Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.55 KB, 62 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực (K, R,
Kỹ Thuật, Lao Động...) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển.
Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế (bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp). Cùng với đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp có vai trò rất quan trọng. Dòng đầu
tư này đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng
tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan, các nước đều phải chấp nhận tính tất yếu này
dù là nước phát triển hay đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện
cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân
tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Để phát triển nhanh chóng các quốc gia cần
phải tận dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường lao động... của nhiều nước. Song
nguồn FDI trên thế giới là có hạn mà nhu cầu về nó ngày càng lớn. Vấn đề này càng
trở nên bức thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và phân
công lao động quốc tế sâu rộng ngày nay.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong quá trình chuyển đổi
này, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật,
kinh nghiệm quản lý... nhằm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm trong
nước.Cùng với xu thế phát triển chung của cả nước cũng như sự phát triển trên thế
giới, là một tỉnh mới tách ra và còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển
nhưng Hưng Yên đã có những bước đột phá và nỗ lực nhằm thu hút được những
nguồn đầu tư từ bên ngoài vào tạo đà cho sự phát kinh tế của tỉnh. Từ đó tạo tiền đề
tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nhận thấy tính bức thiết
của vấn đề này nên em chọn nghiên cứu đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Hưng Yên ”.
1
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI TỈNH HƯNG YÊN
1.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tại tỉnh Hưng Yên có ảnh hưởng
đến hoạt động FDI.


1.1.1.Vị trí địa lý, địa điểm đầu tư.
Hưng Yên là một tỉnh thuộc Đồng bằng Sông hồng, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ ( Hà Nội – Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh…),
không có biển, rừng, đồi núi. Hưng Yên tiếp giáp với 6 tỉnh là: Hà Nội,
Bắc Ninh ở phía bắc, Hải Dương ở phía đông, Hà Tây, Hà Nam ở phía Tây và Thái
Bình ở phía nam. Tổng diện tích tự nhiên 912 km và dân số là 1,1 triệu người, đạt
mật độ dân số trung bình 1.206 người/km. Hưng Yên được tổ chức thành 10 đơn vị
hành chính bao gồm 9 huyện và 1 thành phố. Với vị trí thuận lợi, địa hình bằng phẳng
, nguồn nhân lực dồi dào và tập trung như nêu ở trên, Hưng Yên hoàn toàn có
tiềm năng để phát triển các ngành công nghiệp và thu hút FDI. ( Báo cáo tình hình
phát triển kinh tế xã hội sáu tháng cuối năm 2009, phương hướng nhiệm vụ sáu
tháng đầu năm 2010).
Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có hệ thống các tuyến giao thông quan trọng
gồm: Quốc lộ 5A, 39A, 39B, 38 và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, nối Hưng Yên với
các tỉnh phía Bắc đặc biệt là với Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Có
hệ thống sông Hồng, sông Luộc tạo thành mạng lưới giao thông khá thuận lợi cho
giao lưu hàng hoá và đi lại. Cầu Yên Lệnh đã hoàn thành và đi vào sử dụng từ tháng
5/2004, mở ra mạch giao thông mới nối liền Quốc lộ 1A và 5A. Với hệ thống giao
thông này, Hưng Yên có thể thực hiện chiến lược thu hút vốn FDI trên toàn bộ lãnh
thổ tỉnh.
Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hưng Yên chịu tác
động lớn cùng với quá trình phát triển của vùng. Theo chủ trương của nhà nước,
từnay đến năm 2020, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ sẽ là vùng phát triển mạnh mẽ.
Đi trước và sẽ trở thành động lực lớn thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước. Tốc
độ phát triển bình quân của vùng thời kỳ 2001 – 2010 dự báo đạt 13 – 14%, kim
2
ngạch xuất khẩu tăng bình quân 28 – 30% năm. Vùng có ưu thế thực hiện hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu và
tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đến nay Hưng Yên vẫn chưa tận
dụng được nhiều lợi thế này, mặc dù đã có sự cố gắng và đạt được những thành tựu

nhất đinh trong phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư.
Kết cấu hạ tầng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và phụ cận sẽ được phát
triển đi trước một bước để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vớu tốc độ nhanh của
vùng, trong đó đáng chú ý là các công trình:
Quốc lộ 1 đạt tiêu chuẩn cấp 3 đồng bằng, sẽ nâng cấp thành cấp 1 đồng bằng
trong thời gian tới. Nâng cấp đường sắt Bắc – Nam, Quốc lộ 5A đạt tiêu chuẩn cấp 1
đồng bằng. Đang triển khai xây dựng đường cao tốc 18 từ Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ
long. Đang xây dựng dự án tiền khr thi cho quốc lộ 5B mà hướn tuyến đã xác định là
nằm ở phía Đông quốc lộ 5A phần lớn đi qua địa phận tỉnh Hưng yên…Ngoài ra tuỳ
theo yêu cầu sẽ nâng cấp và xây dựng một vài sân bay và cụm cảng có quy mô tườn
đối lớn. Đến 2010 sẽ xuất hiện các tuyến hành lang kinh tế quan trọng , vùng kinh tế
quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có tác động rất lớn đến sự phát
triển kinh tế của Hưng Yên.
Cùng với sự tác động của các tuyến hành lang, Hưng Yên còn chịu ảnh hưởng
của các trung tâm kinh tế quan trọng, đó là:
Thủ đô Hà Nội cách thành phố Hưng Yên 64km, là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, đào tạo, y tế lớn của cả nước. Đến năm 2010, diện
tích thành phố tăng từ 5.600 ha lên 10.000 ha, dân số nội thành lên đến 2 triệu người.
Đây là trung tâm lớn, có trách nhiệm cung cấp lao động kỹ thuật, thông tin, kinh
nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ… cho các tỉnh trong vùng, đồng thời là nơi
tập trung các nhu cầu tiêu thụ lớn.
Thành phố Hải Phòng cách thành phố Hưmg Yên 90km, là một trong những
đầu mối giao lưu liên vùng và là cửa mở ra quốc tế quan trọng của các tỉnh phía Bắc.
3
Thành phố Hải Dương cách thành phố Hưng yên 50km, vốn là thủ phủ của
tỉnh Hải Hưng cũ, có mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế xã hội với Hưng Yên.
Toàn bộ đặc điểm vị trí xét trong bối cảnh phát triển dài hạn nêu trên có tác
động hết sức mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hưng yên xét trên
các mặt:
- Tạo ra cơ hội và động lực quan trọng để phát triển trên cơ sở tận dụng mạng

lưới cơ sở hạ tầng phát triển, sự hỗ trợ về đào tạo và chuyển giao công nghệ từ các
thành phố lớn và các trung tâm của vùng.
- Có thị trường tiêu thụ lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài trong tiêu thụ
sản phẩm và mở rộng quy mô đầu tư.
- Có môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - nguồn nhân lực.
a. Kinh tế nông nghiệp.
Hưng yên là một tỉnh có lợi thế trong phát triển kinh tế công nghiệp và dịch
vụ, hiện nay tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn chiếm phần rất lớn. Kinh tế nông
nghiệp từ khi tái lập tỉnh phát triển khá toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân thời
kỳ 2003 – 2009 trên 5%, đạt được kết quả trên là do chương trình CNH – HĐH nông
nghiệp nông thôn và cơ giới hoá được nhiều khâu sản xuất. Cơ cấu kinh tế trong nội
bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm
tỷ trọng trồng trọt. Một số vùng trồng lúa năng suất thấp đã chuyển sang trồng cây ăn
quả và nuôi trồng thuỷ sản. Giá trị sản xuất trên 1ha canh tác hàng năm không ngừng
tăng lên do áp dụng tốt khoa học kỹ thuật. Đến nay diện tích canh tác có thu nhập 50
triệu/ha/năm, tăng lên đáng kể. Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nhằm tăng thu
nhập trên đơn vị canh tác là động thái tích cực, phù hợp với nhu cầu của thị trường và
khả năng phát triển của ngành.
Chăn nuôi thuỷ sản phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, đã khắc phục
tình trạng ruộng đất manh mún, hiện đang đẩy nhanh tiến độ dồn điền đổi ruộng, quá
4
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng phát triển kinh tế
hộ và trang trại.
Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, hệ thống cơ sở hạ tầng nâng cấp rõ rệt.
đến nay đã có 100% xã có đường ô tô đến trụ sở uỷ ban nhân dân xã, nhiều đường
liên thôn giải nhựa hoặc bê tông. Đời sống người dân nông thôn được cải thiện đáng
kể. Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch năm 2009 là 90%, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 10%
xuống còn 4% năm 2009.
Như vậy, sự phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH – HĐH tạo điều

kiện về nguồn nguyên liệu cho các dự án FDI trong lĩnh vực chế biến các sản phẩm
từ cây trồng, vật nuôi. Các dự án FDI trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc, các dự
án sản xuất máy nông nghiệp và các dự án dịch vụ phục vụ cho nhu cầu phát triển
của khu vực nông thôn.
b. Kinh tế công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của Hưng yên ở mức cao, bình quân thời kỳ
2005 – 2009 đạt 27,5%/năm. Tuy nhiên với xuất phát điểm thấp, đến nay công
ngbhiệp vẫn chưa giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Đến nay tỉnh đã hoàn thành 6 KCN tập trung là Như Quỳnh A, Như Quỳnh B,
Phố Nối A, Phố Nối B, Minh Đức và thành phố Hưng Yên, tạo điều kiện thuận lợi
cho các dự án FDI đầu tư trên địa bàn tỉnh. Đến hết năm 2009, tỉnh đã thu hút được
456 dự án đầu tư nước ngoài và tỉnh ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 700 triệu
USĐ, trong đó dự án đầu tư nước ngoài la 45, tỉnh ngoài là 250, có 70 dự án đi vào
sản xuất tạo ra từ 75 – 80% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh, góp phần quan
trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng công nghiệp Hưng yên
vẫn còn nhiều hạn chế như: Phân bố công nghiệp chưa đồng đều trong khi điều kiện
hạ tầng cơ sở là tương đối thuận lợi, tsspj trung chủ yếu (khoảng 80%) ở khu vực các
KCN dọc Quốc lộ 5A.Công tác chuẩn bị hội nhập chưa được thực hiện đúng mức và
đồng bộ. Trình độ công nghệ còn ở mức thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế và khu
5
vực của sản phẩm công nghệ chưa cao. Việc đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ
quản lý doanh nghiệp, lao động trình độ cao và công nhân kỹ thuật lành nghề còn yếu
và bị động.
Tóm lại: Công nghiệp Hưng yên phát triển với tốc độ nhanh và liên tục trong
những năm qua là tín hiệu đáng mừng trong việc thu hút các nguồn vốn vào tỉnh, đặc
biệt là nguồn FDI. Cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghiệp được cải thiện từng
ngày, đặc biệt là sự ra đời của 6 KCN thể hiện rõ sự nỗ lực của tỉnh trong việc tăng
cường thu hút các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn. Số lượng dự án đầu tư tăng nhanh
sẽ tạo điều kiện cho các liên doanh, liên kết và bổ trợ cho nhau trong các khâu sản

xuất, tạo ra môi trường công nghiệp sôi động và hiệu quả, tạo ra sự cạnh tranh mạnh
mẽ về giá cả. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết, đặc biệt là cơ chế chính
sách trong thu hút và triển khai đầu tư.
c. Kinh tế dịch vụ.
Theo số liệu thống kê của tỉnh, giai đoạn 2006 - 2009, tổng mức bán lẻ hàng
hoá ( TMBLHH) trên địa bàn đạt tốc độ tăng bình quân 21,8%/năm, từ 3275.4 tỷ
đồng năm 2006 lên 5678.9 tỷ đồng năm 2009. TMBLHH bình quân đầu người đến
năm 2009 là 4570 ngàn đồng/người, đạt tốc độ tăng bình quân 20.3%/năm. Nếu so
với cả nước xét về mặt định lượng thì TMBLHH bình quân đầu người của Hưng yên
vẫn ở mức thấp, nhưng về mặt định tính thì tăng nhanh hơn, nếu duy trì được tốc độ
này thì Hưng yên sẽ đạt mức bình quân chung của cả nước vào 1 – 2 năm tới. Trong
cơ cấu tổng mức hàng hoá bán ra và bán lẻ trên địa bàn theo thành phần kinh tế, vẫn
tiếp tục có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng các thành phần kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên, thành phần kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp đã tham gia nhiều hơn vào
lưu chuyển hàng hoá.
Ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng có nhiều tiến bộ, bước đầu hình thành một
số điểm du lịch như: Đa Hoà - Dạ Trạch, Phố Hiến, Đền Ủng…
Du lịch Hưng yên chưa phát triển, nên doanh thu từ du lịch còn hạn chế. Theo
số liệu thống kê, những năm gần đây cùng với sự gia tăng về khách du lịch, doanh
thu từ du lịch năm 2006 là 17 tỷ đến năm 2009 là 45 tỷ. Lượng khách vào Hưng yên
6
có tăng nhưng với số lượng hạn chế và chủ yếu vẫn là khách nội địa, hầu như chưa
có khách sạn nước ngoài. Hệ thống khách sạn được cải thiện một bước nhưng hiện
tại chưa đủ để đáp ứng du khách.
Trong thời gian qua lĩnh vực Tín dụng ngân hàng đã có những giải pháp tích
cực trong huy động vốn, tỷ lệ huy động vốn bình quân tăng 44,3%, dư nợ bình quân
tăng 44,2%, trong đó dư nợ bình quân và dài hạn chiếm 47,2%, chất lượng tín dụng
đã được nâng lên một bước, năm 2006 nợ quá hạn là 0,9%, năm 2009 giảm xuống
còn 0.5%. Tuy nhiên cũng như những ngành khác, đó là tốc độ tăng trưởng cao
nhưng xét về mặt lượng thì vẫn còn nhỏ, khả năng huy động vốn chưa đáp ứng được

tốc độ phát triển kinh tế, đặc biệt là các dự án lớn, một số loại hình huy động vốn mới
chưa được phổ biến, chưa có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân gửi tiền
nhàn rỗi vào ngân hàng.
Lĩnh vực du lịch Hưng yên có sự phát triển mạnh trong những năm qua những
vẫn ở trình độ thấp so với cả nước và khu vực, sức mua của người dân được cảu thiện
nhưng chưa đạt mức trung bình của cả nước. Là tỉnh đông dân nhưng Hưng yên vẫn
là thị trường nhỏ bé, không thể là mục tiêu hàng đầu của các dự án FDI. Các ngành
dịch vụ hỗ trợ cho các hoạt động FDI như ngân hàng, bưu chính viễn thông đã và
đang được hoàn thiện, dự kiến đến năm 2010 đạt mức trung bình của khu vực đồng
bằng Sông hồng.
d. Đặc điểm về dân số, nguồn nhân lực.
Nằm trong vùng đồng bằng Sông hồng có lịch sử phát triển lâu đời, Hưng yên
là tỉnh có mật độ dân số đứng thứ 3 sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội và cao
gấp 5,5 lần mức trung bình của cả nước, dân số thành thị chiếm khoảng 20% dân số
toàn tỉnh.
Lao động trong tuổi hiện có 568 nghìn người, chiếm 47,5% dân số của tỉnh.
Lao động đang làm việc trong nến kinh tế quốc dân chiếm 90% lao động trong độ
tuổi. Số lao động chưa có việc làm còn nhiều. Đây sẽ là nguồn bổ sung nhân lực quan
trọng cho các dự án FDI thực hiện trên địa bàn tỉnh.
7
Với truyền thống hiếu học, nhiều cán bộ tài năng song lại ít làm việc tại tỉnh
nhà, nếu có môi trường làm việc tốt và được trả lương cao thì đội ngũ này là lực
lượng hùng hậu trở về làm việc tại quê hương đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng
cao. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, Hưng yên cần phải bổ sung và
đào tạo thêm để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của tỉnh.
Theo dự báo đến năm 2010 dân số của tỉnh có thể lên đến 1,25 triệu người và
năm 2020 là 1,4 triệu người, trong đó lao động trong độ tuổi tương ứng với các năm
là 6,61 và 8,91 vạn người. Đây là nguồn nhân lực quạn trọng cho sự phát triển trong
tương lai. Nguồn nhân lực này sẽ là thế mạnh của tỉnh nếu biết tận dụng, đặc biệt tận
dụng thế mạnh lao động trẻ trong những năm đầu CNH.

Nhân dân Hưng yên có truyền thống hiếu học, từ xưa đã có nhiều trạng
nguyên, tiến sỹ, danh y. Trong lịch sử hiện đại có nhiều nhà hoạt động cách mạng và
lãnh đạo xuất sắc. Với truyền thống đó, sau khi tái lập Tỉnh với sự đoàn kết nhất trí
trong ccán bộ và nhân dân, cùng với công cuộc đổi mới của đất nước chắc chắn sẽ
đưa Hưng yên tiến nhanh, hoà nhập được với sự phát triển cảu cả nước.
1.1.3. Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng - dịch vụ đầu tư.
Sau 10 năm tách tỉnh, hệ thống cơ sỏ hạ tầng của Hưng yên, bao gồm mạng
lưới giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc và các công trình hạ tầng xã hội khác
đã được nâng cấp, cải tạo và xây mới rất nhiều và hiện đại có thể đáp ứng được một
phần nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Xét về mặt lâu dài sẽ bộc lộ nhiều yếu tố bất
hợp lý trong phát triển công nghiệp đặc biệt là thu hút FDI. Nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 của tỉnh là xây dựng một hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư trong và
ngoài nước, tạo đà cho sự phát triển tăng tốc nền kinh tế xã hội trong giai đoạn tiếp
theo.
Hệ thống đường bộ của Hưng yên bao gồm Quốc lộ 5A, Quốc lộ 39A, 39B,
quốc lộ 38 là những con đường huyết mạch của tỉnh để giao lưu với các địa phương
khác trong khu vực.Hiện tại đã cải tạo nâng cấp được các đưởng 5A tiêu chuẩn cấp 1
đồng bằng, đường 39A, 38 tiêu chuẩn cấp 3 đồng bằng. Hệ thống đường Quốc lộ
được bố trí đều trên lãnh thổ tỉnh, là lợi thế rất lớn để tỉnh có thể thu hút các dự án
8
đầu tư trong không gian rộng. Hiện nay, các dự án chủ yếu được triển khai tập trung
ở khu vực Quốc lộ 5A.
Mạng lưới giao thông nội tỉnh thường xuyên được củng cố và phát triển, đến
hết năm 2006 đã giải nhựa được 237 km đường tỉnh và 177,5 km đường huyện, đáp
ứng được phần lớn nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh.
Hệ thống đường thuỷ của Hưng yên gồm các tuyến sông Hồng và sông Luộc
đi Hà Nội, cảng Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai. Tuyến này được nạo vét, là tuyến giao
thông chính về vận chuyển nguyên liệu, hàng hoá từ cảng biển của Quảng Ninh về
Hưng yên và Hà Nội phục vụ cho phát triển công nghiệp. Hiện tại thời gian vận

chuyển một chuyến hàng từ Hưng yên đi Quảng ninh mất khoảng 20 – 40 giờ, giá
thành khoảng 120 – 150 nghìn đồng/tấn sản phẩm, phấn đấu hạ xuống khoảng 100
nghìn đồng vào năm 2012. Tuyến giao thông đi Hà Nội và các tỉnh phía Bắc bằng
đường thuỷ sông Hồng, thời gian vận chuyển mất khoảng 10 giờ, giá thành khoảng
30 – 40 nghìn đồng/tấn sản phẩm. Luồng giao thông thuỷ chủ yếu vận chuyển cát, sỏi
phục vụ cho công nghiệp và xây dựng. Hệ thống cảng của Hưng yên có công suất
khoảng 1 triệu tấn/năm có thể đáp ứng tình hình phát triển kinh tế hiện nay.
Mạng lưới bưu chính viễn thông không ngừng được củng cố và mở rộng, năm
2006 thuê bao điện thoại cố định đạt 19,57máy/100 dân đến năm 2009 là
25,34máy/100 dân, số máy thuê bao được phát triển rộng khắp đến từng xã, từng
thôn. Năm 2006, 100% xã có điểm bưu điện văn hoá. Một số dịch vụ mới như 171,
178, 1950 thuê bao internet phục vụ nhu cầu của người dân trong tỉnh. Tuy nhiên, so
với mức bình quân chung của cả nước, tính đến hết năm 2009 đạt 25,34máy/100 dân
vẫn ở mức trung bình.
Hệ thống cấp điện được cải tạo và mở rộng trên địa bàn tỉnh hiện có 4 trạm
biến áp lớn đó là trạm biến áp 220kv và 110kv Phố Nối, trạm 110kv Phố cao, TRạm
110kv Kim Động, góp phần cung cấp điện cho các dự án đầu tư của tỉnh. Kết hợp
phát triển đồng bộ các trạm biến áp với việc cải tạo và nâng cấp hệ thống phân phối
điện trên địa bàn toàn tỉnh, mở rộng mạng lưới cấp điện cho các KCN mới hình
thành. Đầu tư phát triển mạng lưới điện nông thôn và thành thị.
9
Hệ thống cấp thoát nước được đầu tư thiết bị đồng bộ, xây dựng mới nhà máy
nước Phố Nối công suất 10.000m nước/ngày đêm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và
nhu cầu phát triển công nghiệp nhanh trong khu vực. Đầu tư xây dựng trạm cấp nước
sạch sinh hoạt có công suất vừa và nhỏ ở tất cả các thị trấn trong tỉnh.
Bên cạnh việc xây dựng các công trình cấp nước, tỉnh đã hết sức coi trọng
việc xây duựng đồng bộ các công trình, hệ thống thoát nước đô thị và xử lý nước
thải… cho các đô thị và KCN, đặc biệt là KCN tập trung tại Phố Nối và Như Quỳnh.
Nhìn chung, hạ tầng cơ sở của Hưng yên đã được nâng cấp, đáp ứng nhịp độ
phát triển kinh tế hiện nay, về lâu dài cần có những giải pháp mang tính đồng bộ để

phát triển hệ thống hạ tầng lên mức hiện đại, tạo điều kiện hấp dẫn cho các nhà đầu
tư khi đầu tư vào Hưng yên.
1.1.4.Chính sách, thủ tục hành chính với FDI.
a. Chính sách ưu đãi đầu tư.
Ngay từ khi mới tái lập tỉnh năm 1997, Hưng yên đã đề ra chiến lược thu hút
đầu tư để vực dậy nền kinh tế của tỉnh sau nhiều năm bị lãng quên. Nhưng chính sách
ưu đãi đầu tư của nhà nước được vận dụng rất linh hoạt theo xu hướng tạo điều kiện
ở mức tối đa cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án trên địa bàn tỉnh.
Các nhà đầu tư, đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng yên được hưởng các ưu đãi đầu
tư tối đa theo các quy định hiện hành của nhà nước. Tại Quyết định số 13/2003/QĐ-
UB ngày 18/3/2003 của UBND tỉnh Hưng yên ban hành “Quy định ưu đãi đầu tư
trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn tỉnh Hưng yên” đã nêu rõ: Tỉnh ưu đãi về
giá tiền thuê đất, thời hạn miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ kinh phí đào tạo lao
động, hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng trong phạm vi quyền hạn của tỉnh
ngoài các ưu đãi chung của Nhà nước.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh
Hưng yên theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều được hưởng
ưu đãi từ quy định trên.
10
Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn, và kêu gọi
đầu tư trên toàn bộ lãnh thổ. Tỉnh đã chia các khu vực với các mức ưu đãi đầu tư
khác nhau:
Khu vực I: Gồm những vùng có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư.
Khu vực II: Gồm những vùng có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư còn hạn
chế
Khu vực III: Gồm những vùng thuộc danh mục các địa bàn có điều kiện kinh
tế xã hội khó khăn.
Trong quy định này, ưu đãi về tiền thuê đất bao gồm:
Khu vực I, giá đất cho thuê thực hiện ở mức thấp nhất theo khung giá quy
định của Nhà nước.

Khu vực II, áp dụng mức giá bằng 70% giá khu vực I.
Khu vực III, áp dụng mức giá bằng 50% giá khu vực I.
Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được miễn 7 năm tiền thuê đất kể từ ngày
ký hợp đồng thuê đất cho tất cả các khu vực.
Tỉnh cam kết hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đền bù giải phóng mặt
bằng từ ngân sách tỉnh, cụ thể:
Dự án đầu tư vào khu vực II: hỗ trợ 50% chi phí đền bù giải phóng mặt bằng
đối với tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hỗ trợ 70% đối với dự án có
hiệu quả trong vòng 12 tháng kể từ khi xây dựng, các dự án đóng góp cho ngân sách
từ 3 tỷ đồng/năm trở lên, và các dự án thu hút lao động tại chỗ từ 200 lao động trở
lên và không dưới 70 lao động/ha.
Dự án đầu tư vào khu vực III: hỗ trợ 70% chi phí đền bù giải phóng mặt bằng
đối với tất cả các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, hỗ trợ 100% đối với các
dự án có hiệu quả trong vòng 12 tháng kể từ khi xây dựng, các dự án đóng góp cho
11
ngân sách từ 3 tỷ đồng/năm trở lên, và các dự án thu hút lao động tại chỗ từ 200 lao
động trở lên và không dưới 70 lao động/ha.
Tỉnh cam kết hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo và sử dụng lao động
của địa phương, cụ thể:
Dự án đầu tư vào khu vực II, hỗ trợ 20% chi phí đào tạo lao động nhưng
không quá 400.000đồng/1 lao động, riêng dự án chế biến nông sản thực phẩm sử
dụng nguyên liệu của địa phương và dự án sử dụng từ 300 lao động trở lên được hỗ
trợ 40% kinh phí nhưng không quá 700.000đồng/1 lao động.
Dự án đầu tư vào khu vực III, hỗ trợ 50% chi phí đào tạo lao động nhưng
không quá 800.000đồng/1 lao động, riêng dự án chế biến nông sản thực phẩm sử
dụng nguyên liệu của địa phương và dự án sử dụng từ 300 lao động trở lên được hỗ
trợ 70% kinh phí nhưng không quá 1.000.000đồng/1 lao động.
Các dự án đầu tư trong và ngoài nước thực hiện trên địa bàn tỉnh được miễn
giảm thuế thu nhập với thời gian miễn giảm tối đa theo quy định hiện hành của nhà
nước.

Ngoài các quy định trên, đối với các trường hợp đặc biệt như những dự án có
quy mô lớn có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Tỉnh sẽ căn cứ
từng trường hợp cụ thể để có những ưu đãi riêng.
Tóm lại: Chính sách của Hưng yên đối với việc thu hút đầu tư là rất cụ thể
như đã nêu trên. Từ khi ra đời nó vẫn chưa phát huy được nhiều tác dụng, thể hiện ở
việc số lượng dự án so với các năm trước có tăng nhưng không nhiều. Hơn nữa, việc
triển khai thực hiện chính sách này còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc
xác định các điều kiện hưởng ưu đãi và giải quyết các thủ tục để hưởng ưu đãi dẫn
đến việc hầu hết các nhà đầu tư không quan tâm đến lợi thế này vì mục đích kinh
doanh của họ không vào tỉnh để hưởng ưu đãi mà mục đích chính là cơ hội đầu tư và
lợi nhuận. Để phát huy hiệu quả các cơ chế, chính sách đã ban hành Hưng yên còn rất
nhiều việc phải làm, đặc biệt là trong khâu triển khai thực hiện.
b. Thủ tục hành chính đối với FDI.
12
Tỉnh thống nhất thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với mọi dự án đầu tư
trên địa bàn tỉnh theo phân cấp và quy định của pháp luật Việt nam. Tất cả các dự án
nước ngoài và các tổ chức, cá nhân người nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh Hưng
yên theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, ngoài ra để cụ thể và đơn giản hoá
tỉnh đã ban hành quy chế áp dụng riêng cho địa phương.
Tại Quyết định số 12/2003/QĐ-UBND ngày 18/3/2003 về việc “Tiếp nhận
quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước trên địa bàn tỉnh Hưng yên”
đã nêu rõ:
Các dự án thuộc thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư, giải quyết chấp thuận đầu
tư của tỉnh là các dư án đầu tư theo pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam không
thuộc danh mục dự án nhóm A và có vốn đắng ký đến 5 triệu USD.
Nhằm phân công rõ trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận đầu tư, tỉnh đã phân
loại khu vực đầu tư như sau:
Nhóm 1: Các KCN đã được Chính Phủ quyết định thành lập.
Nhóm 2: Các khu vưch đã được quy hoạch xây dựng KCN, cụm CN
Nhóm 3: Các khu vực còn lại

Ban quản lý KCN làm đầu mối tiếp nhận dự án đầu tư và cấp phép theo uỷ
quyền vào nhóm 1
Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối tiếp nhận dự án vào các nhóm còn lại có
nhiệm vụ tổng hợp ý kiến, thẩm định, trình tỉnh cấp giấy phép đầu tư hoặc ra quyết
định chấp nhận đầu tư đối với các dự án thuộc thẩm quyền của tỉnh, trình tỉnh chấp
thuận về mặt địa điểm đầu tư, phương án giải phóng mặt bằng và có ý kiến bằng văn
bản để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư hoặc quyết định đầu tư đối với
các dự án không thuộc thẩm quyền của tỉnh.
13
Trình tự xây dựng và tiếp nhận dự án
Xác định vị trí: Căn cứ quy hoạch các khu, cụm công nghiệp đã được thông
qua và nhu cầu của nhà đầu tư, việc xác định vị trí điểm để thực hiện dự án được tiến
hành như sau:
- Đối với các dự án đầu tu vào nhóm 1: công ty phát triển hạ tầng trực tiếp
thoả thuận với nhà đầu tư bố trí dự án theo quy hoạch.
- Đối với các dự án đầu tư vào nhóm 2: Sở Kế hoạch và Đầu tư thống nhất về
nguyện tắc với UBND huyện, thị xã có liên quan về địa điểm bố trí dự án và lập sơ
đồ vị trí dự án
- Đối với các dự án đầu tư vào nhóm 3: Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng
ngành địa chính, xây dựng và UBND huyện ( thị xã) có liên quan khảo sát thực tế vị
trí, quỹ đất, khả năng giải phóng mặt bằng, chậm nhất là 5 ngày làm việc. Sau khi
khảo sát, UBND huyện có trách nhiệm lập sơ đồ vị trí dự án và các sở ngành gửi ý
kiến bằng văn bản gửi về Sở Kế hoạch và Đầu tư. UBND huyện phải chịu trách
nhiệm trước UBND tỉnh về các vấn đề phát sinh ngoài nội dung đã thống nhất.
Về thông báo chủ trương
- Với các dự án đầu tư vào nhóm 1: Ban quản lý KCN thống nhất về chủ
trương đầu tư với nhà đầu tư trên cơ sở quy hoạch đã được duyệt.
- Với các dự án đầu tư vào nhóm 2,3: sau khi sơ bộ thống nhất về vị trí địa
điểm tiếp nhận dự án, lập xong sơ đồ vị trí dự án và xem xét mục tiêu dự án phú hợp
với phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong vòng 3 ngày làm việc Sơ

Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm báo cáo UBND tỉnh về chủ trương tiếp nhận dự
án. Sau 2 ngày làm việc, UBND tỉnh ra thông báo bằng văn vản về chủ trương tiếp
nhận dự án để nhà đầu tư lập hồ sơ dự án theo quy định của pháp luật
Hồ sơ dự án: Sau khi thông báo về chủ trương của UBND tỉnh, cơ quan đầu
mối có trách nhiệm cung cấp mẫu hồ sơ cho chủ đầu tư gồm:
- Đơn xin cấp giấy phép đầu tư.
14
- Hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Điều lệ công ty.
- Giải trình kinh tế kỹ thuật.
- Văn bản xác nhận tư cách pháp lý, tình hình tài chính của các nhà đầu tư
- Sơ đồ vị trí hoặc bản trích lục bản đồ vị trí khu đất và thoả thuận nguyên tắc
phương án đền bù, giải phóng mặt bằng với đơn vị đang quản lý khu đất.
- Sơ đồ tổng mặt bằng dự án.
Thẩm định dự án: Trong vòng 4 ngày kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan
đầu mối lấy ý kiến các sở, ngành, địa phương có liên quan. Cụ thể:
- Sở chuyên ngành có ý kiến về mục tiêu.
- Sở Xây dựng phê duyệt tổng mặt bằng
- Sở Địa chính có ý kiến về kế hoạch sử dụng đất.
- Sở Tài nguyên môi trường có ý kiến về phương án bảo vệ môi trường sinh
thái.
- UBND huyện (TP) có ý kiến về phương án giải phóng mặt bằng.
Các sở ngàng địa phương được lấy ý kiến về dự án có trách nhiệm phải trả lời
trong vòng 6 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản của cơ quan đầu mối.
Trường hợp có những ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự
án, cơ quan đầu mối tổ chức hội nghị thống nhất ý kiến trước khi trình UBND tỉnh.
Nếu có yêu cầu sửa đổi, bổ sung dự án trong vòng 10 ngày làm việc kể từ
ngày nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan đầu mối thông báo cho chủ đầu tư bằng văn bản về
nội dung phải sửa đổi bổ sung.
15

Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của các Bộ, ngành mà chưa được quy
định cụ thể, UBND tỉnh lấy ý kiến các Bộ, ngành có liên quan bằng văn bản, thời hạn
trả lời theo các quy định hiện hành của pháp luật.
Quyết định tiếp nhận dự án: Sau khi có ý kiến thống nhất của các ngành, địa
phương, Sở Kế hoạch và Đầu tư trình UBND tỉnh cấp giấy phép đầu tư hoẳc ra quyết
định chấp thuận đối với các dự án đầu tư vào nhóm 2 và 3. Ban quản lý KCN cấp
giấy phép đầu tư hoặc ra quyết định chấp thuận đối với các dự án vào nhóm 1, thời
gian là 5 ngày làm việc, nếu không chấơ thuận thì phải thông báo bằng văn bản cho
nhà đầu tư biết rõ lý do, đồng thời gửi các cơ quan có liên quan. Thời hạn trên không
kể thời gian nhà đầu tư sửa đổi, bổ sung hồ sơ dự án.
Giải phóng và bàn giao mặt bằng: Với các dự án đâuf tư vào nhóm 1, sau khi
được cấp giấy phép đầu tư, công ty hạ tầng và kinh doanh hạ tầng KCN có trách
nhiệm hoàn tất các thủ tục cần thiết về cho thuê lại đất và bàn giao mặt bằng cho nhà
đầu tư. Với các dự án vào nhóm 2 và 3, căn cứ quyết định cho thuê đất của UBND
tỉnh, UBND các huyện ( thị xã) có trách nhiệm cùng nhà đầu tư thực hiện công việc
đền bù, giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư. Với các dự án đầu
tư vào nhóm 2, việc đền bù giải phóng mặt bằng và giao đất cho nhà đầu tư được
thực hiện theo đúng quy hoạch và phương án giải phóng mặt bằng của từng khu, cụm
công nghiệp đã được UBND tỉnh phê duyệt khi thông qua quy hoạch. Chủ tịch
UBND huyện (thị xã) chịu trách nhiệm hoàn thành về tiến độ giải phóng mặt bằng,
thời gian bàn giao mặt bằng thực hiện xong trong vòng 15 ngày kể từ ngày có quyết
định cho thuê đất.
Trách nhiệm của các sở, ngành:
- Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm thông báo hướng gọi vốn đầu tư,
danh mục dự án đầu tư trong từng giai đoạn, thông qua các cơ quan chức năng Nhà
nước, các cơ quan tư vấn và các tổ chức nước ngoài để vận động đầu tư tìm đối tác
thực hiện dự án. Là đầu mối tiếp xúc với các nhà đầu tư đến tìm cơ hội đầu tư trong
tỉnh. Tiếp nhận dự án, tổng hợp ý kiến thẩm định của các sở ngành trình tỉnh quyết
16
định, tổng hợp giúp tỉnh phân tích, đánh giá các hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh,

theo dõi giám sát việc triển khai dự án.
- Ban quản lý KCN tiếp nhận và quản lý hoạt động của dự án đầu tư ở nhóm 1
theo thẩm quyền được giao, thực hiện các nhiệm vụ được giao theo uỷ quyền của các
Bộ, Ngành.
- Sở xây dựng thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xây dựng trên địa bàn.
- Sở Thương mại du lịch thẩm định trình tỉnh duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu
đối với các doanh nghiệp theo phân cấp của Bộ Thương mại, thực hiện quản lý công
tác Nhà nước về xuất nhập khẩu và các hoạt động thương mại khác của doanh nghiệp
đầu tư trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
- Sở Lao động thương binh xã hội chịu trách nhiệm quản lý lao động trong các
doanh nghiệp theo quy định của Lụât Lao động, cùng liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Kế
hoạch và Đầu tư đề xất các biện pháp giải quyết mối quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động trên nguyên tắc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và chính đáng
của người lao động và người sử dụng lao động. Quản lý và tổ chức việc tuyển chọn,
đào tạo, giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
- Sở Tài nguyên và môi trường chịu trách nhiệm theo dõi giám sát việc tuân
thủ những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp.
- UBND cấp huyện và cấp xã thực hiện quản lý Nhà nước trên địa bàn, có
trách nhiệm phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc đảm bảo an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội tại khu vực triển khai dự án.
Thực tế triển khai các quy định trên còn có nhiều bất cập, chủ yếu do các cấp,
các ngành của địa phương chưa thống nhất và phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc
tiếp nhận các dự án vào địa phương, nổi cộm một số vấn đề là:
Yêu cầu đầu tiên của các nhà đầu tư khi tìm hiểu môi trường đầu tư của một
địa phương là được cung cấp nhanh, chính xác thông tin về các khu vực có thể đầu
tư, chi phí đền bù, giải toả, giá tiền thuê đất, điều kiện cơ sở hạ tầng, diạch vụ điện
17
nước, nguồn nhân lực… cách thức đền bù giải phóng mặt bằng, dự kiến thời gian đền
bù giải toả mặt bằng. Trên cơ sở các thông tin họ mới có thể so sánh, đối chiếu, quyết

định chọn địa bàn đầu tư, từ đó mới lập được dự án khả thi để quyết định đầu tư.
Trên thực tế khi đến Hưng yên các nhà đầu tư mất nhiều thời gian để có được các
thông tin này do tỉnh chưa có quy định cụ thể về mức đền bù giải toả, xác định các
thông tin trên thiếu sự thống nhất từ tỉnh đến cơ sở.
Về địa điểm bố trí dự: Chủ đầu tư phải trực tiếp tiếp xúc với lãnh đạo các cấp
chính quyền địa phương, có địa phương phải trực tiếp họp bàn với đại diện các hộ
mất đất, báo cáo dự án với lãnh đạo chính quyền địa phương mới thống nhất được địa
điểm. Vì vậy, có trường hợp tỉnh có văn bản thông báo vị trí để địa phương làm thủ
tục, địa phương còn phản ứng, gây khó khăn vì chủ đầu tư chưa thống nhất với địa
phương. Có trường hợp việc bố trí của huyện và xã không hợp với quy hoạch chung,
dẫn đến phá vỡ quy hoạch.
Xác định chi phí đền bù giải toả: Mất rất nhiều thời gian, chủ yếu để thống
nhất về khoản hỗ trợ địa phương và hỗ trợ lao động. Các chủ đầu tư phải trực tiếp
thoả thuận với UBND xã, thị trấn nơi có đất về đơn giá đền bù, hỗ trợ địa phương,
chi phí cho việc đền bù giải phóng mặt bằng… trong quá trình thoả thuận, mỗi địa
phương lại có phương thức, cách làm việc riêng và tổng mức chi phí đền bù khác
nhau, chưa tạo được sự thống nhất chung trên toàn tỉnh dẫn đến tình trạng các chủ
đầu tư không muốn thuê một khu đất liên quan đến 2 địa phương. Đây cũng là một
nguyên nhân dẫn đến phá vỡ quy hoạch. Hiện nay có tình trạng mức chi phí đền bù
giải toả ngày càng tăng và khi thống nhất dự án sau cao hơn dự án trước, nếu dự án
trước chưa đền bù xong, địa phương lại gây khó dễ để yêu cầu các chi phí bổ xung
gây tâm lý hoang mang, khó chịu cho các nhà đầu tư. Trong nghị quyết số 09-
NQ/TU, ban thường vụ tỉnh uỷ đã yêu cầu phải sớm ban hành thống nhất đơn giá đền
bù nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được.
Về tuyển dụng lao động: Theo các quy định hiện hành, việc tuyển lao động
trên nguyên tắc ưu tiên người mất đất của địa phương, hiện nay chính quyền các xã
mặc nhiên coi là một điều kiện kiên quyết với định mức 350-360m/lao động. Việc
đưa cụ thể mức lao động đối với mỗi dự án đã ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư ví
18
khả năng thu hút lao động của mỗi dự án khác nhau, có những dự án không trực tiếp

giải quyết nhiều lao động nhưng có thể giải quyết gián tiếp hoặc đóng góp ngân sách
lớn. Đã có một số dự án do không thể nhận lao động của địa phương vào làm việc,
nên đã chấp nhận đền bù thêm cho mỗi xuất lao động 3-5 triệu đồng… Đến nay các
dự án đầu tư vào địa bàn huyện Văn Lâm đều có khoản hỗ trợ chuyển việc làm. Hiện
nay một số dự án ở xã Giai Phạm (Yên Mỹ) không giải phóng mặt bằng được vì một
số người đã nhận tiền đền bù nhưng số họ còn lại yêu cầu hỗ trợ mất việc làm như
Văn Lâm, nếu đáp ứng yêu cầu nay sẽ gây phản ứng dây chuyền đối với các hộ đã
gương mẫu nhận tiền trước.
Tóm lại: Mặc dù đã có sự nỗ lực rất nhiều trong việc đưa ra quy chế điều
hành riêng đối với thu hút và tiếp nhận đầu tư nói chung và FDI nói riêng, nhưng việc
ban hành quy chế còn rất nhiều bất cập như đã nêu trên dẫn đến hậu quả phát huy
những quy định này rất thấp. Việc đưa những quy định này vào thực tiễn gặp rất
nhiều kho khăn, ví các địa phương cũng có quy chế riêng để tiếp nhận đầu tư, trong
nhiều trường hợp dẫn đến tình trạng “ phép vua thua lệ làng”,do vậy dẫn đến tình
trạng mỗi nhà đầu tư làm thủ tục theo một hướng khác nhau. Ngoài ra việc xử lý và
trả lời chậm trong khi điều hành không đáp ứng được các yêu cầu do quy định đặt ra
cũng làm nhiều nhà đầu tư băn khoăn, suy nghĩ và thiếu lòng tin với quy định này.
1.2.Thực trạng đầu tư trực tiếp(FDI) tại tỉnh Hưng Yên.
1.2.1. Tình hình thực hiện vốn FDI giai đoạn 2003 - 2009.
Trước tái lập tỉnh năm 1997, tuy có vị trí khá thuận lợi nhưng trong thời gian
dài ít được chú ý nên kinh tế của Hưng yên chậm phát triển. Trong thời gian qua
Hưng yên được đánh giá là một trong số ít tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và
bền vững, thực hiện thành công một trong những mục tiêu phát triển là chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ là chủ yếu, trở thành một trong
những địa phương có tiềm năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bảng 1: Tình hình đầu tư nước ngoài vào Hưng Yên trong giai đoạn
2003- 2009
19
Năm Tổng số DA Tổng số vốn thực hiện Tăng trưởng (%)
1996

5
61.430 -
2003
5
61.430 0
2004
6
62.930 102
2005
6
62.930 0
2006
9
81.541 129
2007
13
100.341 123
2008
28
116.000 156
2009 36 146.285 126
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng yên
Với 36 dự án tương đương với 146.285 triệu USD vốn thực hiện, Hưng Yên hiện
đứng thứ 23 trong số 61 tỉnh, thành phố có dự án FDI. Từ chỗ có 5 dự án với tổng số
vốn đầu tư 61,43 triệu USD , đến hết năm 2009 địa bàn đã có 36 dự án được cấp
phép đầu tư với số vốn thực hiện là 146,285 triệu USD.Trong giai đoạn 1996 –
2005 ,tốc độ tăng trưởng bình quân thấp 34% , tổng số vốn thu hút bình quân khoảng
62.430 triệu USD, vốn đầu tư có tốc độ tăng trưởng thấp gần như thay đổi không
đáng kể do sự ảnh hưởng của việc tách từ tỉnh Hải Hưng cũ, cơ sở vật chất chưa
được chú trọng đầu tư , ngoài ra đây là giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế khu vực

châu á, kinh tế các nước đang khắc phục hậu quả đó.
Giai đoạn 2006- 2009, vốn đầu tư có dấu hiệu tăng trưởng năm 2006 là 81.541
triệu USD, tăng 1,29 lần so với năm 2005, những năm sau này tốc độ tăng trưởng có
phần thay đổi tăng rồi giảm không cố định đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng
133.5 %/năm, tuy vậy tính cả giai đoạn 2006-20009, bình quân mỗi năm thu hút được
111.04 triệu USD cao hơn bình quân giai đoạn 2003- 2005 là 77,8 %
1.2.2. FDI của tỉnh phân theo ngành.
Nguồn vốn FDI đầu tư vào tỉnh được phân bố đa dạng theo các ngành cụ thể như
sau:
Bảng 2: Cơ cấu các dự án FDI theo ngành vào Hưng yên 2003-2009
Đơn vị tính: 1.000USD
20
Năm Tổng
số DA
Tổng số vốn
Điện tử, cơ khi,
hoá chất
Chế biến TP, thức ăn
gia súc, nước giải
khát
Dệt may, giầy
giép, gốm sứ
Tổng số
DA
T.vốn
đầu tư
Tổng số
DA
T.vốn đầu


Tổng
số DA
T.vốn
đầu tư
1996 5 61.430 3 55.500 1 3.500 1 2.430
2003 5 61.430 3 55.500 1 3.500 1 2.430
2004 6 62.930 4 57.000 1 3.500 1 2.430
2005 6 62.930 4 57.000 1 3.500 1 2.430
2006 9 81.541 5 62.000 3 17.111 1 2.430
2007 13 100.341 7 73.800 4 23.111 2 3.430
2008 28 116.000 17 93.487 5 24.911 6 8.853
2009 36 146.285 21 114.768 5 17.229 10 14.288
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng yên
Xu hướng FDI đầu tư vào Hưng yên thời gian qua tập trung vào các ngành
điện tử, cơ khí, hoá chất, đây là những ngành yêu cầu trình độ công nghệ cao, là
những ngành được tỉnh ưu tiên trong chiến lược phát triển công nghiệp và có khả
nănh phát triển lâu dài, bền vững. Năm 2003 số dự án đầu tư vào lĩnh vực điện tử, cơ
khí, hoá chất là 3 trong tổng số 5 dự án với tổng số vốn đầu tư tương ứng là 55,5 triệu
USD trong tổng số 61,43 triệu USD. Năm 2009 con số này là 21 trong tổng số 36 dự
án với tổng số vốn tương ứng là 114.768 triệu USD trong tổng số 146.285 triệu USD,
chứng tỏ những dự án đầu tư có trình độ công nghệ cao đang chiếm ưu thế. Năm
2009 tỷ trọng của các ngành công nghiệp này chiếm khoảng 18% tổng GDP toàn tỉnh
và khoảng 47% tổng GDP của toàn ngành công nghiệp.
Sự đóng góp của các ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ cao ngày càng tăng
trong GDP của tỉnh nói chung và ngành công nghiệp nói riêng, là hướng đi vững chắc
trong dịch chuyển cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trong thời gian vừa qua, nguồn vốn FDI
đã khẳng định được vai trò tiên phong trong việc sử dụng công nghệ cao, góp phần
phát triển lâu dài nền công nghiệp, nâng cao tỷ trọng công nghệ trong cơ cấu kinh tế.
Xét về mặt tổng quan thì nguồn vốn FDI đã đóng vai trò khá quan trọng trong
dịch chuyển cơ cấu kinh tế của tỉnh Hưng yên theo hướng công nghiệp - dịch vụ là

chủ yếu ( là cơ cấu của nền kinh tế hiện đại). Nguồn vốn FDI phần lớn đầu tư vào các
ngành công nghiệp điện tử, cơ khí và hoá chất, là những ngành đòi hỏi kỹ thuật công
nghệ cao, các sản phẩm của ngành này đang giữ vai trò quan trọng trong GDP của
21
ngành công nghiệp nói riêng và của toàn tỉnh nói chung, đây là dấu hiệu đáng mừng
vì quá trình công nghiệp hoá về mặt lâu dài phải dựa chủ yếu vào các ngành này.
Nguồn vốn FDI là yếu tố quan trọng để đưa Hưng yên từ cơ cấu kinh tế dựa chủ yếu
vào nông nghiệp năm 2003 chuyển thành tỉnh có cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý như
ngày nay. Để đạt được mục tiêu vào năm 2010 và 2020. Hưng yên cần coi trọng và
có chính sách cụ thể để thu hút nguồn vốn này.
Ngành công nghiệp là mục tiêu đầu tư của FDI vào Hưng yên trong thời gian
qua, vì vậy các sản phẩm của FDI chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp, do đó FDI
làm tăng tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp trong tổng sản lượng chung của tỉnh.
Sản lượng nông nghiệp hàng năm vẫn tăng nhưng tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
toàn tỉnh lại giảm vì vậy, nguyên nhân chính là do các ngành công gnhiệp và dịch vụ
tăng nhanh hơn. Tỷ trọng sản phẩm của FDI đóng góp cho ngành công nghiệp tăng
rất nhanh, bình quân (2003-2009) là 27%/năm, tốc độ này là 18% cho toàn ngành
công nghiệp.
Các ngành công nghiệp kỹ thuật cao (điện tử, cơ khí và hoá chất) là thế mạnh
của FDI, thực tế đầu tư vào Hưng yên những năm vừa qua, ngành này chiếm hơn
70% tổng số FDI. Động thái đầu tư này đã làm thay đổi cơ cấu các sản phẩm công
nghiệp trong ngành công nghiệp theo hướng gia tăng các sản phẩm công nghệ kỹ
thuật cao.
Các dự án của FDI hoạt động trên địa bàn tỉnh đã kích thích sự phát triển của
các ngành dịch vụ như: Dịch vụ tài chính – ngân hàng, dịch vụ bưu chính viễn thông,
dịch vụ vui chơi giải trí…góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành dịch vụ trong tổng
sản phẩm toàn tỉnh.
FDI tác động đến cơ cấu việc làm từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ lao
động công nghiệp giản đơn sang lao động công nghiệp đòi hỏi kỹ thuật công nghệ
cao. Các dự án của FDI chư yếu đầu tư vào các ngành điện tử, cơ khí và hoá chất nên

đội ngũ công nhân làm việc trong lĩnh vực này phải có tay nghề cao. Một số lao động
chuyển từ lao động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sẽ phải được đào tạo để
22
chuyển sang đáp ứng yêu cầu này, do đó cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng
dần tỷ trọng lao động kỹ thuật cao.
FDI còn tác động đến cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, trước đây Hưng yên
xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các sản phẩm
gia công. Từ khi tái lập tỉnh, đặc biệt có sự tham gia của FDI, các mặt hàng xuất khẩu
đã thay đổi đáng kể, năm 2009 xuất khẩu từ FDI khoảng 25,5 triệu USD, chiếm
khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh chủ yếu là các sản phẩm có trình độ
công nghệ cao như điện tử, chế tạo…
Như vậy, từ kết quả phân tích trên cho thấy động thái dòng vốn FDI đã tác
động mạnh không những đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp, dịch vụ là chủ yếu, mà FDI còn làm thay đổi cơ cấu trong nội tại ngành
công nghiệp, xu hướng rõ nét là sự tăng nhanh những ngành có công nghệ kỹ thuật
cao, chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng gia tăng lao động có trình độ tay nghề
cao, tăng tỷ trọng hàng hoá qua chế biển tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, góp
phần thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ.
1.2.3. Tình hình FDI của tỉnh phân theo hình thức đầu tư.
Bảng 3: Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hưng Yên đến hết năm 2009
STT Loại hình Số dự án Số vốn đầu tư(triệu đô)
1 100% vốn nước ngoài 23 79.8
2 Doanh nghiệp liên doanh 8 24.3
3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 5 42.185
Nguồn: Báo cáo tổng hợp- sở kế hoạch đầu tư Hưng Yên
23
Nếu như những năm đầu giai đoạn 2003 – 2009 hình thức liên doanh chiếm
đa số liên doanh là hình thưc chiếm tỷ trọng lớn trong số các hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Hưng Yên (chiếm 63.9 % số dự án và chiếm 54.55% lượng vốn
đầu tư ). Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, vốn góp của bên Việt Nam thường là giá

trị quyền sử dụng đất (thường chiếm tỷ trọng không cao trong vốn góp liên doanh)
vốn bằng tiền rất ít. Điều đó sẽ là một bất lợi cho bên Việt Nam trong liên doanh, bởi
chủ đầu tư sẽ có nhiều quyền hạn hơn trong việc sử dụng vốn hoạt động, áp dụng
công nghệ sử dụng máy móc của họ mà bên Việt Nam ít được tham gia thẩm định
đánh giá chính xác giá trị của nó hoặc nếu được tham gia thì cũng ít có khả năng
đánh giá.
Hình thức đầu tư dần được chuyển sang đầu tư 100% giai đoạn 2003-2009
chiếm 38% trên tổng số dự án được cấp phép đầu tư, đặc biệt là năm 2004 chiếm
56%, năm tháng đầu năm 2010 chiếm 65%.
với hàng loạt các công ty mới như : công ty TNHH Dos- tex Việt Nam,công ty
TNHH RFTECH Việt Nam, công ty TNHH ace Vina, công ty TNHH Yo won NRT,
công ty TNHH Shin Yong… hầu hết các công ty theo hình thức này đều là công ty
TNHH 1 thành viên với các ngành nghề mới nhiều tiềm năng khai thác tại 1 địa bàn
nhiều thuận lợi với đặc điểm sản xuất của công ty.
1.2.4. FDI phân theo các đối tác.
Tính đến hết năm 2009 , Hưng Yên đã cấp phép cho 36 dự án với tổng số vốn
đầu tư là 146,285 triệu USD. Trong giai đoạn 2003-2009 , đầu tư nước ngoài được
đánh giá là có tăng trưởng nhưng tốc độ không cao nhưng hoạt động của các dự án
khả quan.Hưng Yên đã thiết lập mối quan hệ với rất một số quốc gia trong khu vực
và trên thế giới.
Bảng 4: Các chủ đầu tư lớn của Hưng Yên giai đoạn 2003-2009
STT Tên quốc gia Số dự án Vốn đầu tư(Triệu
USD)
Tỷ
trọng(%)
1 Singapore 4 16,253 11,1
2 Nhật Bản 8 28,4 19,4
3 Hàn Quốc 9 36,57 24,9
4 Đài Loan 3 12,2 8,3
24

5 Trung Quốc 4 21.3 14.56
6 Thuỵ Điển 2 7.8 5,3
7 Các nước khác 6 23.762 16,24
Tổng 36 146,285 100
Như vậy, các chủ đầu tư lớn của Hưng Yên đều nằm trong khu vực châu
á.Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn đứng đầu trong tổng số vốn đầu tư vào Hưng Yên, ưu đãi
đầu tư tại địa phương thuận lợi, nguồn nhân công rẻ là những yếu tố cần thiết đối với
các quốc gia này. Đối với các nước khác Hưng yên vẫn là tỉnh còn mới nên chưa dám
mạo hiểm đầu tư dẫn tới số lượng đầu tư ít
1.3. Đánh giá thực trạng.
1.3.1.Kết quả.
Trước tiên, chính sách mở cửa thu hút vốn FDI đã kịp thời bổ sung nguồn vốn
thiếu hụt trong nước, bổ sung đáng kể vào nguồn vốn đầu tư phát triển.Đến năm
2009, khu vực FDI của Hưng Yên đã đóng góp được 146,285 triệu USD cho vốn đầu
tư phát triển. Cùng với sự ra tăng nguồn vốn FDI vào Hưng Yên, các nguồn vốn
trong nước cũng gia tăng mạnh mẽ, mặc dù FDI tăng về lượng nhưng tỉ trọng FDI
/tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại giảm dần.Điều này chứng tỏ việc huy đông FDI đã
tác động tích cực đến việc huy động vốn từ các nguồn khác, đặc biệt là vốn đầu tư
của khu vực trong nước.
FDI đặc biệt có hiệu quả trong lĩnh vực công nghiệp, đây là lĩnh vực thu hút
FDI nhiều nhất và cũng là ngành có vốn hiệu lực cao nhất.Vì vậy, mặc dù FDI trong
các ngành khác có hiệu quả kém, nhưng toàn bộ khu vực FDI vẫn đạt hiểu quả cao
hơn các khu vực khác trong nền kinh tế. Hiệu quả của khu vực FDI trong lĩnh vực
này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hưng Yên theo hướng CNH – HDH.
FDI có hiệu quả trong việc thực hiện chiến lược về xuất khẩu.Giá trị xuất
khẩu của khu vực FDI trong giai đoạn này tăng ngoạn mục ngay cả trong những năm
Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm (sau khủng hoảng khu vực,hàng
loạt các quốc gia châu á bị phá giá đồng tiền và thu hẹp nhập khẩu)và hiện các quốc
25

×