LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thế
giới hiện nay. Đối với mỗi quốc gia đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang ý nghĩa
cực kỳ quan trọng, nó không chỉ tạo ra nguồn thu thứ cho nền kinh tế mà còn
góp phần giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tránh các rào cản
thuế quan và phi thuế quan, mở rộng thị trường... Nhận thức được tầm quan
trọng đó trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương
chính sách nhằm khai thác lợi ích của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Tuy nhiên hiện nay hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam mới
chỉ ở những bước đi chập chững đầu tiên. Đồng thời hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài đã bộc lộ nhiều hạn chế như: vốn đầu tư ít, không có chiến lược đầu
tư dài hạn, các doanh nghiệp thì thiếu kinh nghiệm kinh doanh trên thương
trường quốc tế... thêm vào đó cơ chế chính sách của Nhà nước tuy đã có nhiều
đổi mới nhưng vẫn còn nhiều rào cản, thiếu chính sách thúc đẩy doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Trên cơ sở thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp”.
1
Chương I: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở các nước đang phát triển.
I. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở các nước đang phát triển.
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư Việt Nam 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2006): Ðầu tư
trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp
pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư.
2. Các hình thức đầu tư ra nước ngoài ở các nước đang phát triển.
Có thể nói FDI được thực hiện thông qua hai kênh chủ yếu là: Đầu tư mới
(GI) và Liên minh và sáp nhập (M&A).
Đầu tư mới là hình thức các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài
thông qua một doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống và thường
gặp ở các nước đang phát triển.
M&A là hình thức mà chủ đầu tư tiến hành thông qua mua lại, liên minh
và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu
được thực hiện ở các nước phát triển.
So với doanh nghiệp ở các nước phát triển thì doanh nghiệp ở các nước
đang phát triển khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có các đặc diểm khác sau:
- Về quy mô vốn: Trong khi doanh nghiệp ở các nước phát triển khi đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài thường là các dự án với quy mô khá lớn thì đa số hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ, số
vốn nhỏ bé. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khi đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài thì các dự án có quy mô lớn rất khiêm tốn, dự án lớn nhất mà Việt Nam
tham gia chỉ có quy mô khoảng trên 200 triệu USD.
2
- Trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp ở các nước đang
phát triển là khá thấp so với doanh nghiệp ở các nước phát triển nên, đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài ở các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào những
ngành, những lĩnh vực không yêu cầu trình độ công nghệ quá cao, sử dụng nhiều
lao động.
- Các tập đoàn , các doanh nghiệp ở các nước phát triển chủ yếu đầu tư ra
nước ngoài qua hình thức 100% vốn nước ngoài, còn các doanh nghiệp ở các
nước đang phát triển thì do trình độ lao động kém, khả năng quản lý còn nhiều
yếu kém, khả năng tài chính còn hạn chế... nên chủ yếu đầu tư qua hình thức liên
doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh... rất ít dự án 100% vốn nước ngoài. Các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng rất ít có
dự án 100% vốn của Việt Nam, các dự án 100% vốn Việt Nam thì quy mô vốn
rất nhỏ bé.
Ở các nước đang phát triển hiện nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thường
được thực hiện thông qua kênh GI, với những hình thức thường được áp dụng
phổ biến là:
2.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Đây là hình thức mà hai hay nhiều bên hợp tác kinh doanh với nhau dựa
trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hình thức này có đặc điểm:
Không thành lập pháp nhân mới.
Hoạt động dựa trên văn bản ký kết giữa các bên. Khi hết thời hạn hiệu lực
thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý.
2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do một hoặc
nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp tại nước sở tại trên
cơ sở hợp đồng liên doanh. Đặc điểm:
3
Thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi
ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên
2.3. Hìn thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Đây là hình thức doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ
vốn để thành lập. Đặc điểm:
Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật nước sở tại. Doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của
tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý và chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp là một pháp nhân của nước nhận đầu tư.
2.4. Hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT).
Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại
với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng
trong một thời gian. Hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi
hoàn hoặc với một giá tượng trưng công trình đó cho nước sở tại.
Các hình thức biến tướng của BOT là BT và BTO.
BTO là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước sở tại và nhà đầu tư nước
ngoài về việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong
nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại sẽ
cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một khoảng thời
gian nhất định để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi.
BT là hình thức văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước sở tại và nhà đầu
tư nước ngoài về xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng song
nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính ohủ nước sở tại tạo
4
điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư
và có lợi nhuận hợp lý.
II. Doanh nghiệp ở các nước đang phát triển với hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.
1. Sự cần thiết phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cuả các doanh nghiệp ở
các nước đang phát triển.
1.1. Giúp doanh nghiệp ở các nước đang phát triển làm quen và thích nghi
với thị trường thế giới.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang
thực hiện không những góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của Việt Nam mà còn giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường thế giới và
tìm kiếm nguồn lợi nhuận. Đây là điều rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp tự
tin không những trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà cả trong giúp doanh
nghiệp chủ động hơn trong việc đón nhận việc mở cửa thị trương trong nước.
Bên cạnh đó doanh nghiệp còn học được nhiều bài học trong đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài cũng như việc hoạt động trong nền kinh tế thế giới, từ đó có
thể tạo ra động lực và niềm tin cho các doanh nghiệp trong nước cùng nhau đoàn
kết để mang lại chiến thắng tromg cuộc cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một lĩnh vực chứa đựng nhiều khó khăn
thử thách, song cũng là một cơ hội rất lớn nếu các doanh nghiệp biết nắm bắt để
tạo ra khả năng mới cho nền kinh tế.
1.2. Giúp doanh nghiệp ở các nước đang phát triển tiếp cận với những tiến
bộ khoa học công nghệ.
Trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ thông tin thì đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài là một trong những phương thức mà các doanh nghiệp ở các
5
nước đang phát triển có thể áp dụng để tiếp cận với khoa học công nghệ cao,
đồng thời học hỏi những ứng dụng trong công nghệ thông tin.
Ngày nay khoa học công nghệ và công nghệ thông tin đang biến đổi và
phát triển từng giây từng phút, những áp dụng của nó có vai trò vô cùng quan
trọng đối với kinh tế và trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Khi thực hiện
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở các nước tiên tiến có khoa học công nghệ phát
triển cao thì Việt Nam có cơ hội được tiếp cận trực tiếp với những ứng dụng
khoa học công nghệ ở các nước này. Hơn nữa khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
thì các doanh nghiệp có thể đem những tiến bộ khoa học công nghệ cao mà trong
nước chưa có điều kiện áp dụng để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tạo ra những
sảm phẩm mới, thị trường mới có sức cạnh tranh cao tại các nước phát triển.
1.3. Giúp các doanh nghiệp san sẻ rủi ro trong đầu tư và kinh doanh.
Rủi ro luôn luôn là người bạn đồng hành của nhà đầu tư. Một trong những
biện pháp để san sẻ, phòng tránh rủi ro là thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, đa dạng hóa các danh mục đầu tư nhằm thu được lợi nhuận, củng cố hoạt
động kinh doanh bền vững, ổn định và sự phát triển của các doanh nghiệp: Nhằm
giảm thiểu rủi ro về lạm phát, rủi ro về tỷ giá...Mặt khác đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài còn tạo ra các khoản thu bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp góp phần làm
tăng ngoại tệ của đất nước, giúp cho cán cân thanh toán được ổn định và phát
triển theo chiều hướng tốt.
1.4. Tạo điều kiện để doanh nghiệp đổi mới cơ cấu sản xuất, tăng cường
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp đổi mới cơ cấu
sản xuất, tạo điều kiện để áp dụng các công nghệ sản xuất mới, tăng cường tính
năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.5. Giúp các doanh nghiệp phát huy được lợi thế của mình.
6
Mỗi doanh nghiệp đều có điểm mạnh, lợi thế riêng của mình, việc đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tận dụng tối da được lợi thế đó,
phát huy được điểm mạnh về sản phẩm của doanh nghiệp đặc biệt là các sản
phẩm truyền thống riêng có cuả quốc gia
2. Những điều kiện để các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có thể
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
2.1. Các điều kiện về phía bản thân các doanh nghiệp.
Tuy các nước đang phát triển có thể nói là rất thiếu vốn để đầu tư phát
triển đất nước. Nhưng họ vẫn mong muốn mang nguồn vốn của mình ra nước
ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm nơi cho khả năng sinh lời
cao hơn trong nước. Để có thể tiến hành được các hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, thì các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển cần các điều kiện
sau:
- Có tiềm lực tài chính đủ mạnh.
Vốn là một yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một doanh nghiệp nào, để
có thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thành công thì các doanh nghiệp phải có
một nguồn tài chính dồi dào, đủ để thực hiện đầu tư nhanh chóng nhằm chớp cơ
hội trên thị trường và thu lợi nhuận cao. Nhưng muốn có tiềm lực tìa chính vững
vàng thì doanh nghiệp phải có một quá trình tích tụ và tập trung vốn, đây là một
quá trình lâu dài. Và quá trình này là kết quả của cạnh tranh trên thị trường.
- Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp phải đạt tới
mức có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư, hay phải có những bí
quyết kỹ thuật riêng, kỹ năng riêng.
- Các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Với một năng lực cạnh tranh mạnh mẽ sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp có
thể tồn tại và chiến thắng ở những nơi mà doanh nghiệp tiến hành đầu tư sản
7
xuất kinh doanh. Và khả năng cạnh tranh là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp
tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Các doanh nghiệp phải có một đội ngũ nhân viên đủ năng lực đầu tư.
Đội ngũ cán bộ phải có năng lực, am hiểu, để có thể phân tích tình hình.
Đặc biệt phải có đội ngũ cán bộ am hiểu lĩnh vực mà mình định đầu tư, biết khai
thác triệt để mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng triệt để mọi cơ hội
đầu tư.
2.2. Về phía Nhà nước.
Có thể nói chính sách của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp.
- Đầu tiên, Nhà nước phải có chính sách để thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Trước hết phải có khung hành lang pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ cho
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đồng thời phải có các hoạt động để thúc đẩy hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, như: Ký các hiệp định đầu tư song phương và đa biên;
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, cung cấp các thông tin về môi trường đầu tư ở
nước ngoài...
Bên cạnh đó, chính phủ có thể khuyến khích hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài thông qua việc thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư ở nước ngoài,
phát triển các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư, hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn... Đó là các
hoạt động cung cấp thông tin thị trường, thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm
kinh doanh, thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài....
- Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế vĩ mô trong nước ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như các chính sách về tiền tệ, xuất
nhập khẩu, quản lý ngoại hối...
8
Sự thay đổi chính sách tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng hoặc ngược lại
hoặc hồn hợp sẽ tác dộng mạnh mẽ đến lãi suất thực tế, từ đó làm tăng hoặc
giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Chính sách nới lỏng hay thắt chặt quản lý ngoại hối ở các nước đầu tư có
tác động mạnh đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi quản lý ngoại hối theo
hướng tự do hoá thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn
ra nước ngoài, từ đó đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
9
Chương II. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay.
I. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Nhà nước coi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp là một
hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và phù
hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chịu nhiều rủi ro đặc trưng mà hoạt động
đầu tư trong nước không có hoặc không trực tiếp chịu tác động. Do đó Nhà nước
có các biện pháp và chính sách để hỗ trợ và khuyến khích thích hợp với hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia trong việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Triệt để khai thác thế mạnh của đối tác đầu tư ở nước ngoài để tăng
cường khả năng của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Tận dụng cơ
hội để nâng cao khả năng công nghệ, khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp Việt
Nam.
II. T ình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1. Tình hình chung của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự án
đầu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài là vào năm 1989
với số vốn 563.380 triệu Đôla Mỹ nhưng đáng tiếc dự án này đã không được
thực hiện. Từ thời điểm năm 1989 - 1998, mỗi năm có vài ba dự án, năm nhiều
10
nhất có năm dự án (1993) đầu tư ra nước ngoài nhưng vốn thực hiện còn thấp, có
năm không giải ngân được đồng nào. Có những năm không có dự án nào cả như
các năm 1995, 1996, 1997. Điều này có thể lý giải là do trong giai đoạn này
chúng ta tập trung tất cả nguồn lực trong nước để phát triển đất nước, đưa nước
ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, hơn nữa khi đó chúng ta vẫn chưa có một
văn bản quy phạm pháp luật chính thức về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tính
đến năm 1998 chúng ta đã có tổng số 18 dự án với tổng số vốn đăng ký khoảng
13,9 triệu USD, trong đó vốn điều lệ khoảng 13,3 triệu USD, bên Việt Nam đóng
góp khoảng 7,2 triệu USD.
Kể từ năm 1999, khi Chính phủ ban hành Nghị định 22 về một số biện
pháp khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam bắt đầu có sự tăng trưởng ổn định. Đây được coi như là cú hích
rất mạnh vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Năm 1999 có 10 dự án với quy mô vốn trung bình một dự án là 1.233.779
USD, năm 2000 tăng lên 15 dự án, năm 2001 là 13 dự án với tổng vốn đăng ký
là 7.696.452 USD. Năm 2002 có 15 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được
cấp giấy phép với số vốn đăng ký đạt gần 172 triệu USD, vốn pháp định 134,5
triệu USD nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 1,7 triệu USD. Năm 2003 là 25 dự án,
năm 2004 là 17 dự án.
Trong năm 2005 việc Luật đầu tư chung chính thức có hiệu lực, đồng thời
năm 2006 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định về
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thay thế Nghị định 22/1999/NĐ-CP với nhiều
điểm thông thoáng hơn trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nên hoạt
11
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài năm 2005 và 2006 có những tăng trưởng
mạnh mẽ. Trong năn 2005 có 37 dự án với tổng vốn đăng ký là 368.452.598
USD cao hơn tổng vốn đăng ký các năm trước cộng lại, quy mô vốn trung bình
gần 10 triệu USD cao gấp 5 lần quy mô vốn của các năm trước. Sang năm 2006
chúng ta có 35 dự án với tổng vốn đăng ký là 349.006.156 USD, quy mô vốn
trung bình một dự án là 9.971.604 USD.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn
1989-2006
Năm Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn bình quân/Dự án
(USD)
1989 1 563.380 563.380
1990 1 - -
1991 3 4.000.000 1.333.333
1992 3 5.282.051 1.760.684
1993 5 690.831 138.166
1994 3 1.306.811 435.604
1998 2 1.850.000 925.000
1999 10 12.337.793 1.233.779
2000 15 6.865.370 457.691
2001 13 7.696.452 592.035
2002 15 171.959.576 11.463.972
2003 25 27.309.485 1.092.379
2004 17 12.463.114 733.124
2005 37 368.452.598 9.958.178
2006 35 349.006.156 9.971.604
Tổng số 185 969.783.617 5.242.074
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong vòng từ năm 1999 đến năm 2006, chúng ta đã có tất cả khoảng 185
dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký vào
12
khoảng 969 triệu USD, quy mô vốn trung bình một dự án vào khoảng 5 triệu
USD.
Trong Năm 2007, với việc Việt Nam đã là thành viên chính thức của
WTO, và mới đây Cục Đầu tư nước ngoài đã xây dựng đề án khuyến khích đầu
tư ra nước ngoài, một thông tin thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp.
Tính riêng trong 7 tháng đầu năm nay, có 32 dự án do các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 200 triệu USD.
Thống kê từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho thấy, các dự án đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tập trung trong lĩnh vực công nghiệp
(chiếm 39,6% số dự án và 64% tổng vốn đầu tư), tiếp theo là lĩnh vực nông
nghiệp (chiếm 21,2% số dự án và 22,6% tổng vốn đầu tư), số còn lại là các dự án
đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ. Trong số 217 dự án đầu tư ra nước ngoài thì các
doanh nghiệp Việt Nam tập trung đầu tư tại một số nước như Lào (76 dự án,
tổng vốn đầu tư là hơn 555 triệu USD, chiếm tương ứng 35% số dự án và 47%
vốn đầu tư). Angieri có 1 dự án với tổng vốn đầu tư là 243 triệu USD, chiếm
20,6% về vốn đầu tư. Campuchia có 22 dự án với tổng vốn đầu tư là 80,7 triệu
USD (chiếm 10% số dự án và 6,9% tổng vốn đầu tư).
Ta thấy tuy các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam có quy mô nhỏ, khối lượng vốn thực hiện ít. Một trong những nguyên
nhân khiến dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
khó thực hiện, nhất là những dự án do doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đầu tư là
do các dự án này được thành lập nhằm thực hiện cam kết của Chính phủ hai
nước. Nhưng khi tình hình quốc tế thay đổi, những ưu đãi trước đây cho việc
thực hiện dự án không còn, việc kinh doanh không thuận lợi như trước nên việc
dự án không thực hiện được cũng là điều dễ hiểu. Trường hợp Iraq là một ví dụ
13
điển hình. Tuy nhiên khối lượng vốn đăng ký và vốn thực hiện qua các năm lại
có xu hướng tăng quy mô vốn trung bình của một dự án ngày càng lớn.
2. Đầu tư ra nước ngoài phân theo đối tác đầu tư chủ yếu.
Hiện nay các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam được triển khai trên khoảng 32 nước và vùng lãnh thổ. Điều này thể
hiện rõ những kết quả tích cực mà Việt Nam đạt được trong quan hệ quốc tế và
hội nhập kinh tế thế giới. Đồng thời nó cũng thể hiện sức mạnh ngày càng to lớn
của Việt Nam, và quyết tâm không bỏ qua những cơ hội đầu tư tốt trên thị trường
thế giới của chúng ta.
Các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu sang các nước: Lào,
Campuchia, Hoa Kỳ, Malayxia và Singapore. Trong đó, có một số dự án có số
vốn tương đối lớn như: Dự án đầu tư vào khai thác dầu khí ở Angiêri của Tổng
công ty dầu khí Việt Nam (208 triệu USD), dự án Trung tâm Thương mại Việt
Nam tại Nga (35 triệu USD), dự án thăm dò và khai thác dầu khí tại Singapore
(22 triệu USD), dự án trồng cây tại Lào (13 triệu USD), dự án xây dựng Bệnh
viện Chợ Rẫy tại Phnômpênh (Cămpuchia) (10,5 triệu USD)… Lào là thị trường
thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài của Việt Nam nhất với 63 dự án, thứ
hai là Hoa Kỳ với 19 dự án. Về vốn đăng ký thì Lào là nước đứng đầu về vốn
đăng ký với tổng số 420 triệu USD, thứ hai là Iraq với số vốn đăng ký là 100
triệu USD, thứ ba là CHLB Nga với số vốn đang ký là 73 triệu USD. Hiện tại,
nhiều dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đang chờ được cấp giấy
phép đầu tư tại Lào như: Thuỷ điện XEKAMAN 3 (273 triệu USD), dự án trồng
1000 ha cao su (24 triệu USD)…
14
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép trong giai đoạn
1989 - 2006 phân theo đối tác đầu tư chủ yếu
Số dự
án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số
Trong đó: Vốn điều lệ
Tổng số
Chia ra
Nước
ngoài
góp
Việt Nam
góp
An-giê-ri 1 243.0 243.0 208.0 35.0
Cô-oét 1 1.0 1.0 1.0
Căm-pu-chia 15 30.1 25.2 13.1 12.1
Cộng hòa Séc 2 1.9 0.3 0.3
CHLB Đức 4 4.8 3.5 2.5 0.9
Hàn Quốc 3 1.3 1.3 0.2 1.0
Đặc khu hành
chính Hồng
Công (TQ) 5 1.8 1.6 0.7 0.9
Hoa Kỳ 21 14.4 14.1 7.0 7.1
In-đô-nê-xi-a 2 9.4 9.4 9.4
I-rắc 1 100.0 100.0 100.0
Lào 64 422.2 182.6 49.0 133.6
Liên bang Nga 14 73.3 32.2 11.8 20.5
Ma-lai-xi-a 4 18.7 18.7 0.7 18.1
Nam Phi 1 1.0 1.0 1.0
Nhật Bản 5 2.1 1.6 0.6 1.0
Xin-ga-po 14 27.0 27.3 24.2 3.1
Tát-gi-ki-xtan 2 3.5 3.5 1.4 2.1
CHND Trung
Hoa 3 3.5 2.6 0.6 1.9
U-crai-na 5 4.3 4.3 0.4 3.9
Nguồn: Tổng cục thống kê.
15
Việc Lào trở thành điểm đến hàng đầu của các nhà đầu tư Việt Nam là
điều hoàn toàn dễ hiểu, vì hai nước có vị trí địa lý gần nhau, hơn nữa thị trường
Lào lại tương đối dễ tính.
Nga cũng là thị trường ưa thích của các doanh nghiệp Việt Nam, với 14 dự
án và tổng vốn đăng ký là 73,3 triệu USD (chiếm 7,3%về số dự án, và 75,6% về
tổng vốn đầu tư) do chúng ta đã sớm có mối quan hệ kinh tế với Liên Bang Nga,
hơn nữa cộng đồng người Việt ở Liên Bang Nga rất đông, đây là một lợi thế
không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc đầu tư vào hai thị trường Lào và Nga là hướng đi đúng đắn cho của
các doanh nghiệp Việt Nam, vì đây là hai thị trường quen thuộc với Việt Nam
hơn nữa, hai thị trường này đã quen với hàng hóa Việt Nam.
Ngoài rót vốn vào thị trường truyền thống như Lào, Campuchia, thời gian
tới Việt Nam sẽ mở rộng sang nhiều thị trường tiềm năng như Trung Đông, châu
Phi và Mỹ. Theo đó, trước hết các doanh nghiệp sẽ hướng đến một số nước SNG
vốn có nhiều người Việt sinh sống và làm việc để tận dụng hiểu biết và mối làm
ăn của cộng đồng này, doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế khi đầu tư ở khu
vực này, đặc biệt với các ngành hàng tiêu dùng, may mặc, giày da, dịch vụ
thương mại... Khu vực Trung Đông với các quốc gia như Qatar, Kuwait, Các
tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) cũng là một điểm đầu tư quan trọng
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, châu Phi cũng được xác định là
điểm đầu tư mới. Tuy nhiên, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam và châu Phi
đều thiếu thông tin về nhau và điều kiện vận tải tại khu vực này vẫn chưa thuận
lợi.
16