Năm Nguyên nhân học ngoại ngữ không thành công
Cần phải hiểu rõ về những nguyên nhân tại sao học ngoại ngữ không có kết quả để khắc
phục. Có 5 nguyên nhân chính :
1- Không thành công vì học ngoại ngữ không có mục đích rõ rệt
Việc học ngoại ngữ của một số anh chị em chỉ học theo phong trào chứ không có mục đích
rõ rệt, nên nhất định không có kết quả. Nếu được tuyển chọn đi học ở nước ngoài theo dự
án hay được học bổng thì chắc chắn họ sẽ học có kết quả. Mặt khác, hiện nay trong cơ chế
thị trường, có một số thanh niên muốn đi làm cho công ty nước ngoài nên đã tích cực theo
học hoặc tự học ngoại ngữ. Để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng, những người đó có mục tiêu
rõ rệt, họ học rất "vào", không chỉ hứng thú mà còn vì "miếng cơm manh áo nữa, mà họ
phải học hết mình ", họ học chóng giỏi là vì thế. Lấy ngay kinh nghiệm bản thân tôi (Vũ
Văn Chuyên) khi biết tôi được tuyển đi làm chuyên gia ở Ăng-gô-la (Angola), thế là tôi lăn
lưng vào học tiếng Bồ Đào Nha, học chết thôi, học không kể ngày đêm, để khi sang
Angola còn có thể hoàn thành nhiệm vụ được. Còn tôi (Phạm Văn Vĩnh ) khi biết rằng tôi
sẽ sang Mông Cổ và Liên xô, dự Hội nghị quốc tế họp ở U-lan-ba-to ( Mông cổ ), sau đó
phải lưu lại ở Mat-xcơ-va để làm việc trong một khoảng thời gian nhất định ( lại được biết
ở Mông Cổ nhiều người lại thường hay sử dụng tiếng Nga ), thế là khi đó tôi cắm cổ, chúi
mũi vào ôn lại tiếng Nga để sang đó còn có đất dụng võ. Sau này, vì ít sử dụng tiếng Nga,
nên không lưu loát bằng các tiếng Pháp, Anh, Đức, Bồ Đào Nha, Quốc tế ngữ Esperanto vì
những tiếng này chúng tôi đã dạy và soạn nhiều sách xuất bản liên tục từ 1950 đến nay ).
Thế đấy! học ngoại ngữ mà có mục đích thì dễ "vào" biết bao nhiêu! Còn khi ít sử dụng, lại
quên ngay. Văn ôn , võ luyện , quy luật đó vô cùng quan trọng trong việc học và sử dụng
ngoại ngữ .
Mấy năm nay , có khá nhiều người đi học tiếng Đức, phần thì họ mong sang Đức vì có
người nhà hỗ trợ để học tiếp Đại học, phần thì mong muốn sang " Miền đất hứa " để vừa
học vừa làm. Thực tế đâu có dễ dàng như vậy? Tuy nuôi " ảo vọng " nhưng vì có mục đích
nên họ học " chết thôi ", còn nhưng anh chị em học cho biết chút ít tiếng Đức để đi theo
diện " Đoàn tụ gia đình " thì học mới uể oải làm sao? Trung tâm Ngoại ngữ và Tin học 19-
5 chúng tôi được Bộ Giáo dục & Đào tạo cho phép hoạt động tư vấn tuyển sinh du học
nước ngoài , nên chúng tôi đã phải đi nhiều nước. Trong dịp sang các bang nước úc để xem
tình hình của sinh viên mà chúng tôi đã đưa họ sang đó để du học, xem họ học tập sinh
sống ra sao ?. Khi đến làm việc tại Trường Đại học Anh văn Quyn-x-lend ( QCE ) thì ông
Rô-be S-Mít ( Robert Smith ),Giám đốc QCE có chỉ cho chúng tôi một vài học viên cá biệt
đang học tiếng Anh một cách rất uể oải, cầm chừng, đầu gần gục xuống bàn . . . . Họ
không có một chút khí thế học tập nào cả, chưa nói tới việc họ học hăng hái như những anh
chị em khác. Sau hỏi kỹ giáo vụ và một số sinh viên khác thì biết rõ ngay là những anh chị
em đó sang úc với mục đích chính là đi lao động, làm thêm là chính , chứ còn học ngoại
ngữ là phụ, nên kết quả học tập chẳng đâu vào đâu. Thế đấy, làm việc gì cũng phải mục
đích , nhưng học ngoại ngữ lại càng cần phải có mục đích rõ rệt .
2 - Không thành công vì học ngoại ngữ thiếu kiên trì
Một số không ít người thiếu kiên trì trong học tập ngoại ngữ. Những tháng đầu, năm đầu,
nội dung học còn đơn giản, trí óc làm việc còn thuận lợi, tốc độ tiến bộ nhanh, nên ai học
cũng thấy phấn khởi. Nhưng những ngày sau, tháng sau, năm sau, số lượng "từ" ngày càng
nhiều lên, trí nhớ phải làm việc nhiều, nội dung ngữ pháp cũng phức tạp hơn, nên việc học
ngoại ngữ đã trở thành khó khăn hơn. Nhiều bài tập không làm được. Vắng lớp một vài
buổi thì hôm sau đến nghe ù ù, cạc cạc, chán vì không hiểu, tắc lưỡi, học buổi đực, buổi cái
rồi đành nghỉ hẳn. Những người thiếu đức tính kiên trì đã không chịu tìm cách khắc phục
những khó khăn, vất vả đó để vượt lên; họ đâm chán nản và bỏ cuộc. Thế là công dã tràng.
Nhà biên soạn Bách khoa Toàn Thư đầu tiên của nước Pháp Đê-nít Đi-đơ-rô ( Denis
Diderot ) ( 1713- 1784 ), đã kiên trì suốt đời học thêm ngoại ngữ để có thể tham khảo các
sách của nhiều nước khác nhau về nhiều lĩnh vực : toán học , thiên văn học , triết học ,
ngôn ngữ , pháp luật , văn học , nghệ thuật . . .Nhờ biết nhiều ngoại ngữ nên Diderot mới
tham khảo được các tác phẩm khoa học , nghệ thuật , văn học của nhiều nước khác nhau.
Nhờ có nhiều ngoại ngữ, nên Diderot mới có đủ khả năng đảm nhiệm vị trí Tổng Biên tập
công trình Đại Bách khoa toàn thư ( Grande Encyclopédie ) của nước Pháp. . Trong suốt 25
năm liền từ 1747 ( 34 tuổi ) đến mãi năm 1772 ( 59 tuổi ) , nhờ kiên trì học tập và lao động
trí tuệ nên từ 1751 đến 1772 , trong suốt 21 năm trời đằng đẵng Diderot đã xuất bản được
21 tập Từ điển Bách khoa. Vậy, không kiên trì không thể nào liền trong 25 năm làm cùng
một công việc trí tuệ vô cùng nặng nhọc như học ngoại ngữ và biên soạn Bách khoa toàn
thư được . Xin xem thêm chương : " Bài học rút ra từ Đi-đơ-rô " cũng có trong cuốn này.
3 - Không thành công vì học ngoại ngữ không có phương pháp.
Nhiều người chưa biết cách học ngoại ngữ, họ chưa tìm ra phương pháp học tốt nhất, thích
hợp với điều kiện và tâm sinh lý của cùng lứa tuổi. Thanh niên tiếp thu nhanh, nhưng
không kiên trì. Người lớn tuổi, tiếp thu chậm, nhất là những người chưa biết một ngoại ngữ
nào học rất vất vả. Chúng tôi ( Phạm Văn Vĩnh ) khi dạy tiếng Đức cho một số bà vợ của
các ông chồng trước đây đã đi lao động ở Cộng hòa Dân chủ Đức, nhưng nay một số các
ông chồng đó đã tìm cách ở lại được bên Đức. Nay các bà muốn học chút ít tiếng Đức để
khi đoàn tụ gia đình đỡ bỡ ngỡ trong những ngày đầu mới sang Đức. Quả thực là "dạy các
bà đó khó khăn và vất vả hơn kéo xe bò", dù rằng họ có thời gian, nhưng vì các bà đó chưa
tiếp cận với ngoại ngữ, nên dậy khó ơi là khó!. Còn với những thanh niên có họ hàng, bà
con ở bên Đức bảo lãnh cho họ sang thì họ học rất chăm và tích cực. Phần muốn học để
sang đó du học tự túc, phần muốn thành thạo tiếng Đức, để nếu có điều kiện lao động thêm
để "cứu nước, cứu nhà" như họ tuyên bố,( nhưng thực chất là cứu bản thân họ trước đã).
Họ học có bài bản, ham học sâu hơn, nên ngoài giáo trình đang học là Themen neu, chúng
tôi ( Phạm Văn Vĩnh và TS ngữ văn Nguyễn Quang ) còn viết thêm nhiều giáo trình phụ để
họ tham khảo như: " 300 trang mẫu câu và từ vựng tiếng Đức " hoặc " Tiếng Đức cấp tốc
dành cho người mới học và tự học " hoặc "Luyện dịch tiếng Đức qua các bài song ngữ",
hoặc "Ngữ pháp cơ bản tiếng Đức"... giúp cho họ hiểu sâu hơn về tiếng Đức .
Muốn học tốt ngoại ngữ , không thể lao đầu vào học vẹt được, vì học từng từ riêng biệt thì
rất khó thuộc, chưa kể khi ghép vào thành câu rất ngô nghê vì chưa nắm được ngữ pháp .
Cần phải học một cách toàn diện. Song song với học từ còn cần phải học ngữ pháp , đồng
thời tập phân tích các bài khoá về nội dung, văn phong , bút pháp. Lúc đầu làm việc đó rất
ngại vì khó quá sức mình, chưa kể việc đó rất khô khan. Nhưng hãy cứ cố tự bắt mình phải
" húc đầu " vào khó khăn đó, lúc đầu thực hiện rất chậm . sau nhanh dần. Lúc đầu khó
khăn rất nhiều, nhưng sau người học dần dần thấy dễ, nhanh, thú vị và thành thói quen và
nếp tốt .
Bạn đang đọc cuốn sách này đây, chính là bạn đã ý thức được học ngoại ngữ phải có
phương pháp đấy ! Nào là : học qua từ điển, học theo truyền hình, học qua băng hình, băng
cát sét, học bằng các đĩa CD , học hàm thụ , học từ xa học theo sách tự học, học tại
chức . . .( sẽ xem ở các chương sau ) Rồi chúng ta sẽ cùng nhau trao đổi kỹ các phương
pháp đó và thực hành trong điều kiện, hoàn cảnh riêng của ta .
" Không đi , sao tới đích được ? Không bắt tay vào việc, sao biết được khó dễ và làm sao
có kết quả tốt được ? " Nhà bác học La-voa-di-ê ( Lavoisier ) đã từng nói : " Không có cái
gì tự tạo ra " ( Rien ne se crée ) Vậy, ngoại ngữ không phải từ trên trời rơi xuống, mà dù có
từ trên trời rơi xuống, nhưng ta có hứng lấy nó hoặc có nhặt nó lên không đã? Hãy tự thành
thật trả lời đi rồi xông ngay vào học một cách khoa học và đều đặn ngay từ giờ phút này
đi , đừng rụt rè hoặc trù chừ nữa.
4- Không thành công vì học ngoại ngữ mà không thực hành, không tạo ra
được môi trường đối thoại
Có một số người lớn tuổi đã học theo phương pháp ghi nhớ máy móc không phù hợp với
lứa tuổi của họ. Nhiều đồng chí cán bộ văn hoá, khoa học chỉ học để đoc sách hoặc tự dịch
tài liệu, nên khả năng "nói", "nghe", "giao tiếp"... thì lại kém hẳn vì không thực hành,
không tạo ra môi trường đối thoại. Họ học mất rất nhiều thời gian nhưng hiệu quả lại
chẳng được bao nhiêu.
Dù không có môi trường đối thoại cũng phải tìm mọi biện pháp để đối thoại bằng tiếng
nước ngoài mà mình đang học . Chẳng hạn trường hợp của học giả " Tiền Chung Thư ".
Tiền Chung Thư sinh năm 1910 , người HuyệnVô Tích tỉnh Giang Tô ( Trung quốc ) . Tốt
nghiệp ngành ngoại giao trường Đại học Thanh Hoa ( TQ ) , ông tiếp tục theo học tại Paris
và tại trường Đại học Oxford ( Anh ). Từ 1953, Tiền Chung Thư là Phó Viện trưởng Viện
Khoa học Xã hội thuộc Viện Khoa học Trung quốc .
Về cổ văn , ông tinh thông Hán ngữ. Về ngoại ngữ, ông tinh thông 8 thứ tiếng : Anh, Pháp,
Đức, . Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, La - Tinh . Trước đây, Trung quốc chưa
" mở cửa ", giao lưu quốc tế bị hạn chế nên thế giới chưa biết tới . Nhưng sau khi đổi mới,
đến năm 1979, trong một Hội nghị học thuật gồm nhiều nước , Tiền Chung Thư đã tỏ rõ tài
năng đối thoại của ông. Tiền Chung Thư đã trình bày những luận văn nghiên cứu sâu sắc
bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Lại trong một Hội nghị về Hán học ở Italia các học giả
Tây phương vô cùng ngạc nhiên khi nghe Tiền Chung Thư trích dẫn các tác phẩm của
nhiềutác giả cổ điển ( auteurs classiques ) và hiện đại của nước ý một cách tinh tường , sâu
rộng và sắc sảo nữa . Tương tự, tại nhiều Hội nghị học thuật quốc tế ở Paris, London, New
York. . . Tiền Chung Thư cũng đã tạo ra môi trường đối thoại và đã thu hút mọi người
bằng kiến thức uyên thâm, kiến giải tuyệt vời.
Dĩ nhiên đó chỉ là gương sáng để chúng ta phấn đấu noi theo mà thôi ! Nhưng hiện nay,,
Tổ quốc ta đã " mở cửa ",đâỷ mạnh du lịch; khách nước ngoài vào Việt Nam cũng đã nhiều
và " Tây ba lô " đến cũng lắm. Họ hay hỏi thăm các đường phố và vào các quán bình dân
hoặc quán " cơm bụi ", sao ta không tranh thủ chỉ đường hoặc tự nguyện dẫn họ đến phố
họ hỏi và nhân lúc dẫn đường cho họ, ta thực hành vốn ngoại ngữ ít ỏi của ta ! Vừa được
tiếng là nhân dân Việt Nam rất " hữu nghị , mến khách " vừa được thực hành tiếng nước
ngoài . Đừng rụt rè nữa cứ xông lên, nói tiếng nước ngoài thử xem sao ? Có mất gì đâu !
Tại khu vực phường Bách khoa , hoặc ở khu vực Quận Thanh Xuân đều có " Khoa tiếng
Việt cho người nước ngoài " ( TT.19-5 cũng được Bộ GDĐT cho phép mở Khoa tiếng Việt
cho người nước ngoài, hiện nay do GS Bùi Phụng phụ trách ), sinh viên nước ngoài học tại
đó, rất hay ra phố ăn quà, mua sắm, tản bộ, tranh thủ lúc đó ta làm quen với họ để thực
hành " kỹ năng nói " của ta . Nhiều thanh niên còn kết bạn với họ, thậm chí rủ họ lên . .
Nhật Tân để cụng ly và ăn " Mộc tồn" nữa ! Có người mạnh dạn dậy họ thực hành nói
tiếng Việt, ngược lại, họ lại dậy lại người hướng dẫn tiếng nước ngoài bằng chính bản ngữ
của họ. Tiện cả đôi đường.Bao nhiêu là biện pháp, chỉ tại ta không sáng tạo ra thôi! Nếu
thực sự yêu thích ngoại ngữ thì thiếu gì cách và thiếu gì điều kiện để học cho tốt, phải
không các bạn ham thích ngoại ngữ của chúng tôi ơi ?
5 - Không thành công vì không chịu tự học là chính
Học ngoại ngữ, phải tự học là chính. Không cứ học ngoại ngữ, mà học bất cứ môn gì, cũng
phải tự học là chính. Nhưng với học ngoại ngữ thì khâu tự học quan trọng vô cùng. Cố GS.
Tạ Quang Bửu, nhà toán học xuất sắc, nhà hoạt động khoa học và giáo dục, nhà bách khoa
toàn năng, học vấn uyên thâm, phát triển toàn diện, nhân hậu, một trí thức thông minh
tuyệt vời mà vẫn luôn luôn tự học để theo kịp thời đại. GS Tạ Quang Bửu, một trí thức Xã
Hội Chủ Nghĩa có tầm cỡ Quốc tế, trung thực, nhân hậu, sống thanh bạch trong sáng luôn
luôn là một tấm gương sáng chói về tự học, trong đó có cả nghị lực tự họ ngoại ngữ nữa...
Thầy Bửu tinh thông nhiều ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Trung quốc, Hy lạp cổ, La tin,
Nga, Ba lan... Những tiếng Anh, Pháp được đào tạo cơ bản, các tiếng khác còn lại đều do
tự học. Một gương "hiếu học" ít ai sánh được! Năm 1963, nhà toán học Ba lan Mikusinsky
gửi cho thầy một kết quả nghiên cứu mới của mình, Thầy Bửu đọc thẳng bằng tiếng Ba
lan, sau đó thuyết trình về toán tử Mikusinsky cho các thầy giáo dạy toán ở các trường Đại
học Hà nội.
Giáo sư Hà Văn Tấn người xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, quê hương của đại văn hào
Nguyễn Du và được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khi
mới 20 tuổi. Muốn trụ được ở vị trí mới khi còn trẻ, ông phải lao vào tự học thêm là tất
yếu. Thế là ông cho rằng, muốn tự học có hiệu quả thì chỉ có đọc sách. Mà muốn đọc sách
thì phải nắm vững ngôn ngữ. Từ nhận thức đó, ông say mê học thêm cả Việt ngữ, lẫn một
số ngoại ngữ. Ngoài tiếng Anh, tiếng Pháp ông đã được học ở phổ thông và đại học, ông
còn tự học các ngôn ngữ Nga, Đức, Nhật, Pháp. Cách học của ông là dùng từ điển để dịch
thẳng thông qua dịch dần nắm bắt hiện tượng ngữ pháp. Cách học này quả là vất vả, chỉ
dành cho những người có chí. Bên Hung-ga-ri, Nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi Daby đã có cách
học sáng tạo như vậy.
Giáo sư Lê Khả Kế ( sinh ngày 15-6-1918 , mất ngày 24-7-2000 ) tốt nghiệp trường Đại
học Nông nghiệp Đông dương , chứ đâu có học về ngoại ngữ ? Là chủ nhiêm Khoa Hoá-
Sinh-Địa trường Đại học Sư phạm Hà Nội và trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ( 1955-
1963 ) , nhưng vì nhu cầu công tác , GS Lê Khả Kế đã tự học ngoại ngữ rất chăm và đều
đặn nên mới có trình độ cao về ngoại ngữ để sau này được tín nhiệm chuyển sang làm
công tác nghiên cứu , biên soạn Từ điển khoa học của Uỷ ban khoa học Nhà nước , rồi phụ
trách Tổ thuật ngữ -Từ điển học của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam . GS cũng là một
trong những người đầu tiên xây dựng Viện Ngôn ngữ học . Có đủ tài năng , đức độ như thế
cũng do giáo sư tự học , từ rèn mình là chính . Ông là " một người chân chính " ( un
homme véritable ) , hết sức liêm khiết , thanh bạch , không nhà cao cửa rộng , không bon
chen , nhờ cậy ! GS đã để lại cho đời " đức độ " và nhiều Từ điển ngôn ngữ học và Từ điển
chuyên ngành .
Còn GS Nhân dân Vũ Văn Chuyên , học giả Nguyễn Hiến Lê , GS Bùi Phụng . . thì tự học
thêm ngoại ngữ và các lĩnh vực khác như thế nào , chúng ta sẽ đề cập trong những chương
sau . Học ở trường để được đào tạo cơ bản , nhưng tự học để chuyên sâu , nâng tầm hiểu
biết mới " Thực là học " và khi này thì không cái cảnh " Chữ thầy lại trả lại thầy " , vì kiến
thức thu nhận được do chính bản thân ta tự tìm kiếm chứ không phải do người khác truyền
đạt cho ta .
Tóm lại, nếu có phương pháp khoa học, quyết tâm cao và tránh những nguyên nhân thất
bại thì chắc chắn chúng ta hoàn toàn có khả năng học tốt mọi ngoại ngữ. Nào, mời các bạn
bắt tay vào học ngay từ giờ này, phút này, tương lai đang chờ đón bạn.
Chương 3
Học ngoại ngữ phải học đều, liên tục & sáng tạo
Trong chương 1 & 2 , chúng ta đã thấy rõ rằng học ngoại ngữ không khó và đã tìm ra 5
nguyên nhân học ngoại ngữ không thành công để khắc phục. Trong chương này chúng ta
sẽ đề cập đến 2 vấn đề quan trọng có tính chất thực hành là:
1- Học ngoại ngữ phải học đều, liên tục
Đúng vậy! Làm gì, học gì mà chả phải liên tục, nhưng học ngoại ngữ lại càng phải liên tục.
Nói gọn một câu như thế ai chả nói được? Nhưng thực hành mới khó chứ ? Bạn có biết
không :
A) - Khi Hồ Chủ Tịch hoạt động bí mật ở Xiêm (Thái Lan bây giờ), muốn gây thiện cảm
với nhân dân địa phương, , gần gũi họ để dễ bề hoạt động cho Cách Mạng Việt Nam, Bác
đã trao đổi với các cán bộ cùng đi là cần phải học tiếng Thái càng sớm càng tốt. Ai cũng
hoan nghênh, và mọi người đều sốt sắng thực hiện chủ trương đó . Có người hăng háiđề ra
mỗi ngày phải học 50 từ mới, người này thì 40 từ, người kia thì 30 từ ... Bác cười và căn
dặn: "Tuỳ các chú, nhưng phải đều đặn và liên tục thì mới có kết quả ". Mọi người vâng
vâng, dạ dạ, nhưng chỉ hăng hái được vài ngày đầu, thấy học tiếng nước ngoài khó quá,
nản và sau bỏ dần. Người thì học cách nhật, người thì học dồn ép, ngày đực, ngày cái rồi
sau bỏ bễ hẳn. Với Bác Hồ, mỗi ngày Bác chỉ học 20 từ thôi. Ngày nào bận công tác đoàn
thể thì hôm sau Bác quyết học bù cho đủ. Âm thầm, lặng lẽ, kiên trì, đều đặn và liên tục,
nên sau 3 tháng kết quả thật khả quan : Bác đã đọc thông, viết thạo tiếng Thái. Do đó, mọi
người Thái ở địa phương đều quý mến cán bộ "Thầu Chín" (bí danh của Bác Hồ khi hoạt
động bí mật bên Thái), vì Bác đã gần gũi họ, tiếp xúc với họ bằng tiếng Thái.
B) - Còn Lênin học tiếng Pháp chủ yếu bằng nghe đĩa ghi âm. Giai đoạn đầu, Người liên