảo thực chất không hẳn là một dấu mốc trong quá trình phát triển chữ Hán. Thảo thư – nói một cách đơn giản là chữ Hán được viết rất nhanh. Tuy nhiên, thảo thư không phải là viết tùy tiện mà có quy ước, quy luật riêng của mình. Lịch sử: Thảo thư ra đời khá sớm, từ đầu đời nhà Hán. Khi đó người ta dùng chữ Lệ, vì nhu cầu ghi chép nhanh nên người ta tìm cách tăng tốc độ viết, giản lược các nét bút, từ đó hình thành Thảo thư. Chữ Thảo lấy cơ sở là chữ Lệ thì được gọi là Chương Thảo 章草 (nghe nói vì Hán Chương Đế rất thích chữ Thảo mà có tên gọi như thế)..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Một tác phẩm chương thảo Sau này, khi chữ Khải ra đời, chữ Thảo lại diễn biến thành Kim thảo 今草. Người ta cũng liệt chữ Thảo của Nhị Vương (Vương Hi Chi, Vương Hiến Chi) vào hàng Kim thảo. Đặc điểm: Trong Chương Thảo, các chữ được viết giản lược, nhưng từng chữ một rất rõ ràng, giản lược không nhiều, cách viết không khác so với chữ Lệ. Kim Thảo có thể chia làm Tiểu thảo và Đại thảo (Đại thảo còn gọi là Cuồng thảo). Chữ Tiểu thảo vẫn viết tách bạch từng chữ, còn Cuồng thảo thì nét bút nối liền, vô cùng phóng túng. Chữ Cuồng thảo đã hoàn toàn thoát khỏi tính thực dụng của văn tự, mà trở thành thể chữ thuần nghệ thuật..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Cuồng Thảo của Trương Húc. Tiểu Thảo Kim Thảo cũng có quy luật giản hóa, sử dụng các phù hiệu đơn giản thay thế các bộ thủ phức tạp. Tuy nhiên với những người không quen đọc thì sẽ khá khó khăn để đọc ra các chữ Thảo. 8. Hành thư Hành thư 行书 (chữ Hành) là chữ khải viết nhanh, nhưng không đến mức như chữ Thảo. Hành thư viết tự do, nhanh chóng hơn khải, nhưng không đến mức quá phóng túng như.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Thảo, nên Hành thư là loại chữ được sử dụng phổ biến nhất trong quá trình viết tay. Lịch sử: Cổ nhân cho rằng Hành thư ra đời vào cuối đời Đông Hán. Theo khảo cứu ngày nay, Hành thư ra đời gần như song song với chữ Khải. Do Khải thư là thể chữ rất mẫu mực chỉnh tề, tốc độ viết chậm, nên chỉ thường được dùng trong công văn chính thức. Người ta viết thư từ thường viết một cách thoải mái, không quá trang trọng, nên dùng chữ Hành. Trong lịch sử thư pháp, Hành thư đạt đến trình độ cao nhất vào thời Ngụy Tấn với tác phẩm “Lan Đình Tự”兰亭序 nổi tiếng của Vương Hi Chi 王羲之. Hành thư tuy được dùng để viết bản thảo hoặc thư từ là nhiều, nhưng tác phẩm hành thư của các nhà thư pháp nổi tiếng vẫn được sưu tầm. Tiêu biểu nhất cũng chính là Lan Đình Tự, đó vốn là một bản viết nháp lời đề tựa cho tập thơ Lan Đình..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trích đoạn Lan Đình Tự – Phùng Thừa Tố đời Đường lâm lại Ngày nay, chữ Hành vẫn được sử dụng rất phổ biến do tính thực dụng cao của nó. Thư từ và các bản chép tay thường đều dùng chữ Hành để viết cả. Lục thư giản yếu Lục thư 六書 là để chỉ 6 cách tạo ra chữ Hán, bao gồm: tượng hình 象形, chỉ sự 指事, hội ý 會意, hình thanh 形聲, chuyển chú.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> 轉注 và giả tá 假借. Trong đó người ta thường chia ra: tượng hình, chỉ sự là tạo tự pháp 造字法 (cách tạo chữ); hội ý, hình thanh là tổ tự pháp 組字法 (cách ghép chữ), chuyển chú, giả tá là dụng tự pháp 用字法 (cách dùng chữ); chứ không coi cả 6 cách trên đều là tạo tự pháp. 1. Tượng hình 象形:. Tượng hình là dùng nét bút để miêu tả trực tiếp sự vật, ví dụ như chữ nguyệt 月 vẽ hình mặt trăng, chữ nhật 日 vẽ hình mặt trời. Chữ tượng hình là loại chữ sơ khai nhất, và có tính hạn chế, vì có rất nhiều sự vật sự việc không thể dùng hình vẽ để miêu tả. 2. Chỉ sự 指事:. Chữ chỉ sự khác chữ tượng hình ở chỗ tính hội họa của nó trừu tượng hơn nhiều. Chủ yếu là dùng kí hiệu đánh dấu để nói tới sự vật sự việc. Ví dụ chữ thượng 上, chữ hạ 下. Vẽ vạch ngang, rồi đánh dấu bên trên (thượng) hoặc bên dưới (hạ)..
<span class='text_page_counter'>(18)</span> 3. Hình thanh 形聲: Chữ hình thanh là loại chữ chiếm tỉ lệ cao nhất trong chữ Hán ngày nay. Chữ hình thanh được ghép từ bộ phận Hình và bộ phận Thanh. Phần Hình để miêu tả ý nghĩa hoặc mục loại của khái niệm; phần Thanh miêu tả âm đọc. Ví dụ như chữ giang 江 bao gồm phần Hình là 3 chấm thủy, miêu tả nước; phần Thanh là chữ Công, biểu thị âm đọc gần giống thế. Lại ví dụ chữ Thanh 清, chữ Thỉnh 請, chữ Tình 情… đều dùng chữ Thanh 青 làm phần Thanh, phần còn lại là Hình. 4. Hội ý 會意: Một chữ hội ý có 2 phần trở lên, ý nghĩa của nó được hợp bởi ý nghĩa của những phần ghép thành chữ. Ví dụ chữ Minh 明 là sáng, ghép từ Nhật 日 và Nguyệt 月. Chữ Hưu 休 là nghỉ ngơi, ghép từ bộ nhân đứng 亻 và chữ Mộc 木, nghĩa là “người dựa vào gốc cây”, biểu thị người đang nghỉ ngơi. 5. Chuyển chú 轉注: Trong Thuyết Văn Giải Tự 說文解字 của Hứa Thận 許慎, chữ Chuyển chú được định nghĩa như sau: 转注者,建类一首,同意 相受,考老是也。(Chuyển chú giả, kiến loại nhất thủ, đồng ý tương thụ, khảo lão thị dã). Nghĩa là: chữ chuyển chú, cùng bộ mà ra, ý nghĩa giống nhau, ví như chữ khảo 考 và chữ lão 老. Trong Thuyết Văn, Hứa Thận dùng 2 chữ Khảo và Lão để chú thích lẫn cho nhau: 考,老也 Khảo, lão dã (khảo tức là lão).老, 考也 Lão, khảo dã (lão tức là khảo). Tuy nhiên, Hứa Thận viết về chuyển chú quá đơn giản, lại chỉ lấy 2 ví dụ, nên đời sau vẫn đang tranh cãi về khái niệm chuyển chú. 6. Giả tá 假借: Giả tá là mượn chữ rồi đọc âm chệch đi, hoặc vẫn giữ nguyên âm đọc nhưng mang nghĩa khác. Ví dụ chữ Trường 長 (dài) được mượn làm chữ Trưởng lớn) luôn. Hoặc chữ Lệnh 令.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> (mệnh lệnh) được mượn với nghĩa là cai quản (VD: huyện lệnh là quan cai quản 1 huyện)..
<span class='text_page_counter'>(20)</span>