Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.09 KB, 64 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>NHỮNG ĐIỀU GIÁO VIÊN NÊN LÀM TRONG BUỔI GIẢNG DẠY ĐẦU TIÊN Buổi giảng dậy đầu tiên GV luôn là người khởi xướng cho các hoạt động chung của lớp học. Bởi vì trong ngày đầu tiên của khóa học bạn thường là tâm điểm gây chú ý nhất của HS. Vậy làm thế nào để bạn có thể hướng các hoạt động vào quỹ đạo một cách hiệu quả ngay từ ngày làm việc đầu tiên? Dưới đây là một vài bí quyết giúp cho hoạt động giảng dạy của bạn đạt hiệu quả ngay ngày đầu lên lớp. 1. Nhanh chóng thu hút sự quan tâm của HS. GV có thể yêu cầu HS tự giới thiệu về bản thân hoặc cho cả lớp và cũng có thể là từng nhóm HS cùng thảo luận về một chủ đề nào đó… Tuy nhiên, GV cần cho HS hiểu ngay rằng sự tham gia tích cực của họ sẽ mở ra đường hướng tiếp cận tốt nhất đối với các vấn đề liên quan đến học tập. 2. Giúp HS nhận ra giá trị và tầm quan trọng của môn học Không phải HS nào đến lớp cũng hiểu được tầm quan trọng của môn học. GV cần phải giúp họ hiểu được ý nghĩa của khóa học. Nếu HS sớm hiểu được tầm quan trọng của môn học thì họ sẽ tự dành thời gian và công sức tập trung vào môn học đó mà không cần GV phải nhắc nhở. 3. Nên cùng HS xác định những mong muốn trong quá trình học tập GV nên bộc lộ những gì mà họ mong chờ ở HS ngay trong buổi học đầu tiên. Điều này đồng nghĩa với việc giáo GV đưa ra thời lượng học tập và số lượng bài tập thích hợp cho HS, sự quan trọng của việc nộp bài tập đúng giờ, các hành vi ứng xử trong lớp, GV muốn mối quan hệ với họ thế nào, và GV mong muốn sự tương tác giữa các HS ra sao. Ngày đầu tiên cũng là cơ hội để HS bộc lộ những điều họ mong muốn về GV cũng như về lớp học. 4. Thiết lập các mối quan hệ.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Trong hầu hết các lớp học, nếu GV và HS biết ít về nhau thì sẽ tạo được hứng thú hơn trong học tập. Sự trao đổi này có thể được bắt đầu bằng việc giới thiệu, chia sẻ các thông tin về bản thân. 5. Bộc lộ một chút về bản thân HS thường coi GV như một nhân vật có uy quyền hoặc chuyên gia giải quyết các vấn đề của môn học. Trên thực tế, đôi khi HS có thể tạo được mối quan hệ thân thiết hơn với GV nếu họ chỉ coi GV “ là một người bình thường”. Quá trình này đòi hỏi giữa GV và HS có sự chia sẻ tình cảm. 6. Tạo lập sự tín nhiệm đối với HS Đôi khi GV nhận được sự tín nhiệm của HS một cách tự nhiên, nhưng có lúc HS lại muốn biết về kinh nghiệm trước đây của GV ví dụ như GV đã từng du lịch đến những nước nào, hoặc GV đó đã có nghiên cứu và tác phẩm nào được xuất bản chưa. Nếu cho HS biết được kiến thức sâu rộng về những gì mình giảng dạy, GV sẽ dành được lòng tin của HS. 7. Tạo lập “không khí học tập” trong lớp Mỗi GV tạo một không khí trong lớp học khác nhau: sôi nổi, thư thái, trang trọng, riêng tư, hài hước, nghiêm nghị…Nếu GV muốn không khí lớp học của mình như thế nào thì nên tạo lập ngay từ đầu. 8. Giới thiệu những vấn đề liên quan đến môn học Thông thường vào buổi đầu tiên của năm học, GV nên giới thiệu một số câu hỏi tổng quan về môn học, ví dụ như: - Môn học này là gì? - Môn học này bao gồm những phần nào? -. Mối liên quan của môn học này với những kiến thức khác?.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> ĐỂ CÓ MỘT GIỜ HỌC TỐT Dưới đây là 10 lời khuyên giúp GV điều khiển một giờ học thành công. Những lời khuyên có thể giúp GV giảm được những tình huống sư phạm và không bị gián đoạn tiết học bởi những HS gây rối. 1. Đặt nội quy ngay từ đầu Nhiều GV thường mắc lỗi bắt đầu một năm học mới với kế hoạch cho các quy tắc rất lỏng lẻo. HS nhanh chóng nắm bắt được các tình huống trong mỗi giờ học và nhận ra những gì chúng sẽ được cho phép, những lỗi nào được bỏ qua. Một khi GV “lờ” đi những sự quậy phá hoặc những nguyên tắc trong lớp học không đủ mạnh để chấn chỉnh, dập tắt các trò nghịch ngợm thì rất khó để bắt đầu hay tiếp tục điều khiển lớp tốt hơn. Vì vậy ngay từ đầu, GV phải đề ra nội quy rõ ràng và tuân thủ nó. Khép vào kỷ luật, tách riêng và chinh phục. Tôi đã hiểu được rằng, nếu đối diện với một HS trong lớp, trong khi có các bạn cùng lớp ở xung quanh, thì HS đó sẽ trả lời một cách và khi có một mình chúng thì sẽ trả lời hoàn toàn khác. Nếu khi tôi cần hiểu đúng về một HS, tôi đề nghị em đó ở lại sau buổi học, sau đó tôi nói với cậu (cô) ta. Thường thì chúng bày tỏ sự kính trọng và chấp thuận những yêu cầu tôi vừa nói. Nếu tôi làm việc này trước cả lớp, đặc biệt là với các HS nam, thì tôi thật khó mà thu được kết quả tương tự. 2. Sự hài hước. Hài hước có thể là cách truyền đạt cho HS những điều mà đôi khi những cách khác không thể đạt được. Tôi đã luôn vui đùa với các học trò của mình. Khi thầy và trò đã hiểu nhau thì việc vui đùa, trêu chọc lẫn nhau là có thể.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> chấp nhận được. Chỉ vui đùa chứ tuyệt đối không bao giờ được giễu cợt hay tỏ ra châm chọc bọn trẻ. Vì thế, hãy luôn mỉm cười với chúng. Một nụ cười thân thiện với các học trò, thậm chí có thể là nụ cười với chính bạn, cũng đủ giúp bạn tạo được thiện cảm với các học trò của mình. 3. Thái độ vui tươi. Tại sao lại phải cố gắng làm điều này và nếu bạn thực sự không thích thì bạn phải làm gì? Nhiều GV đáng lẽ ra nên nghỉ việc ngay khi họ bắt đầu cảm thấy sợ phải đến trường. Bọn trẻ có thể hiểu được thái độ này dù GV có thú nhận hay không. Tôi đã ở gần một số GV – họ thực sự không yêu thích học trò của mình. Vậy tại sao họ lại có mặt ở giảng đường? Hãy để cho bọn trẻ hiểu rằng bạn đến trường là vì chúng. Bắt đầu mỗi ngày học sảng khoái Mẹo này không có nghĩa là bạn không đếm, hay đếm sai tất cả các lỗi vi phạm trước đó, ví dụ, nếu HS có ba sự hối hận muộn màng thì hôm nay nghĩa là các em có bốn. Điều đó có nghĩa rằng bạn nên bắt đầu buổi dạy mỗi ngày với sự tin tưởng HS sẽ ngoan. Không nên có định kiến rằng HS này luôn quậy phá giờ học hàng ngày trong tuần, thì hôm nay em lại sẽ nghịch ngợm. Do đó, bạn sẽ không đối xử với HS ấy một cách khác biệt làm em đó gây mất trật tự thêm. 4. Đối xử với bọn trẻ như với một con người. Trẻ con cũng là người, chỉ khác là chúng nhỏ hơn chúng ta. Tôi chưa bao giờ lên giọng với những học trò của mình, những từ ngữ mà tôi dùng để nói với chúng cũng giống như với người khác và các học trò nhỏ của tôi đều hiểu được điều đó. Thêm nữa, bạn nên biết cách lắng nghe chúng, hãy dành cho chúng thời gian để nói về điều mà chúng muốn bày tỏ. Đừng cắt ngang lời chúng bằng những việc của người lớn. Hãy dành riêng cho chúng thời gian để làm việc này. 5. Không so sánh một cách thiếu cơ sở..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Chẳng hạn, bạn đừng nghĩ rằng cậu em cũng sẽ ngỗ ngược chỉ vì anh trai của nó cũng đã từng làm những chuyện như thế. Hãy nghĩ rằng bọn trẻ cũng sẽ lớn lên và chúng cũng sẽ thay đổi, chúng sẽ hiểu những việc làm của chúng ta và tại sao chúng ta lại phải nghiêm khắc với chúng. 6. Trung thực và cởi mở. Bởi vì nếu bạn không trung thực, trước sau gì bọn trẻ cũng biết. Nếu một điều gì đó được nêu lên và bạn không biết câu trả lời, hãy thừa nhận là bạn không biết và cố gắng tìm lời giải, hãy làm điều này cùng với các học trò của mình nếu có thể. Bạn hãy là một người kiên nhẫn để làm mẫu cho bọn trẻ và nếu bạn rơi vào tình huống không thoải mái thì đừng cố nói dối hay quanh co lảng tránh điều đó. 7. Hãy làm những gì mà bạn nói là sẽ làm. GV hoặc cha mẹ thường nói với bọn trẻ rằng nếu làm được việc này, việc kia, thì đổi lại, các em (hoặc con) sẽ nhận được một thứ gì đó. Nhưng khi chúng đã làm điều đó, GV hay cha mẹ lại không làm đúng như những gì mình đã hứa trước đó. Đây chính là vấn đề mà các bạn nên chú ý. Nếu bạn không thể làm điều gì đó thì đừng nói đến nó, hoặc nếu bạn đã nói thì hãy gắng thực hiện. 8. Công bằng là chìa khoá HS hoàn toàn có thể phân biệt điều gì là công bằng và điều gì thì không. Vì thế, GV phải đối xử bình đẳng đối với tất cả học sinh nếu mong được HS tôn trọng. Nếu GV không đối xử với tất cả HS một cách công bằng, những HS bị đối xử không công bằng sẽ không thích thú làm theo những quy tắc trong lớp học. Hãy chắc chắn rằng ngay cả HS xuất sắc nhất trong lớp cũng có khả năng phạm lỗi, và học trò đó cũng đáng bị phạt về lỗi của mình.. 9. Giải quyết những rắc rối với càng ít sự gián đoạn càng tốt.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Nếu có một vài HS đang nói chuyện riêng và bạn đang đưa ra câu hỏi trong phần giới thiệu bài mới, gọi một trong các HS đó đứng dậy trả lời câu hỏi của bạn để thu hút HS quay trở lại bài học. Nếu bạn phải dừng mạch bài học để giải quyết rắc rối thì bạn đang "đánh cắp" thời gian quý báu học tại lớp của những HS hiếu học. 10. Tránh các vụ gây lộn trong lớp học Bất cứ khi nào có đánh nhau, cãi vã giận dữ trong lớp học thì sẽ có một người thắng và một người thua. Dĩ nhiên với vai trò là một GV, bạn cần phải giữ trật tự và quy tắc trong lớp học. Tuy nhiên, nên giải quyết những vấn đề vi phạm kỉ luật mang tính cá nhân riêng tư (bên ngoài lớp học) tốt hơn là làm HS "mất mặt" trước bạn bè. Cũng không phải là ý kiến hay nếu bêu riếu, trách móc, phê phán HS đó như một ví dụ điển hình về vi phạm nội quy lớp học. Mặc dù HS khác sẽ thắng nhưng có thể bạn sẽ đánh mất cơ hội thực sự dạy HS kia bất cứ điều gì nữa. 11. Ngừng sự phá rối với một chút hài hước Đôi khi những tiếng cười lại giúp "kéo" mạch lớp học trở lại như cũ. Tuy nhiên, nhiều GV nhầm lẫn giữa những câu hỏi hài hước với lời châm chọc. Trong khi sự hóm hỉnh có thể nhanh chóng "hoá giải" tình huống sư phạm thì lời mỉa mai có thể làm tổn thường mối quan hệ của bạn với học trò tham gia vào. Hãy dùng việc đánh giá tối ưu nhất nhưng hãy nhận ra rằng có những điều học trò này nghĩ là trò vui, học trò kia lại nhận thấy bị xúc phạm. 12. Giữ niềm tin tưởng lớn trong lớp Hãy tin tưởng rằng HS là những trẻ ngoan ngoãn, chứ không phải là quậy phá. Tăng cường điều đó thông qua cách bạn nói với học trò. Khi bạn bắt đầu một ngày học mới, bạn hãy nói những mong muốn của bạn với học trò. Ví dụ, bạn có thể nói "Sau khi thảo luận nhóm, cô (thầy) muốn các con giơ tay và được gọi lên trước khi bắt đầu phát biểu ý kiến. Cô cũng hi vọng các con sẽ tôn trọng ý kiến của bạn mình và lắng nghe những gì bạn các con nói"..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> 13. Kế hoạch dự trù GV nên tránh thời gian "chết" trong giờ học. Nếu trong thời gian rảnh rỗi đó, bạn cho phép HS nói và nói mỗi ngày, tự bạn tạo cho các em một thói quen xấu - nói chuyện. Để tránh điều này, hãy lên kế hoạch dự trù, đưa thêm các hoạt động vào phần cuối của giáo án. Khi bạn có nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, bạn sẽ khai thác sâu thêm nội dung bài học và tránh được thời gian nhàn rỗi trong tiết học. 14. Luôn luôn nhất quán Một trong những điều tệ nhất mà người GV mắc phải là không nhất quán trong việc thực thi nội quy lớp học. Nếu một ngày bạn "lơ" đi một trò quậy phá trong lớp, một thái độ học tập thiếu nghiêm túc, và ngày hôm sau bạn chì chiết một HS vì một lỗi nhỏ, HS của bạn sẽ nhanh chóng mất đi sự kính trọng đối với bạn. Học trò có quyền mong bạn đối xử nhất quán hàng ngày. Tính khí thất thường không được có trong lớp học. Một khi bạn đánh mất sự kính trọng của HS, bạn sẽ đánh mất luôn sự chăm chú vào bài giảng. 15. Hãy đặt ra các nội quy có thể hiểu được Bạn cần chọn ra nguyên tắc của bạn. Bạn cũng cần làm cho các nguyên tắc thật rõ ràng. HS cần hiểu cái gì được và cái gì không được chấp nhận. Hơn nữa, bạn nên lường trước hậu quả nếu bạn phá bỏ nguyên tắc. 16. Nhận lỗi. Đây là việc làm rất khó đối với người lớn. Nhưng nếu bạn cần phải nhận lỗi thì hãy làm điều này ngay, càng nhanh càng tốt. Chẳng hạn, khi tôi đang vui đùa với các học trò của mình và tôi nhận thấy mình đã khiến một cô hay cậu nhỏ nào đó ngượng ngùng hay cảm thấy bị tổn thương, tôi sẽ dừng lại ngay và xin lỗi chúng.. 23 ĐIỀU LÀM NÊN MỘT GIÁO VIÊN TUYỆT VỜI.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Giáo viên tuyệt vời vừa là người thầy, người cố vấn, bạn bè, đối tác và đôi khi (chỉ đôi khi thôi nhé) cũng là đồng phạm nữa. 1. Các GV luôn dạy bạn về bài học trên lớp, nhưng người thầy tuyệt vời sẽ dạy bạn cả về bài học cuộc sống. 2. Họ luôn là người đầu tiên nói với bạn những gì bạn làm tốt nhất, và cho bạn thêm lời khuyên để bạn trở nên xuất sắc hơn nữa. 3. Và chẳng ngại ngần gì để nói cho bạn những gì cần làm để bản thân bạn trở nên tốt hơn. 4. Bạn luôn tìm thầy cô giáo của mình khi cần lời khuyên, dĩ nhiên họ chẳng bao giờ từ chối giúp đỡ học trò biết cầu tiến hết. 5. Đừng ngại ngần để hỏi GV về vấn đề mà bạn không thống nhất được từ bạn bè, hãy làm theo những gì mà họ khuyên bạn. 6. Lớp học của người thầy tuyệt vời luôn là tiết học được mong chờ nhất trong tuần! 7. Nó còn là động lực để bạn dạy sớm đi học dù bạn còn chẳng muốn lết đến trường làm gì. 8. Họ biến những môn học tẻ nhạt chán ngắt thành những câu chuyện siêu thú vị. 9. Những điều phải làm ở tiết học của họ luôn luôn lý thú. 10. Bài tập về nhà có cũng như không (không có nghĩa là không phải làm đâu nha).
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 11. Cứ bước chân vào lớp, bạn thấy bạn bè ai cũng tuyệt vời vì họ cũng yêu lớp học này! 12. Dù không còn học với nhau đi nữa nhưng bạn vẫn luôn muốn giữ liên lạc với họ. 13. GV tuyệt vời luôn "du di" cho bạn trong lớp một chút vì biết bạn luôn cố gắng hết sức khi được yêu cầu. 14. Sẵn sàng cùng tham gia vào những trò ngớ ngẩn để hòa đồng với lớp. 15. Nhưng luôn rõ ràng quan điểm trong quan hệ thầy - trò nha! 16. Không gì tuyệt vời hơn khi được nghe một câu nói "Em làm tốt lắm" sau một đêm vất vả. 17. Và không thể tệ hơn nếu bạn biết rằng người thầy của mình đang thất vọng về bạn. 18. Nhưng luôn động viên bạn cố gắng hơn qua... đồ ăn và những trò giải trí. 19. Không ngại ngần làm những trò ngốc nghếch thường ngày để học trò yêu quý mình hơn. 20. Bạn cũng chẳng ngại ngần hỏi lại những câu hỏi ngớ ngẩn mà bạn sợ rằng sẽ bị đánh giá trong mắt họ. 21. Cũng như đừng chối bỏ việc bạn sẽ có những câu hỏi còn chẳng liên quan đến môn học chỉ vì sự tò mò của bạn. 22. Tuy nhiên nếu chẳng có họ, sẽ chẳng có một cái "tôi" của bây giờ. 23. Và khi bạn nghĩ về tất cả những người làm cho bạn biết bạn là ai, họ sẽ luôn luôn ở trang đầu, dòng thứ nhất..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> 20 ĐIỀU GIÁO VIÊN CẦN NHỚ 1. Hãy vui cùng những thành tích nhỏ bé của học trò và hãy chia sẻ những thất bại của chúng. 2. Bạn là người rất gần gũi với học trò, hãy cố gắng để chúng luôn cởi mở với bạn. Hãy vừa là bạn vừa là thầy của chúng. 3. Đừng ngại thừa nhận với học trò là mình không biết về một vấn đề nào đó. Hãy cùng chúng tìm câu trả lời. 4. Hãy cố gắng khơi dậy sự tự tin trong mỗi em HS. Khi đó chúng sẽ đạt tới nhiều đỉnh cao trong học tập. 5. ừng đòi hỏi một “kỷ luật lý tưởng” trong giờ học. Bạn đừng độc đoán quá, hãy nhớ rằng giờ học là một phần cuộc sống của đứa trẻ, vì vậy đừng làm cho giờ học gò bó quá, cứng nhắc quá. Qua mỗi giờ học đứa trẻ cần trở thành một nhân cách cởi mở, say mê, sáng tạo và phát triển toàn diện. 6. Hãy cố gắng để giờ giảng của bạn không khuôn mẫu quá, chuẩn mực quá. Tuyệt vời nhất là trong mỗi giờ học đều có những “phát minh” nho nhỏ được diễn ra, những chân lí nho nhỏ được phát hiện, những đỉnh cao tri thức được chinh phục và những cuộc tìm kiếm bắt đầu. 7. Các cuộc gặp gỡ với phụ huynh HS cần thiết thực và hiệu quả. Mỗi buổi họp phụ huynh là dịp để bạn cung cấp thêm cho họ những kiến thức về tâm lí, sư phạm, về quá trình học tập. 8. Hãy bước vào lớp với nụ cười. Khi học trò chào, hãy nhìn vào mắt từng em để hiểu được tâm trạng cúa chúng, vui thì chia vui, buồn thì động viên..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 9. Hãy luôn ghi nhớ: Học trò không phải là một chiếc bình cần đổ đầy kiến thức, các em là những ngọn đuốc cần được thắp lên. 10. Điểm kém ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành nhân cách của học trò. Bạn hãy cố gắng chùng nào có thể để tránh cho các em điểm kém. Hãy tìm cách khác để khắc phục tình trạng này. 11. Mỗi bài giảng của bạn phải là một bước tiến, dù là rất nhỏ, về phía trước trong việc khám phá tri thức. HS cần phải vượt qua những khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và bạn hãy tính toán sao cho mức độ của những khó khăn đó thật phù hợp. 12. Đừng tìm những con đường dễ dàng nhất trong việc giảng dạy. Như thế học trò sẽ lười suy nghĩ, bạn cần làm cho chúng thấy việc học là lao động thực sự. Điều quan trọng nhất là bạn phải luôn khích lệ, luôn ở bên chúng khi khó khăn. 13. Nếu phải cân nhắc giữa hai điểm số khi cho điểm học sinh thì bạn hãy chọn điểm cao hơn. Hãy chắp cho đứa trẻ đôi cánh, hãy tin ở em, cho em hy vọng. 14. Không cần che giấu tình cảm của mình với các em, nhưng cần tuyệt đối tránh sự ưu ái đặc biệt với một vài em nào đó. Hãy cố nhìn thấy những ưu điểm ẩn sâu trong mỗi em. Có thể chính các em cũng không biết mình có những ưu điểm đó. Bạn hãy giúp chúng nhận ra, phát triển chúng thêm. 15. Hãy nhớ rằng trên lớp HS cần phải cảm thấy hấp dẫn và thú vị. Chỉ có sự hấp dẫn mới làm các em tập trung chú ý được. 16. Khi tiếp xúc với phụ huynh HS, bạn cần nhớ rằng đối với họ đứa con là qúi giá nhất trên đời. Vì thế, bạn hãy hết sức tế nhị, tránh đừng để phụ huynh bị tổn thương..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 17. Đừng sợ xin lỗi học trò nếu thấy mình sai. Xin lỗi chỉ làm tăng uy tín của bạn trong mắt các em mà thôi. Khi các em mắc lỗi, bạn cũng đừng nóng nảy quá. 18. Hãy cố gắng sống hết mình với các em. Vui cùng vui, buồn cùng buồn. Đùa nghịch và dạy dỗ. Hãy kiềm chế khi các em nói dối. Công bằng, kiên trì và trung thực là khẩu hiệu của bạn. 19. Đừng dạy HS quá tự tin - sau này chúng sẽ bị xa lánh; quá rụt rè- chúng sẽ bị coi thường; quá lắm lời- chúng sẽ không được ai tính đến; quá cứng nhắc- chúng sẽ bị khước từ. 20. Một lần nữa xin nhắc lại: Hãy kiềm chế, bình tĩnh, kiền trì và mềm mỏng..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> 8 ĐIỀU GIÁO VIÊN KHÔNG NÊN LÀM KHI LÊN LỚP Giáo viên là linh hồn của lớp học, mang trong mình trọng trách lớn lao, đồng thời cũng có những quyền hạn nhất định. Tuy nhiên, giáo viên cũng là con người, cũng có tình cảm, có suy nghĩ, nên đôi khi vẫn có thể đưa ra những quyết định sai lầm. Để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra, dưới đây là 8 việc giáo viên KHÔNG nên làm khi lên lớp. 1- GV tỏ ra cứng nhắc, lạnh lùng và không thân thiện với HS Một người thầy nghiêm khắc và có uy thường khiến HS kính trọng và vâng lời. Nhưng khi “cái uy” ấy trở thành bức tường chắn giữa thầy và trò, thì cảm giác khó gần và thiếu thân thiện sẽ làm những tiết học nặng nề và gò bó. Điều này khiến các em nghĩ bản thân các thầy cô cũng không mấy vui vẻ với lớp, nhiệt tình với trò. 2- Lập ra những quy định vô lý và thiếu công bằng giữa thầy và trò trong lớp học Yêu cầu HS tắt chuông điện thoại trong khi thầy vẫn thản nhiên nhấc máy giữa giờ học là điều vô lý nhưng vẫn diễn ra ở không ít lớp học. Tuy không nói thẳng trước mặt GV, nhưng trong trường hợp ấy, các HS sẽ thấy mình không được tôn trọng, và thầy không xứng để đứng trên bục giảng bởi thiếu đi cái lịch sự cơ bản của những người có văn hóa. Còn nhiều “điều luật” vô lý của GV mà chính họ không thực hiện như chuyện giờ giấc, nộp bài - trả bài hay xin phép nghỉ. Muốn dạy được trò, bản thân người thầy phải là tấm gương, lấy cái đức để răn đe chứ không phải một mớ quy định mà đến thầy cũng không thực hiện được!.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> 3- Giáo viên “bằng vai phải lứa” với học trò Thầy cô thân thiện với HS không đồng nghĩa với việc trở thành bạn bè “bằng vai phải lứa” với các em. Song không ít GV mắc phải sai lầm nghiêm trọng này, đặc biệt là các thầy cô trẻ. Lứa tuổi học trò có nhiều bí mật, tâm tư cần chia sẻ, nhưng tìm cách tiếp cận các em mà đánh mất giới hạn thầy trò sẽ làm giảm hiệu quả dạy và học. 4Ngồi một chỗ dạy Trừ khi bạn cảm thấy mệt mỏi hay đi lại khó khăn thì mới nên ngồi 1 chỗ dạy, bởi khi bạn ngồi như vậy sẽ khiến HS cảm thấy bạn đang lười biếng. “ Dạy học” chính khoảng thời gian bạn dùng kiến thức để tương tác với HS, dẫn dắt HS suy nghĩ. Là một GV bạn sẽ không mong rằng HS chỉ biết ngồi im một chỗ, tốt nhất là nên biết kết hợp giữa “động” và “ tĩnh”. “Tĩnh” là biết ngồi im lắng nghe cô giảng bài, “động” là tích cực tham gia các hoạt động, các trò chơi hoặc tham gia thảo luận. Tương tự, GV cũng vậy, cũng cần phải kết hợp “động-tĩnh” hài hòa, ngoài việc đứng trên bục giảng, bạn cũng nên đi đi lại lại trong lớp để quan sát HS kỹ hơn. 5Cách dạy dập khuôn Có một số GV lên lớp rất máy móc, thường chỉ đọc nguyên trong giáo án ra chứ không biết cách thiết kế các bài giảng khác nhau. Không khí lớp học trầm lắng, tẻ nhạt sẽ khiến ham muốn học hành của HS giảm đi, đặc biệt học ngoại ngữ thì càng phải nói nhiều, càng cần có các động tác mô phỏng, vận dụng các từ hoặc các câu đã học để ghi nhớ chúng lâu hơn. Cũng giống như đứa trẻ 1 tuổi học nói, nó không đơn thuần là ngồi im để nghe 1 loạt các câu chuyện mà bố mẹ chúng kể mà nó còn không ngừng nói theo, kể theo. Giáo trình chỉ là cung cấp tài liệu và khung bài học cần dạy, còn việc kết hợp thể hiện bài dạy như thế nào thì đó là trách nhiệm của mỗi GV..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> 6- Kìm hãm trí sáng tạo của học sinh Các em HS đều muốn làm ba mẹ tự hào bằng những điểm tốt và lời khen ngợi của thầy cô. Có lẽ vì thế mà chúng chăm chỉ học các bài văn mẫu, vẽ mẫu sao cho giống “lời cô dạy” nhất. Và sai thêm sai khi nhiều GV còn duy trì lối “truy bài” học vẹt. Thay vì hỏi các em hiểu gì, nghĩ gì lại vội vàng yêu cầu đọc thuộc lòng bài ngày hôm trước. Nếu bài kiểm tra “lạ”, “không giống văn cô” thì khó lòng mà đạt điểm cao. Cái sai của người thầy ở đây là thay vì chỉ ra những con đường để học trò chọn mà đi, lại ép học trò đi theo đúng một con đường mà thầy cô đã đi mòn rồi. 7Quá nhiều phiếu học tập Không nên phát cho HS quá nhiều phiếu học tập, không nên để chúng viết hết phiếu này tới phiếu khác, cách tốt nhất là nên thu hút HS tập trung vào bài học, nên tận dụng bảng đen để tiến hành dạy học. 8- Thiên vị Mỗi một HS khi lên lớp đều mong muốn GV quan tâm mình, hướng dẫn cho mình. Tất nhiên GV cũng không phải là không có những HS mà mình yêu thích, nhưng GV khôn g nên thể hiện ra cáchành vi thiên vị, cục bộ của mình. Có thể bạn vốn dĩ kh ông thích một loại người nào đó, nhưng là GV bạn phải thể hiện sự công bằ ng tới tất cả các HS, biết cách quan tâm và khen ngợi chúng thích hợp. Đây là một sai lầm ở người thầy khiến nhiều HS khó chịu nhất. Là thầy thì phải công bằng, sáng suốt như những vị quan tòa trên bục giảng. Nhưng sự thiên vị của thầy cô đã làm học trò sớm nản lòng vì cái hình thức “bất công xã hội” giản đơn nhất mà chúng được chứng kiến. Đặc biệt ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, khi chớm nhận thức được cuộc sống, các trò nhỏ đã phát hiện ra cô giáo hay cho bạn lớp trưởng điểm cao và ít khi gọi bạn không học thêm nhà cô lên bảng. Không rõ ràng khi chấm điểm.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Kết quả học tập đóng vai trò quan trọng đối với tương lai của HS. Nó không chỉ thể hiện năng lực, sở trường, sở đoản của các em mà còn là cơ sở để định hướng nghề nghiệp cho tương lai. Thế nhưng việc không có một thang điểm rõ ràng với các bài kiểm tra do GV được quyền ra đề và chấm tạo nên những lệch lạc không nhỏ trong kết quả học tập của HS. 9-. Nổi giận Nổi giận trong bất cứ tình huống nào cũng đều có thể biến thành một thảm họa. Đối với nền GD châu Á thì điều này còn mang tiếng xấu. Tâm trạng của GV ảnh hưởng trực tiếp tới HS, đôi khi bạn muốn giữ bình tĩnh nhưng lại không kiềm chế được bản thân. Khi bạn cảm thấy tâm trạng mình thực sự không tốt, dễ kích động thì cách tốt nhất là bạn nên tạm thời đi ra khỏi lớp học. Việc tạm thời rời khỏi lớp học để bạn cảm nhận được tình huống đang xảy ra, lúc này bạn cần tìm ra phương pháp giúp mình trấn tĩnh lại một cách nhanh nhất hoặc có thể đếm từ 1 đến 100, sau đó bạn sẽ quay trở lại lớp học và đối diện với HS. 10Mất quyền kiểm soát lớp học Trong bất cứ tình huống nào cũng không nên dễ dàng để HS phá vỡ trật tự lớp học. Một khi bạn đã mất nó thì bạn phải mất rất nhiều công sức mới có thể lấy lại được. Đặc biệt là khi bạn cho chúng chơi trò chơi hoặc tham gia hoạt động gì đó, HS sẽ dễ kích động, hò hét vì quá hưng phấn. Nếu như thái độ của bạn có phần tiêu cực, dễ dãi thì chúng sẽ càng làm tới, và ngày càng không tôn trọng bạn. Khi trật tự lớp học bị phá vỡ thì bạn nên làm một động tác nào đó để thu hút sự chú ý của chúng (ví dụ: chạm vào mũi, đặt tay lên đầu...), khi nhìn thấy GV như vậy, HS sẽ làm theo, bạn sẽ làm như thế cho tới khi tất cả HS trong lớp đều làm theo và lớp trở lên yên ắng..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> 11-. Quát tháo học sinh như một thói quen để “thị uy”. Là người thầy, muốn chiến thắng được cái “ngông” rất trẻ người non dạ của các trò thì thực sự cần có đức, có tâm. Tuy nhiên nhiều GV lại chọn cách quát mắng học trò ngay khi bước chân vào lớp để các em sợ và “giữ trật tự”. Người thầy hay quát tháo vô tình đã biến chính lớp học của mình thành một chiến trường mà họ sẽ luôn thua cuộc. Chế giễu học sinh Một điều chúng ta nên hiểu đó là không nên chế giễu HS, đôi khi cách trêu đùa hay bình luận cũng vô tình làm tổn thương lòng tự trọng của chúng. Khi lên lớp bạn cần vận dụng tính hài hước của mình để góp phần làm bầu không khí học tập thêm vui vẻ, nhưng nên biết cách vận dụng sao cho không mạng lại kết quả xấu. Bạn nên là tấm gương để cho HS thấy rằng không nên thỏa mãn tính hài hước của mình bằng việc chế giễu hay mỉa mai người khác. Cách tốt nhất bạn nên làm là chê ít khen nhiều. Nhục mạ học sinh Nhục mạ HS là một hành vi vi phạm đạo đức của nhà giáo. Khi bị nhục mạ, nhiều HS tỏ ra sợ hãi và mất tự tin trong buổi học. Không chỉ thế, người GV buông lời nhục mạ học trò mình sẽ làm mất niềm tin trong lòng các em. Các em nghĩ gì khi người có trách nhiệm dạy các em “lời hay ý đẹp” lại phát ngôn “chợ búa” và thiếu văn hóa? 12-. Phạt học sinh hư và “bêu gương” trước cả lớp Một người thầy có đạo đức sẽ không bao giờ làm thế! Bởi nếu hình phạt có đủ sức làm gương cho các HS khác không tái phạm thì lại trở thành nỗi xấu hổ ám ảnh trong ký ức của chính học trò bị phạt. Chỉ một lần bị “bêu gương”, HS đó không chỉ chịu áp lực từ thầy cô, bạn bè, gia đình mà còn gây phản ứng tâm lý ghét môn học do thầy cô đó dạy. Nhưng nếu thầy cô dành thời gian gặp riêng HS, phê bình, rút kinh nghiệm và sau đó là động viên để học trò của mình đừng tái phạm thì chắc chắn hiệu quả giảng dạy sẽ cao hơn. 13-. Thói quen tới lớp muộn.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> GV luôn là tấm gương để HS noi theo. Do vậy nhất cử nhất động của GV đều ảnh hưởng trực tiếp tới HS. Nếu như bạn thỉnh thoảng tới lớp muộn thì không sao, nhưng nếu việc đó diễn ra thường xuyên tạo thành thói quen thì sẽ khiến HS có suy nghĩ “tới muộn cũng chẳng sao, dù sao cô giáo cũng tới muộn mà” từ đó bắt chước cô giáo. Nếu như bạn tới muộn thì nhất định phải công khai xin lỗi HS, khiến chúng hiểu được tầm quan trọng của việc tới “đúng giờ”. 14-. Buôn chuyện và nói xấu thầy cô khác với học trò của mình Đây là sai lầm mà các GV nữ hay mắc phải khi quá gần gũi và thường xuyên “tâm sự” với các học trò trong lớp học. Những câu chuyện vui chen ngang tiết học ảm đạm là điều cần thiết để các em lấy tinh thần và có cảm giác hứng thú với môn học. Xong việc buôn chuyện với học trò lại là một sự quá đà trong phương pháp giảng dạy, vì trường học là môi trường mô phạm chứ không phải chợ búa. Và đặc biệt là dù được lòng học trò đến đâu, người thầy cũng không nên mang chuyện bất bình với đồng nghiệp ra để “tâm sự” trước lớp, vừa làm xấu hình ảnh của người thầy, vừa dễ tạo ra mối quan hệ bất hòa khi câu chuyện từ hàng chục HS dễ dàng đến tai “nạn nhân”..
<span class='text_page_counter'>(19)</span> DẠY HỌC HIỆU QUẢ Để tiết dạy học đạt hiệu quả, người GV phải: 1. NHIỆT TÌNH:. Sử dụng cử chỉ, điệu bộ để thu hút sự chú ý và hứng thú của HS • Nói có hồn và diễn cảm • Đi lại hoặc cử động trong khi giảng • Có điệu bộ (bàn tay, cánh tay) thích hợp, không kể những cử chỉ, điệu bộ do thói quen cá nhân làm xao lãng sự tập trung của học sinh • Duy trì sự giao tiếp bằng mắt với học sinh • Đi lại trong lớp • Không đọc lại bài giảng y nguyên như trong tài liệu, giáo trình • Mỉm cười trong khi giảng 2. PHƯƠNG PHÁP:. Cách giải thích hoặc làm rõ khái niệm, nguyên lý • Mỗi khái niệm có một vài ví dụ • Dùng các ví dụ cụ thể hàng ngày (trong đời sống) để giải thích khái niệm và nguyên lý • Định nghĩa thuật ngữ mới • Lặp lại vài lần các ý khó • Nhấn mạnh những điểm quan trọng bằng cách dừng lại, nói chậm, lên giọng .v.v. • Sử dụng đồ thị, biểu đồ để minh họa vấn đề đang trình bày • Chỉ ra những ứng dụng thực tế của khái niệm • Trả lời các câu hỏi của học sinh một cách đầy đủ và cẩn thận • Gợi ý cách ghi nhớ những khái niệm phức tạp.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> • Viết những từ khoá lên bảng hoặc phim trong • Giải thích chủ đề chính theo cách nói thông dụng 3. TƯƠNG TÁC:. Các kỹ thuật dùng để cổ vũ sự tham gia của HS trong lớp • Khuyến khích HS đưa ra các câu hỏi, nhận xét trong lớp học • Tránh phê phán trực tiếp HS khi họ có lỗi • Khen ngợi những ý tưởng hay của HS • Đặt câu hỏi cho HS cụ thể • Đặt câu hỏi cho cả lớp • Kết hợp (đưa) ý tưởng của HS vào bài giảng • Đưa ra những thách thức để khuyến khích ý tưởng mới • Dùng nhiều phương tiện và hoạt động khác nhau trong lớp • Có đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý, định hướng • Lắng nghe và trả lời các ý kiến đóng góp của HS 4. TỔ CHỨC:. Phương pháp tổ chức hoặc cấu trúc bài giảng • Dùng các đề mục, chỉ mục để tổ chức bài giảng • Viết dàn bài lên bảng hoặc phim trong • Chuyển ý, chuyển chủ đề một cách rõ ràng và hấp dẫn • Cho HS cái nhìn khái quát khi bắt đầu bài mới • Giải thích vì sao từng chủ đề phù hợp với toàn bộ khoá học • Bắt đầu bài mới bằng cách ôn lại những nội dung đã học có liên quan • Thường xuyên tóm tắt các ý đã giảng 5. NHỊP ĐỘ:. Tốc độ trình bày thông tin, sử dụng thời gian hiệu quả • Hiếm khi bị lạc đề • Trình bày được hết nội dung bài giảng (không bị cháy giáo án) • Trước khi đi tiếp sang một vấn đề tiếp theo, đặt câu hỏi để kiểm tra mức.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> độ hiểu vấn đề trước đó của HS • Vẫn bám sát nội dung bài học khi trả lời các câu hỏi của HS 6. RÕ RÀNG TRONG CÔNG VIỆC:. Sự rõ ràng đối với các yêu cầu của khoá học và tiêu chuẩn xếp hạng • Khuyên HS cách chuẩn bị cho bài kiểm tra • Cung cấp mẫu câu hỏi kiểm tra • Nói cho HS cụ thể những yêu cầu cần có cho bài kiểm tra, tiểu luận, bài thi • Nêu rõ mục tiêu của mỗi buổi học • Nhắc nhở HS ngày kiểm tra hoặc thời hạn nộp bài • Nêu lên mục tiêu của toàn khoá học 7. CÁCH NÓI:. Những đặc điểm ngôn ngữ phù hợp với dạy học trên lớp • Âm lượng thích hợp • Giọng nói rõ ràng • Tốc độ nói vừa phải • Thỉnh thoảng im lặng trong khi giảng để HS “ngấm” • Tránh dùngnhững từ đệm như “à”, “ư”. 8. QUAN HỆ:. Mức độ thân thiết trong quan hệ cá nhân giữa thầy và trò • Gọi tên HS khi hỏi, trao đổi • Thông báo những dịp trao đổi ngoài giờ học • Sẵn sàng giúp đỡ HS khi có vướng mắc • Chấp nhận những quan điểm khác biệt • Trò chuyện với HS trước hoặc sau giờ học • Chấp nhận sự đa dạng ở HS cũng như sự đa dạng về đặc điểm văn hoá của họ.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> 9. THỰC TẾ:. Gắn kết giữa nội dung, sự tiến triển của khoá học với thực tiễn • Dạy khái niệm và kỹ năng nhỏ, cụ thể thông qua những tình huống lớn, thực tế • Tích hợp các tài liệu (ví dụ, trường hợp, tương tự) từ “thế giới thực” _ thực tiễn • Liên hệ giữa các khái niệm và kỹ năng học tập với kinh nghiệm của người học • Hướng dẫn cho người học cách liên hệ với các nguồn tài liệu và chuyên gia bên ngoài trong phạm vi môn học • Tạo cơ hội cho người học áp dụng việc học vào thế giới bên ngoài • Tạo cơ hội cho người học mang những kiến thức học được từ bên ngoài vào lớp 10. HƯỚNG VÀO NGƯỜI HỌC:. Tập trung cao độ vào việc học và sự thành thạo của học sinh • Tập trung vào kết quả hoạt động học và sự phát triển, chứ không phải nội dung dạy học • Thông báo đầy đủ các đánh giá trước, trong, và khi kết thúc quá trình học tập • Có gợi ý cho học sinh khám phá và xây dựng kiến thức • HS có một số điều khiển đối với quá trình học tập của mình • Khuyến khích lối học tập tích cực, học tập cộng tác, học tập hợp tác • GV chủ yếu là người thiết kế và huấn luyện • GV và HS cùng làm việc trong một nhóm khi phù hợp • Người học được chủ động thực hiện việc học tập của bản thân • Khuyến khích người học bằng cách hỗ trợ họ phát triển năng lực bản thân 11. LINH HOẠT:. Thoáng. Nhìn nhận và tiếp cận tài liệu dưới nhiều góc độ, nhiều cách khác nhau sao cho phù hợp nhất với môn học • Dạy học có tác động tới nhiều kiểu học tập khác nhau.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> • Cẩn thận đối với những quan điểm chủ quan trong khối kiến thức của môn học • Đánh giá cao óc tò mò khám phá, đưa ra nhiều hướng đi khác nhau của HS • Sẵn sàng để HS chịu trách nhiệm đối với việc học của mình khi cần thiết 12. LÃNH ĐẠO :. Thái độ công dân gương mẫu, là người thận trọng và tôn trọng sự đa dạng (trong văn hoá) • Mẫu mực và yêu cầu HS có thái độ thích hợp cho việc dạy và học • Mẫu mực trong cách tiếp cận các ý tưởng, khái niệm và tài liệu • Đưa ra những đòi hỏi phù hợp với tất cả các mức năng lực của người học • Thể hiện sự tôn trọng đối với tính đa dạng và yêu cầu lớp học cũng có một thái độ tương tự. CÔNG VIỆC CỦA GIÁO VIÊN Dạy học là một công việc vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật nó đòi hỏi sự sáng tạo của GV trong quá trình giảng dạy. Để làm tốt công việc này thì GV phải thực hiện tốt 3 giai đoạn chính đó là giai đoạn chuẩn bị trước khi lên lớp, giai đoạn lên lớp, giai đoạn sau khi lên lớp.. 1. Việc chuẩn bị lên lớp: Chúng ta đều biết rằng dạy học là công việc vừa có tính khoa học lại vừa có tính nghệ thuật, nó luôn đòi hỏi sự sáng tạo của người GV trong quá trình giảng dạy.Tuy nhiên, không thể có một sự sáng tạo nào mà lại thiếu đi sự chuẩn bị chu đáo. Vì vậy, việc chuẩn bị lên lớp không những là điều cần thiết nà còn là điều bắt buộc không chỉ đối với người GV mới bước vào nghề mà cả đối với GV lâu năm, có nhiều kinh nghiệm..
<span class='text_page_counter'>(24)</span> Việc chuẩn bị lên lớp của người GV bao gồm việc chuẩn bị dài hạn cho cả năm học hoặc từng học kỳ và việc chuẩn bị lên lớp cho từng tiết học cụ thể. * Việc chuẩn bị dài hạn cho cả năm học hoặc từng học kỳ bao gồm những công việc sau: - Tìm hiểu HS lớp mình giảng dạy về kết quả học tập, giáo dục, thái độ và phong trào học tập, tu dưỡng của lớp, đặc điểm tâm lý chung của lớp và của những HS cá biệt, phong cách sư phạm của người GV đã và đang giảng dạy ở lớp đó. Trên cơ sở đó mà đề ra những yêu cầu hợp lý đối với họ. - Nghiên cứu kỹ chương trình, nội dung tài liệu học tập, trên cơ sở đó để thu thập, lựa chọn tài liệu cho từng tiết học, phương pháp, phương tiện dạy học và những hình thức dạy học thích hợp. - Tìm hiểu những phương tiện dạy học có ở trường để tiến hành tạo nên những phương tiện mới; những tài liệu, sách báo trong tủ sách nhà trường để có kế hoạch cùng với HS xây dựng nên tủ sách của lớp. Qua đó mà có những dự định đổi mới phương pháp dạy học. - Với những tài liệu hướng dẫn của các cơ quan quản lý GD và với sự nghiên cứu, tìm hiểu nêu trên mà mỗi GV, tập thể nhóm GV xây dựng kế hoạch dạy học theo từng chương mục cả năm học hay từng học kỳ của mình. * Việc chuẩn bị trực tiếp lên lớp bao gồm việc phân tích nội dung sách giáo khoa, soạn giáo án và chuẩn bị những điều kiện cho việc lên lớp: Về phân tích nội dung các bài trong sách giáo khoa, thường phải phân tích về mặt khái niệm, về mặt logic, về mặt tâm lý, về mặt giáo dục và cuối cùng là về mặt lý luận dạy học. + Phân tích về mặt khái niệm bao gồm: Việc xác định cấu trúc những tri thức, nghĩa là việc xem xét những khái niệm cơ bản nào với những dấu hiệu.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> đặc trưng của chúng và những khái niệm thứ yếu; mức độ phức tạp của những khái niệm đó; định rõ những tri thức phải nắm; những tri thức nào có tính chất thông báo.. -. Xác định khối tri thức mới và mối liên hệ với tri thức đã học.. -. Trên cơ sở mối liên hệ giữa những khái niệm mới và khái niệm đã học mà tổ chức cho học sinh tự lực hình thành hoặc giúp đỡ họ hình thành khái niệm bằng con đường tái hiện hay sáng tạo.. -. Xác định những khái niệm nào trong số đó cần đào sâu, mở rộng, hoặc những khái niệm sẽ phải nghiên cứu sâu hơn trong các tiết học sau.. + Phân tích về mặt logic: Là việc xác định trình tự của việc trình bày những khái niệm đó. Muốn vậy, phải xác định mặt mâu thuẫn của thông tin như sự kiện không tương ứng với quy luật, khái niệm đã biết. + Phân tích về mặt tâm lý: Bao gồm việc xác định tính vấn đề của tài liệu học tập, có thể tạo nên tình huống có vấn đề và chúng có thể tác động đến mặt cảm xúc của HS. + Phân tích về mặt giáo dục bao gồm:. -. Xác định những khái niệm, quan điểm nào có tác dụng hình thành thế giới quan khoa học, quan điểm chính trị, tư tưởng, quan điểm đạo đức, quan điểm thẩm mỹ cho học sinh.. -. Xác định những tài liệu học tập nào có liên quan đến thực tiễn xung quanh học sinh, với điều kiện thực tế xây dựng kinh tế, xã hội đất nước.. + Phân tích về mặt lý luận dạy học: Trên cơ sở kết quả những phân tích trên mà xác định mục đích, yêu cầu, trọng tâm của tiết học, phương pháp,.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, tổ chức phối hợp hoạt động của HV và HS. -. Chính xác hoá khối lượng tài liệu bắt buộc phải nắm, bổ sung tài liệu cần thiết, xác định trình tự những vấn đề cần trình bày.. -. Xác định hệ thống các bài luyện tập vận dụng tri thức tại lớp và ở nhà; cách hướng dẫn học sinh giải quyết.. -. Chính xác hoá những biện pháp liên hệ nội nội dung tài liệu học tập với cuộc sống, với thực tiễn xây dựng đất nước, với tri thức của các bộ môn khác, những cơ sở hình thành thế giới quan khoa học.. -. Chính xác hoá những nội dung, biện pháp kiểm tra tri thức của HS và cách chỉ đạo cá biệt.. + Về việc soạn giáo án: GV cần dựa trên kế hoạch dạy học theo chương mục, nội dung sách giáo khoa, trình độ tri thức của HS và những điều kiện tiến hành bài dạy cụ thể mà xây dựng kế hoạch tiến hành từng kế hoạch cụ thể. Khi soạn giáo án cần xác định trạng thái tri thức ban đầu cần phải có để lĩnh hội tri thức của tiết học và từ đó mà xác định trình độ tri thức của HS lớp mình và đề ra các biện pháp khắc phục tình trạng hổng kiến thức của HS (nếu có). - Cần phải cố gắng nhìn trước tiến trình suy nghĩ, trạng thái tâm lý của HS sẽ diễn ra để dự định những phương án thích hợp và xử lý kịp thời nhằm điều khiển hoạt động nhận thức và những trạng thái xúc cảm của họ. -. Cần suy nghĩ biện pháp để phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh trong tiết học nhằm hình thành cho họ năng lực, phẩm chất tự lực để họ có thể học tập liên tục, học tập suốt đời.. -. Cấn suy nghĩ những biện pháp chỉ đạo cá biệt..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> -. Cần suy nghĩ cẩn thận những phương tiện dạy học cần thiết và cách sử dụng chúng. (Có những mẫu giáo án cụ thể, GV có thể soạn theo những mẫu đó).. 2. Lên lớp. Lên lớp là hoạt động cụ thể của GV nhằm thực hiện toàn bộ giáo án đã vạch ra. Lên lớp là lĩnh vực đời sống tinh thần quan trọng nhất. Đây là lúc người GV và người học tiếp xúc với nhau. Chính trong thời gian đó người GV mới thể hiện đầy đủ tính khoa học và tính nghệ thuật trong công tác dạy học và GD của mình, thể hiện tầm hiểu biết, hứng thú, niềm tin và nói chung là thế giới tinh thần của mình. Việc mở đầu tiết học có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình sau này của tiết học. Chính nó quyết định nhịp điệu của tiết học, trạng thái tình cảm của thầy và trò. Tiết học hiện đại thường bắt đầu bằng việc tạo nên tình huống có vấn đề, gây hứng thú và thu hút sự chú ý của HS vào những vấn đề, vào đề tài của tiết học. Tiếp đó, tổ chức công tác tự lực của cá nhân hoặc hợp tác với nhau theo từng nhóm để giải quyết vấn đề. Tiết học cũng có thể mở đầu bằng công tác độc lập chung cho cả nhóm giải quyết một vấn đề dựa trên tri thức đã học và việc giải quyết vấn đề đó có liên quan đến tri thức sắp học. Tiến trình của tiết học không chỉ phụ thuộc vào việc mở đầu tiết học mà còn phụ thuộc cả vào việc thông báo đề bài, mục đích, yêu cầu của tiết học, tạo cho họ có nhu cầu, hứng thú, chờ đợi tiếp nhận những tri thức mới mà tiết học sẽ đem đến cho họ. Trong tiến trình tiết học, GV phải chú ý duy trì được không khí tích cực, hào hứng trong HS đối với bài học, luôn đặt họ ở trong những tình huống phải tích cực hoá những tri thức, những kinh nghiệm đã có để giải quyết vấn đề và thông qua đó mà lĩnh hội tri thức mới….
<span class='text_page_counter'>(28)</span> Tư thế, tác phong của người GV phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng, giản dị, ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng, truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, biết cách thay đổi giọng nói. Kết thúc tiết học phải làm sao đạt được mục đích, yêu cầu của tiết học.. 3. Sau khi lên lớp: Sau tiết học, người GV phải phân tích sư phạm một cách tổng hợp, cụ thể cần làm sáng tỏ: - Chất lượng của việc tích cực hoá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. - Chất lượng hình thành những khái niệm và kỹ năng, kỹ xảo. - Chất lượng khái quát hoá và hệ thống hoá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. - Chất lượng ra bài về nhà và hướng dẫn HS tự học… Từ sự phân tích tiết học đó, những kinh nghiệm thành công và thất bại rút ra cần ghi lại phía dưới giáo án để những tiết học lần sau được tiến hành với những kết quả cao hơn.. DẠY HỌC TOÁN I/ DẠY HỌC CÁC KHÁI NIỆM, ĐỊNH NGHĨA :. Thông thường các khái niệm được định nghĩa tuần tự, khái niệm sau được định nghĩa dựa vào định nghĩa của khái niệm trước. Ví dụ ở chương I ĐẠI SỐ 9 có khái niệm sau : Căn bậc hai của số a ≥ 0 là một số x sao cho x2 = a Với số a > 0, được gọi là căn bậc hai số học của a. Số 0 cũng gọi là căn bậc hai số học của 0 Phép tìm căn số học của một số không âm được gọi là phép khai phương… 1) Cách dạy khái niệm : Dạy khái niệm là hướng dẫn HS quan sát, nhận xét, phát hiệm những dấu hiệu đặc trưngcủa các đối tượng, ghi nhớ những dấu hiệu ấy để so sánh được và phân biệt được các đối tượng thuộc những khái niệm khác. Từ đó hình thành, củng cố vững chắc khái niệm và cuối cùng là vận dụng thành thạo khái niệm vào tư duy. Việc dạy học khái niệm toán học ở trường THCS phải đạt được những yêu cầu là làm cho HS :.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> + nắm vững các dấu hiệu đặc trưng của một khái niệm + Nhận dạng được các khái niệm, biết thể hiện khái niệm bằng cách cho những ví dụ về những đối tượng thuộc khái niệm đã cho. + Biệt vận dụng khái niệm vào tư duy. Việc giảng dạy khái niệm thường được tiến hành theo bốn bước : a) Tiếp cận khái niệm b) Hình thành khái niệm c) Củng cố khái niệm d) Vận dụng khái niệm a) Tiếp cận khái niệm, khám phá khái niệm : Việc tiếp cận khái niệm được thực hiện bằng cách quy nạp và suy diễn. - Phương pháp tiếp cận bằng quy nạp thường được thực hiện bằng cách cho HS nhiều ví dụ cụ thể về một khái niệm để HS quan sát, nhận dạng khái niệm, tìm những dấu hiệu đặc trưng bằng cách nêu lên những yêu cầu của những bài toán thực tế hoặc những nhu cầu tính toán. Các khái niện như căn bậc hai, đơn thức, quy đồng mẫu thức, phân tích đa thức thành nhân tử được hình thành nhờ quy nạp. Chẳng hạn căn bậc hai được xuất phát từ việc tính độ dài cạnh hình vuông khi biết diện tích, tổng quát hơn là phải tìm cơ số của một bình phương. - Phương pháp tiếp cận bằng suy diễn thưòng được thực hiện trong các trường hợp khái niệm cần định nghĩa là một trường hợp đặc biệt, hoặc là mở rộng, khái quát hóa, hoặc tương tự với một khái niệm đã có trước. b) Hình thành khái niệm : Việc hình thành các khái niệm thường được thực hiện bởi một trong hai cách : Quy nạp hoặc suy diễn. - Hình thành khái niệm bằng quy nạp nghĩa là dùng một số đối tượng cụ thể, GV hướng dẫn HS quan sát hoặc thực hiện một số họat động để nhận dạng khái niệm .Nhờ khái quát hóa và trừu tượng hóa ta đi tới định nghĩa khái niệm.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> - Hình thành khái niệm bằng suy diễn nghĩa là hình thành khái niệm mới dựa trên định nghĩa của những khái niệm trước đó. c) Củng cố khái niệm : Sau khi đã hình thành khái niệm cần củng cố khái niệm để khái niệm ấy xác định được một vị trí vững chắc trong trí nhớ của HS. Việc củng cố khái niệm được thực hiện bằng các họat động của HS như sau : + Làm những bài tập về nhận dạng và thể hiện khái niệm + Hoạt động ngôn ngữ. + Khái quát hóa, đặc biệt hóa, hệ thống hóa… d) Vận dụng khái niệm : Vận dụng khái niệm là một mục tiêu quan trọng của việc dạy học khái niệm . Nó là khâu cuối cùng trong bốn khâu của quá trình học tập : Học, hỏi, hiểu, hành.Vì thế sau khi khái niệm đã được củng cố cần tạo cơ hội cho vận dụng khái niệm vào nhiều dạng bài tập khác nhau. 2/ Ví dụ cụ thể : a) Tiếp cận khái niệm : Khái niệm căn bậc hai HS đã được học ở lớp 7. Căn bậc hai số học của một số không âm là giá trị không âm của căn bậc hai của số đó. Vì thế phương pháp tiếp cận và hình thành khái niệm này là phương pháp suy diễn. Trước hết cần làm cho HS nhớ lại định nghĩa căn bậc hai của một số không âm. GV có thể yêu cầu HS làm bài tập sau : Tìm căn bậc hai của các số sau : a) – 4 b) 0 c) 9 d) e) 2 GV đặt câu hỏi : Những số như thế nào thì có căn bậc hai ? Số 0 có mấy giá trị căn bậc hai ? Số dương có mấy giá trị căn bậc hai ? Các giá trị ấy có liên quan gì với nhau ? b) Hình thành khái niệm Cho HS quan sát bảng giá trị của hàm số y = 2x + 1, rút ra nhận xét x và y cùng tăng.GV nói : ta bảo hàm số y = 2x + 1 là hàm số đồng biến ( suy diễn). Điều đó có nghĩa x và y cùng tăng hoặc cùng giảm. Nhấn mạnh từ “cùng” và giải thích từ “đồng” có nghĩa là “cùng”. Tiến hành tương tự với hàm số y = - 2x + 1. HS rút ra nhận xét : khi x tăng thì y lại giảm.GV nói :.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> ta bảo hàm số y = 2x + 1 là hàm số nghịch biến.Điều đó có nghĩa x tăng thì y giảm và x giảm thì y tăng . Nhấn mạnh từ “ngược” và giải thích từ “ngược” có nghĩa là “nghịch”. Từ đó HS rút ra tính chất biến thiên của hàm số. c) Củng cố khái niệm : Lấy ví dụ ở khái niệm căn bậc hai số học. GV cho HS chỉ rõ số nào là căn bậc hai số học của số tương ứng viết trong dấu ngoặc : 1/ - 7 ; 7 ( 49) 2/ 10 ; - 10 ( 100) 3/ - 11 ; 11 ( 121) 4/ ( 15) d) Vận dụng khái niệm : Để vận dụng khái niệm GV yêu cầu HS làm các bài tập có liên quan đến các khai niệm đã học. II) DẠY HỌC CÁC ĐỊNH LÝ - TÍNH CHẤT : 1/ Cách dạy định lý, tính chất : Việc dạy học các định lý ở trường THCS phải đạt được các yêu cầu là làm cho HS : a. nắm được đầy đủ và chính xác giả thiết và kết luận của mỗi định lý, nắm được mối liên hệ giữa những định lý trong một hệ thống liên quan. b. Rèn luyện những thao tác chứng minh, tập lập luận chặc chẽ c. Vận dụng được định lý vào hoạt động tiếp nhận tri thức mới và hoạt động giải toán. d. Phát triển năng lực chứng minh và tư duy toán học. Dạy học định lý thường được thực hiện theo các bước : - Tiếp cận định lý : Tạo tình huống để HS khám phá, phát hiện định lý, tạo động cơ chứng minh..
<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Hình thành định lý. Chứng minh định lý và phát biểu định lý. - Củng cố định lý. - Vận dụng định lý Ví dụ : Ở chương II đại số 9 có nhiều định lý nhưng không được phát biểu thành định lý mà phát biểu như những nhận xét tổng quát. Đó là : - Định lý về chiều biến thiên của hàm số bậc nhất y = ax + b. - Định lý về đồ thị của hàm số bậc nhất. - Định lý về điều kiện cắt nhau, song song, trùng nhau của hai đường thẳng Tuy nhiên việc dạy các nhận xét ( định lý) này vẫn được thực hiện theo bốn bước sau : Tiếp cận và phát hiện định lý Hình thành và phát biểu định lý Củng cố định lý Vận dụng định lý Cụ thể như sau : Dạy định lý : “Đồ thị của hàm số y = ax + b ( a ≠ 0) là một đường thẳng : Cắt trục tung tại điểm có tung độ bằng b,song song với đường thẳng y = ax nếu b≠ 0 , trùng với đường thẳng y = ax nếu b = 0” a) Tiếp cận và phát hiện định lý : - Ta đã biết đồ thị của hàm số y = ax ( a ≠ 0) là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ. Chẳng hạn như ?2 SGK trang 49 : Tính giá trị y tương ứng của các hàm số y = 2x và y = 2x + 3 theo giá trị đã cho của biến x rồi điền vào bảng sau :.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> x -4 -3 -2 -1 y= 2x y = 2x + 3. -0,5. 0. 0,5. 1. 2. 3. 4. Nhưng chỉ tính các giá trị của hai hàm số khi x = 1; 2; 3; -1 … rồi vẽ đồ thị của hàm số y = 2x. - Các điểm A ( 1; 2) B( 2;4) C( 3; 6) D (– 2; - 4) thuộc đồ thị hàm số nào ? -Các điểm A’( 1; 5) , B’ ( 2; 7) thuộc đồ thị hàm số nào ? - Kẻ đường thẳng A’B’. Có nhận xét gì về vị trí tương đối giữa hai đường thẳng AB và A’B’ ? vì sao? ( Vì AA’ // = BB’) -Điểm C’( 3; 9) thuộc đồ thị hàm số nào ? - Kẻ đường thẳng B’C’. Có nhận xét gì về vị trí tương đối giữa hai đường thẳng AB và B’C’? Vì sao ? ( vì CC’ // = BB’) -Vậy có thể nói gì về vị trí tương đối giữa hai đường thẳng A’B’ và B’C ? - Tương tự điểm D’( - 2; -1) cũng thuộc đồ thị của hàm số y = 2x + 3 và đường thẳng A’D” cũng trùng với đường thẳng A’B’ b) Hình thành và phát biểu định lý : - Qua những hoạt động ở phần tiếp cận định lý HS đã có ấn tượng rằng các điểm của đồ thị y = 2x + 3 nằm trên một đường thẳng song song với đường thẳng y = 2x. Để hình thành đầy đủ và phát biểu định lý ta có thể đặt các câu hỏi : 1/ Từ những nhận xét ở phần trên có thể dự đoán đồ thị của hàm số y = 2x + 3 là một đường như thế nào ? 2/ Tổng quát, có thể dự đoán đồ thị của hàm số y = ax + b với a≠ 0 và b ≠ 0 là đường như thế nào ? Hãy phát biểu dự đoán ấy ? Hãy nhận xét thêm về vị trí của đường thẳng ấy trong mặt phẳng tọa độ. Nó có thể đi qua gốc tọa độ không ? Vậy thì nó cắt trục tung như thế nào ?. c) Củng cố định lý :.
<span class='text_page_counter'>(34)</span> -. Ta có thể củng cố định lý bằng việc vẽ đồ thị .. Chú ý : Vẽ đồ thị hàm số y = 2x – 3. Cho HS thấy rằng nếu cứ dựa vào đường thẳng y = 2x thì ta lại phải vẽ cả đường thẳng nào vào mặt phẳng tọa độ. Điều đó làm cho hình vẽ thêm rối. Đặt câu hỏi để HS tìm cách vẽ không phụ thuộc đường y = 2x. Chẳng hạn như : - Căn cứ vào đặc điểm của đồ thị là đường thẳng muốn vẽ đồ thị ấy ,ngoài đểm P(0; -3) ta cần biết thêm mấy điểm của nó ? ( Chỉ cần một điểm) Thông thường có thể chọn Q có tung độ là 0 Þ Q( 1,5 ; 0) ( giao điểm của đồ thị với trục hoành ). Tóm lại để vẽ đồ thị hàm số y = 2x – 3 ta cần xác định mấy điểm ( 2 điểm P(0; -3) ; Q( 1,5 ; 0) ) d) Vận dụng định lý : HS có thể vận dụng định lý để vẽ đồ thị hàm số y = 2x + 5 ( bài tập 15 SGK trang 51) III) DẠY HỌC CÁC QUY TẮC : Những quy tắc có thể là những điều thể hiện một khái niệm hoặc một định lý. Những quy tắc thường được diễn đạt dưới dạng thuật toán, nó thể hiện bởi một quy trình nhất định. Vì thế việc dạy học các quy tắc cũng thường được thực hiện như sau : a) Tiếp cận với quy tắc, khám phá quy tắc : Để HS tiếp cận với quy tắc ta thường dùng các vì dụ đòi hỏi HS vận dụng một khái niệm hay một định lý để tính toán hoặc chứng minh. Các ví dụ này phải đơn giản để HS dễ phát hiện ra quy tắc và phải làm nổi bậc lên một quy trình được thực hiện theo những bước hầu như cố định, chứng tỏ rằng đối với mọi bài toán có cùng một yêu cầu như các ví dụ đã nêu, nếu thực hiện đúng quy trình ấy đều đi đến kết quả. b) Hình thành và phát biểu quy tắc :.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> Qua các ví dụ HS được thực hành lập đi lập lại mà họ nhận thức được một quy trình và dần hình thành quy tắc. Khi quy tắc đã tỏ ra rõ nét và HS đã tin rằng quy tắc ấy là đúng thì các em có thể phát biểu nó bằng lời lẽ của mình. Quy tắc thường được phát biểu dưới dạng một thuật toán nó chỉ rõ từng bược thực hiện một cách rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn. c) Củng cố quy tắc : Sau khi quy tắc đã được phát biểu và được diễn đạt bởi một văn bản, ta cần cho thêm một số ví dụ áp dụng trực tiếp để củng cố vững chắc quy tắc.Nhiều HS khi áp dụng quy tắc vào những ví dụ củng cố, các em vẫn tiến hành như khi thiết lập quy tắc. Chẳng hạn khi làm bài tập “ Đưa thừa số vào trong căn ” HS vẫn viết tuần tự như sau : . Vì thế trong quý trình củng cố quy tắc cần nhắc lại kỹ càng những bước phải thực hiện theo quy tắc. d) Vận dụng quy tắc : Để luyện tập cho HS vận dụng quy tắc có thể cho những bài tập ở trình độ cao hơn những bài tập củng cố. Nội dung của bài tập có thể thuộc vào một chủ đề khác nhưng phải vận dụng được quy tắc đang học để giải quyết. Ví dụ : bài tập 20a), c) SGK trang 15 : rút gọn biểu thức : a) với a ≥ 0. b) với a ≥ 0 Ở bài tập a HS buộc phải vận dụng quy tắc nhân hai căn thức. Ở bài tập b HS có thể vận dụng quy tắc nhân hai căn thức những cũng có thể vận dụng cả phép khai phương một tích ở thừa số . Tuy nhiên cách giải thứ hai dài hơn cách thứ nhất. IV/ DẠY HỌC GIẢI BÀI TẬP : Dạy giải toán là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động toán học của HS ở trường THCS. Để dạy HS giải toán thì người thầy cần biết lựa chọn những bài tập thích hợp trong một kho tàng đồ sộ những bài tập rồi phân loại , sắp xếp chúng thành một hệ thống tùy thuộc vào những mục đích rèn luyệnkhác nhau như : củng cố kiến thức cũ; rèn luyện kỹ năng tính toán; phát triển tư duy sáng tạo … Việc dạy giải toán co những chức năng sau : Củng cố tri thức mà HS đã học.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận dụng các tri thức. Rèn luyện tính chính xác trong tính toán, trong lập luận ( lời giải phải đầy đủ, các phép tính phải đúng, lập luận phải có căn cứ ) Phát triển tư duy, rèn luyện những thao tác trí tuệ. Kiểm tra trình độ hiểu biết và nắm vững kiến thức của HS. Gây hứng thú học tập, hứng thú lao động trí tuệ, lao động sáng tạo của HS. Những chức năng nói trên được thể hiện trong suốt quá trình dạy học trong một năm học. Từng giờ dạy giải bài tập có thể chỉ thực hiện một vài chức năng nào đó tùy theo mục đích của mỗi giờ dạy. Vì vậy mỗi giờ dạy bài tập cần : Xác định rõ mục đích và yêu cầu cần đạt được. Lựa chọn một hệ thống bài tập nhắm đạt được từng yêu cầu. Xác định phương pháp hướng dẫn HS thực hiện. Khi hướng dẫn HS giải toán cần tập luyện cho HS thực hiện theo bốn bước sau : Tìm hiểu nội dung của bài toán. Xác định hướng giải, thiết lập chương trình giải Thực hiện chương trình giải. Kiểm tra, nhìn lại lời giải, cải tiến cách giải nếu có thể, rút ra những kinh nghiệm. Ví dụ : Dạy giải bài tập 70 SGK trang 40. Tìm giá trị các biểu thức sau bằng cách biến đổi, rút gọn thích hợp : Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán . Bài toán yêu cầu rút gọn biểu thức bằng cách biến đổu biểu thức chứa căn. HS phải nhận ra được rằng không thể thực hiện phép khai phương ở từng căn thức; do đó phải biết biến đổi thành những căn thức mà biểu thức dưới dấu căn có thể khai phương được. Bước 2 : Xác định hướng giải và thiết lập chương trình giải . Nên luyện cho HS một thói quen làm cho bài toán đơn giản trước khi đưa ra cách giải. Ở đây nên làm cho các biểu thức dưới căn trở nên đơn.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> giản bằng cách đưa thừa số ra ngoài dấu căn. Có thể xác lập chương trình giải như sau : Đưa thừa số ra ngoài dấu căn. Thực hiện các phép nhân và chia căn thức. Bước 3 : Thực hiện chương trình giải. Bước 4 : Kiểm tra, nhìn lại lời giải Các phép toán thực hiện, chính xác kết quả đúng. Các khâu suy luận hợp lý, các phép biến đổi hợp lý. Tìm thêm cách giải. Cách giải trên đây thực hiện theo đúng phương châm làm cho bài toán đơn giản trước khi đưa ra cách giải. Cách giải này là đơn giản nhưng hơi dài vì đầu tiên ta đã thực hiện phép đưa ra ngoài dấu căn và cuối cùng lại phải thực hiện phép biến đổi ấy. Vì vậy, trong trường hợp này có thể thực hiện theo chương trình sau : Phân tích các biểu thức dưới dấu căn thành nhân tử. Thực hiện phép nhân, chia các căn thức. Đưa thừa số ra ngoài dấu căn. Cụ thể là : Hoặc có thể thực hiện ngay phép nhân và phép chia những căn thức : rồi thực hiện phép khai phương. Nếu tính toán bằng máy tính bỏ túi thì cách giải này ngắn hơn nhưng có một nhược điểm là không nhận ra được những thừa số có thể đưa ra ngoài dấu căn và hạn chế khả năng tính nhẩm, khả năng vận dụng các phép biến đổi căn thức và khả năng đề xuất phương pháp giải..
<span class='text_page_counter'>(38)</span> Một số biện pháp tạo hứng thú học tập 1. GV khuyến khích và chấp nhận tính độc lập, sáng tạo của HS. 2. GV sử dụng nguyên gốc những cơ sở ban đầu với những thao tác, sự cộng tác và những hoạt động vật chất của HS. 3. GV sử dụng những thuật ngữ chuyên môn liên quan đến nhận thức như: phân loại, phân tích, dự đoán, xây dựng (tạo nên) khi xây dựng khung nhiệm vụ. 4. GV cho phép HS phản ứng lại với sự điều khiển bài học, xoay xở với những hoạch định bài học và bằng lòng thay đổi. 5. GV điều tra những hiểu biết, những quan niệm của HS và phân loại chúng. 6. GV khuyến khích HS đi tới những thoả thuận trong trao đổi giữa GV và người học. 7.GV khuyến khích học sinh phát vấn, suy nghĩ nhiều để hỏi, sử dụng những câu hỏi mở, khuyến khích HS hỏi lẫn nhau. 8.GV tìm hiểu kĩ những tiềm ẩn trong những câu trả lời của HS. 9. GV chú ý tới những kinh nghiệm của HS trong đó có thể tiềm ẩn những mâu thuẫn với giả thiết và khuyến khích họ thể hiện. 10. Đứng trước những câu hỏi, GV cho HS một thời gian để trả lời. 11. GV cung cấp thời gian cho HS xây dựng những mối quan hệ và phát biểu chúng bằng lời. 12. GV nuôi dưỡng những suy nghĩ có tính tò mò tự nhiên của HS trong quá trình học tập..
<span class='text_page_counter'>(39)</span> ĐƯA CÁC CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN VÀO BÀI HỌC Đã bao giờ bạn hỏi khi nấu ăn sẽ xảy ra những phản ứng hóa học nào? Tại sao sau cơn giông không khí lại trở lên trong lành hơn? Đặt ra những câu hỏi tại sao ấy? và đi tìm câu trả lời sẽ kích thích trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo khoa học của bạn. Trong dạy học cũng vậy điều quan trọng nhất là khơi dạy niềm say mê học tập cho học sinh. Hóa học là môn khoa học gắn liền với thực tiễn. Phản ứng hóa học xảy ra trong cuộc sống hằng ngày thí dụ như trong lúc nấu ăn, làm bánh hay rán mà trong đó các biến đổi chất xảy ra một cách rất phức tạp đã góp phần tạo nên hương vị đặc trưng cho món ăn. Thêm vào đó thức ăn được phân tách ra thành các thành phần riêng biệt và cũng được biến đổi thành năng lượng trong các quá trình phân hủy trong cơ thể .. Sự đốt cháy cũng là một phản ứng hóa học có thể được quan sát dễ dàng. Nhuộm tóc, động cơ đốt trong, màn hình của điện thoại di động, bột giặt, phân bón, dược phẩm,... là các thí dụ khác cho ứng dụng của hóa học trong cuộc sống hằng ngày. Một trong những điểm chúng ta cần làm để nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học đưa các câu hỏi và bài tập có liên quan đến thực tiễn vào bài học. Có những vấn đề hoá học có thể giúp HS giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hoá học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp..
<span class='text_page_counter'>(40)</span> Một số biện pháp để đưa câu hỏi liên quan đến thực tiễn vào bài giảng 1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho HS căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo. 2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho HS hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. GV có thể giải thích để giải toả tính tò mò của HS.Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông. 3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho HS bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày HS vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của HS trong quá trình học tập. 4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho HS trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích.Vì muốn giải được bài toán hoá đó HS phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào? 5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học.Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mái.Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá. 6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình …sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp HS phát huy khả năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn. 7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho.
<span class='text_page_counter'>(41)</span> HS không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng ngày.. ĐẶT CÂU HỎI TRONG GIẢNG DẠY I. NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM KHI HỎI. 1.. Hỏi những câu hỏi thực sự khuyến khích và không chỉ thuần tuý kiểm tra trí nhớ. Một GV tốt biết cách khuấy động hứng thú của người học và buộc họ phải suy nghĩ bằng các câu hỏi gợi tư duy. Các câu hỏi yêu cầu nhớ lại thông tin sẽ không duy trì được sự chú ý của lớp học.. 2.. Đặt những câu hỏi tương xứng với khả năng của người học. Các câu hỏi quá thấp hay quá cao đối với khả năng của người học sẽ làm cho họ chán hay nhầm lẫn. Nên đưa ra các câu hỏi phù hợp với mức khả năng của đa số HS.. 3.. Đặt các câu hỏi phù hợp với người học. Các câu hỏi dựa vào cuộc sống của người học là các câu hỏi phù hợp.. 4.. Đặt các câu hỏi theo trình tự. Câu hỏi và câu trả lời phải được sử dụng làm nền cho các câu hỏi tiếp theo. Việc làm này đóng góp vào việc học liên tục.. 5.. Đa dạng hoá độ dài và độ khó của câu hỏi. Câu hỏi phải được đa dạng hoá để cả HS giỏi lẫn HS yếu đều có thể tham gia trả lời. Quan sát những khác biệt về cá nhân, và giải thích câu hỏi để mọi HS đều tham gia vào cuộc thảo luận.. 6.. Đặt các câu hỏi rõ ràng và đơn giản, câu hỏi phải hiểu được dễ dàng, tránh dài dòng văn tự..
<span class='text_page_counter'>(42)</span> 7.. Khuyến khích học sinh đặt câu hỏi cho nhau và cho nhận xét. Việc làm này giúp cho người học trở nên tích cực hơn và hợp tác tốt hơn. Câu hỏi hay khuyến khích các câu hỏi khác, thậm chí là các câu hỏi của người học.. 8.. Cho phép đủ thời gian để suy nghĩ. Dừng lại vài giây cho đến khi một số cánh tay giơ lên để tạo cho mọi HS, đặc biệt là HS kém, có cơ hội suy nghĩ về câu hỏi.. 9.. Tiếp tục với những câu trả lời không đúng. Tận dụng thế lợi của những câu trả lời không đúng hay gần đúng. Khuyến khích người học suy nghĩ về câu trả lời.. 10.. Tiếp tục với những câu trả lời đúng. Sử dụng những câu trả lời đúng để dẫn dắt câu trả lời khác. Câu trả lời đúng đôi khi cần phải chi tiết hoá và có thể được dùng để khuyến khích người học thảo luận.. 11.. Gọi cả học sinh xung phong và không xung phong. Một số HS xấu hổ và cần sự động viên của GV. Những HS có xu hương xao nhãng cần sự hỗ trợ của GV để chú ý hơn đến bài học. Phân bố các câu hỏi đều trong lớp học để mọi HS đều có thể tham gia được.. 12.. Gọi những học sinh không chú ý. Việc làm này sẽ chấm dứt được tình trạng có những HS không làm bài hoặc không tham gia vào các hoạt động của lớp.. 13.. Tóm tắt bài học dưới hình thức các câu hỏi, hoặc dưới hình thức một vấn đề để khuyến khích toàn lớp phải suy nghĩ.. 14.. Thay đổi vị trí của bạn và di chuyển quanh lớp học, để tạo ra sự tương tác với người học và hạn chế sự xao nhãng và những hiện tượng vô kỷ luật trong người học.. II. NHỮNG CÁI “KHÔNG” KHI ĐẶT CÂU HỎI 1. Không nên đặt các câu hỏi đúng-sai hay các câu hỏi cho phép cơ hội 50% đúng và 50% sai. Ví dụ: “Có phải Orwell viết Animal Farm không?”, “Ai thắng trong cuộc nội chiến?” Các kiểu câu hỏi này khuyến khích sự suy đoán, tư duy tức thì, và định hướng đúng sai,.
<span class='text_page_counter'>(43)</span> không phải tư duy khái niệm hay giải quyết vấn đề. Nếu GV vô tình hỏi kiểu câu hỏi này thì họ phải hỏi ngay lập tức các câu hỏi khác như “tại sao” hay “như thế nào”. 2. Không đặt những câu hỏi mập mờ hay không xác định: “Các thành phố chính của nước Mỹ là gì?”. Những câu hỏi như vậy dễ nhầm lẫn và thường phải được nhắc lại hay tinh giản. Câu hỏi phải rõ ràng và phù hợp với dự định của GV. 3. Không đặt các câu hỏi suy đoán. Các câu hỏi suy đoán có thể cũng là những câu hỏi có/không, những câu hỏi không xác định hay mơ hồ. Nên yêu cầu người học giải thích ý nghĩa và chỉ ra các mối liên hệ, chứ không đi tìm những thông tin chi tiết và vụn vặn. 4. Không đặt các câu hỏi kép hay câu hỏi đa diện. Ví dụ: “công thức hoá học của muối là gì?” “Khối lượng phân tử của nó là bao nhiêu?” Trước khi người học có thể trả lời câu hỏi thứ nhất, thì câu hỏi thứ hai lại được hỏi. Kết quả là người học không biết câu hỏi nào GV muốn họ trả lời. 5. Không đặt những câu hỏi gợi ý hay dẫn dắt. Ví dụ: “Tại sao Andrew Jackson là một tổng thống vĩ đại?” Câu hỏi thực sự cần đến một quan điểm, nhưng quan điểm hay sự xét đoán đã được nhận định. 6. Không hỏi những câu rườm rà. Ví dụ: “Trong mối liên hệ với các yếu tố ô nhiễm và các tia nắng mặt trời, chúng ta có thể đi đến kết luận gì về mức nước trong tương lai?” “Manifest Destiny dẫn đến chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân như thế nào trong khi tăng cường công nghiệp hoá đất nước?” Những câu hỏi này đa chiều, không xác định, và dài dòng. Tỉa tót lời khi hỏi, sử dụng từ vựng đơn giản, không quá trang trọng hay tối nghĩa, hỏi những câu hỏi rõ ràng, đơn lẻ để tránh việc che lấp ý nghĩa trong câu hỏi của bạn và làm cho người học nhầm lẫn. 7. Không hỏi những câu hỏi giật cục. Ví dụ: “Còn gì nữa? Còn ai nữa”. Những câu hỏi này không thực sự khuyết khích tư duy của người học. 8. Không tập trung câu hỏi cho một người. Bạn có thể giúp một người học bằng cách đặt một loạt những câu hỏi để lấy thông tin. Tuy nhiên,.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> điều này phải được phân biệt với việc hỏi người học khá nhiều câu hỏi, đồng thời lại lãng quên những người học khác. 9. Không gọi tên người học trước khi đặt câu hỏi. Ngay sau khi người học biết rằng một người nào khác chịu trách nhiệm trả lời câu hỏi thì sự tập trung của họ bị giảm. Trước hết hãy đặt câu hỏi, sau đó dừng lại để người học hiểu và rồi mới gọi một ai đó trả lời. 10. Không trả lời câu hỏi của một học sinh nếu mọi học sinh phải biết câu trả lời. Hãy chuyển câu hỏi trở lại lớp và hỏi: “Ai có thể trả lời câu hỏi này?”. 11. Không nên nhắc lại câu hỏi hay câu trả lời của học sinh. Nhắc lại sẽ tạo ra thói quen làm việc tồi và không chú ý. 12. Không “bóc lột” những học sinh giỏi hay những học sinh xung phong. Những học viên khác trong lớp sẽ không chú ý và xao nhãng hoạt động chung đang diễn ra. 13. Không cho phép trả lời đồng thanh (Trừ khi nó là yêu cầu của một phần bài giảng).
<span class='text_page_counter'>(45)</span> QUẢN LÝ 1- Trách nhiệm của giáo viên bộ môn Mỗi GV tự khẳng định mình trước HS và lãnh đạo nhà trường. Muốn vậy GV cần đảm bảo các yêu cầu sau: -. Luôn trau dồi chuyên môn nghiệp vụ. Làm sao HS nhìn GV như là thần tượng để phấn đấu trong học tập.. -. Toàn tâm toàn ý với công việc được giao. Xem trường là nhà để yên tâm công tác lâu dài, không được đứng núi này trông núi nọ.. -. Mạnh dạn bày tỏ những ý kiến của mình với lãnh đạo, không được nhu nhược và làm theo một cách máy móc.. 2- Giáo viên chủ nhiệm Vai trò của GV chủ nhiệm rất quan trọng trong việc quản lý HS trên mọi phương diện. Một lớp học là một thành viên trong nhà trường, có nhiều lớp tốt sẽ đưa phong trào nhà trường đi lên. Muốn vậy GV chủ nhiệm cần đảm bảo các yêu cầu sau: -. Lên kế hoạch và hướng phấn đấu của lớp trong năm học như: Bao nhiêu HS khá giỏi, phấn đấu không có HS yếu kém và vi phạm nội quy nhà trường.. -. Phải biết trình độ và tính cách mỗi HS để lựa chọn phương pháp GD cho phù hợp..
<span class='text_page_counter'>(46)</span> -. Dựa trên tiêu chí chung của nhà trường, GVCN đánh giá xếp loại HS công bằng và khách quan.. -. Thường xuyên thăm hỏi tình hình học tập của lớp thông các GV bộ môn để phối hợp quản lý HS.. -. Tổ chức lớp thành một lực lượng tự quản. Phân công HS khá giỏi kèm HS yếu kém.. -. Dựa trên năng lực và sở thích để GVCN tư vấn nghề nghiệp cho các em.. -. Phối hợp với gia đình, ban giám hiệu nhà trường có biện pháp nhắc nhở động viên thông qua các buổi chào cờ, các đợt thi đua các buổi ngoại khóa hay họp phụ huynh.. BIỆN PHÁP GIẢM TỈ LỆ HỌC SINH YẾU KÉM 1- Phân loại các đối tượng học sinh. GV phải xem xét, phân loại những HS yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: sức khỏe kém, khả năng tiếp thu bài yếu, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát,… - Trong thực tế, người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thế thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy, hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. - Trong quá trình thiết kế bài học, GV cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em HS yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. - Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em.
<span class='text_page_counter'>(47)</span> tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tùy theo khả năng của các em. Giúp đỡ học sinh yếu kém môn Toán HS yếu kém về toán là những HS có kết quả học tập toán thường xuyên dưới trung bình. Việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng cần thiết ở những HS này thường đòi hỏi nhiều công sức và thời gian so với những HS khác. Sự yếu kém toán có những biểu hiện nhiều hình, nhiều vẻ, nhưng nhìn chung thường có 5 đặc điểm: . Nhiều "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng. Nguyên nhân thì rất nhiều, có em do khả năng hạn chế của bản thân, có em do sự lười học lâu ngày mà thành hổng kiến thức, hạn chế hoặc mất hẳn kỹ năng giải Toán, có em do không đủ kiến thức, kỹ năng làm Toán từ cấp THCS... và còn rất nhiều nguyên nhân khác. . Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm. Với cùng một khoảng thời gian hình thành kiến thức mới, trong khi các HS khác đã hiểu bài, biết vận dụng kiến thức thì HS kém vẫn chưa biết vận dụng để thực hành kĩ năng. Trong khi luyện tập thực hành, các HS khác đã hoàn thành hết các bài tập theo chuẩn, có em còn làm hết các bài tập trong sách giáo khoa thì HS kém mới chỉ giải được một bài hoặc một hai phần trong bài học....
<span class='text_page_counter'>(48)</span> . Năng lực tư duy yếu. Tư duy thiếu linh hoạt : Nghe GV phân tích giảng giải, HS yếu không biết khái quát, không biết tư duy nên không nhớ trình tự tính toán, giải toán. Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm. Khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ khó khăn, sử dụng ngôn ngữ toán học lúng túng, nhiều chỗ lẫn lộn . Phương pháp học tập toán chưa tốt. Một số em không thuộc công thức, quy tắc, định lý đã học; chưa đọc kĩ đề toán để phân biệt cái đã cho và cái phải tìm đã vội bắt tay vào giải; không chịu thử lại sau khi làm tính, luôn tẩy xoá trong bài làm. Nhiều em không chịu làm ra nháp hoặc làm bài nháp cẩu thả gây ra sự lộn xộn nhầm lẫn khi làm bài vào vở. . Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà. Biểu hiện bề ngoài là thái độ thờ ơ đối với học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin, ngay cả khi làm đúng bài tập, GV hỏi cũng lại ngập ngừng không tin mình làm đúng bài tập. Thái độ trong lớp thụ động. Có thể thấy rõ đặc điểm này khi các em làm toán hoặc trả lời. Các em thường đưa mắt theo dõi thầy cô. Hễ thấy cô cau mày là sợ cho rằng mình sai không dám làm tiếp. Vì vậy kết quả học toán thường xuyên dưới trung bình. GV cần nắm vững 5 đặc điểm này để có thể giúp đỡ HS yếu kém một cách có hiệu quả. Việc giúp đỡ HS yếu kém cần được thực hiện ngay cả trong những tiết học đồng loạt, bằng những biện pháp phân hóa nội tại thích hợp. Về nguyên tắc đó là phương hướng chủ yếu khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán. Bên cạnh việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp, GV cần có tách riêng nhóm HS yếu kém toán (ngoài giờ chính khóa). Mục đích việc giúp đỡ tách riêng nhóm HS yếu kém toán là làm cho diện này theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp và có thể hòa vào việc dạy học đồng loạt..
<span class='text_page_counter'>(49)</span> 2- Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: - GV phải giáo dục ý thức học tập của HS ở bộ môn mình, tạo cho HS sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho HS có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy GV nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để HS thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. - Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học sinh sợ GV mà hãy làm cho HS thương yêu, tôn trọng mình. GV không nên dùng biện pháp đuổi HS ra ngoài không cho HS học tiết học đó khi HS không ngoan, không chép bài vì làm như thế HS sẽ không được học tiết đó thế là HS lại có một buổi học không thu hoạch được gì. - GV bộ môn phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở HS, GD ý thức học tập của HS hoặc dùng một biện pháp GD nào đó chứ không đuổi HS ra ngoài trong giờ học. - Dựa trên sự phân loại HS để ra các bài tập phù hợp với khả năng của từng đối tượng tạo cho các em có niềm tin trong quá trinh học tập. - Kiểm tra việc chuẩn bị bài của các em về số lượng cả về chất lượng thông qua các hình thức, có thể thông qua truy bài của ban cán sự lớp, hay của các thành viên trong lớp, qua hình thức kiểm tra trực tiếp của GV bằng cách trình bày bài giải lên bảng, sau đó cho cả lớp nhận xét bài làm của bạn, phát hiện chổ sai, chổ thiếu để sữa chữa bổ sung làm cho bài giải hoàn chỉnh, giúp cho các em học yếu thấy được chổ mình hay mắc sai lầm, chổ mình còn thiếu, rút kinh nghiệm và làm cho bài toán đó trở thành bài mẫu để giải các bài tương tự - Động viên đúng mức đối với HS chưa hoặc không làm bài tập, cho các em được thể hiện làm bài tập, trên cơ sở đó GV có thể chỉ ra chổ sai, chổ thiếu cho từng học sinh, phải tạo cho các em có thói quen làm bài tập ở nhà, biết được chổ thiếu yếu của mình để tránh. Bên cạnh đó.
<span class='text_page_counter'>(50)</span> khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng tiến các em bộ của các em dù là một tiến bộ nhỏ từ đó GV làm cho các em có lòng tin vào bản thân mình . - Thông qua hoạt động của ban cán sợ lớp, việc truy bài thường xuyên đối với các bạn học yếu cũng là một cách để các bạn đó phải làm bài tập, tạo ra phong trào thi đua theo bàn học, theo nhóm học hay theo từng tổ, nêu ra cách thưởng phạt công minh để các thành viên trong tổ thực hiện. Giao trách nhiệm cho tổ trưởng, nhóm trưởng đưa ra phương pháp học tập của nhóm mình sao cho có hiệu quả, tổ trưởng chỉ có thể vạch ra phương hướng giải rồi sau đó giao cho các thành viên khác của tổ giải sau đó kiểm tra chéo kết quả chéo của nhau. - Bên cạnh đó, việc GD ý thức học tập của HS cũng phụ thuộc rất lớn vào GVCN, GVCN là người gần gủi với HS, phải tìm hiểu đối từng đối tượng HS, thường xuyên theo dõi các em về cả học lực và hạnh kiểm để kịp thời GD, uốn nắn HS của mình. 3. Kèm cặp học sinh yếu kém: - Ngay từ đầu năm, GV phải lập danh sách HS yếu kém bộ môn mình ở năm học trước để nắm rõ các đối tượng HS và chú ý quan tâm đặc biệt đến những HS này trong mỗi tiết học như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời, khen ngợi khi các em trả lời đúng… - Tổ chức các nhóm học tập cho HS, trong nhóm có đủ các đối tượng HS khá, giỏi, trung bình, yếu kém. Tạo ra phong trào thi đua học tập giữa các tổ, GV chỉ có thể hướng dẫn cho các em nhóm trưởng, chỉ yêu cầu các bạn học yếu làm các bài tập dễ, các bài chỉ áp dụng công thức, quy tắc để đưa ra kết quả, động viên các bạn học yếu trong nhóm mình đại diện cho tổ phát biểu ý kiến nêu kết quả thảo luận để tạo cho các bạn sự tự tin trước tập thể, mạnh dạn trong học tập nhưng cũng không được chê trách hay chế giếu bạn khi bạn nói sai., GV bộ môn cũng thường xuyên tạo mọi điều kiện tốt để các em được thể hiện mình trước tập thể bằng những câu trả lời ngắn, dễ, những bài tập dể bằng cách áp dụnh công thức, quy tắc. Từ đó làm cho các bạn học yếu bị cuốn hút vào việc học.
<span class='text_page_counter'>(51)</span> - GV bộ môn lên kế hoạch cụ thể cho các nhóm HS này hoạt động và thường xuyên theo dõi, đôn đốc, và thường xuyên kiểm tra các nhóm để có thể nắm bắt kịp thời tình hình của HS. - GV bộ môn tổ chức dạy kèm cho HS yếu kém: lập danh sách HS học yếu kém lên kế hoạch dạy phụ đạo cho các em, một mặt là giúp các em có thể nêu lên những thắc mắc của các em về những điều các em chưa hiểu trong tiết học chính khóa để GV có thể giải đáp cho HS đồng thời hướng dẫn cho HS làm bài tập. Mặt khác, ở buổi học phụ đạo này, GV tùng bước bồi dưỡng cho HS, từng bước lấp đầy những chổ hỏng kiến thức của HS, giúp HS có được những kiến thức cơ bản nhất về chương trình học. Khi thực hiện việc dạy nâng kém, GV phải thường xuyên theo dõi kiểm tra HS để luôn nắm được tình hình học tập của các em, từ đó GV rút kinh nghiệm cho những giờ học sau. - Đội TNTP phát động phong trào “đôi bạn cùng tiến” để HS có thể giúp đở lẫn nhau trong học tập. 4-. Rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên:. - GV cần phải không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn ngiệp vụ, tìm ra và vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới. Thực hiện soạn giáo án phù hợp với các đối tượng HS, các câu hỏi có tính chất tổng quát, gợi mở…. Đặc biệt cần tạo cho các em có tinh thần vui vẽ, chờ đợi chuẩn bị tiết học, cần động viên các em đúng lúc và với từng tiến bộ nhỏ của các em. - Bộ môn toán, lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi các em phải tham gia làm thí nghiệm qua đó tiếp thu kiến thức, ngoài ra GV có thể đặt những câu hỏi vận dụng kiến thức trong thực tế, hay tổ chức các trò chơi trong toán học, qua đó tạo sự vui vẽ, và càng ngày yêu thích môn học . - Người GV dạy giỏi mới giúp cho HS có thể đi đến lĩnh hội tri thức một cách dễ dàng và nhanh chóng. GV thường xuyên dự giờ trao đổi rút kinh.
<span class='text_page_counter'>(52)</span> nghiệm một cách thẳng thắng để cùng bàn bạc tìm ra phương pháp dạy học hay cho từng nội dung giảng dạy. Lấp "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh" phổ biến của HS yếu kém toán. Việc tạo tiền đề xuất phát cũng chính là nhằm lấp lỗ hổng kiến thức và kĩ năng, nhưng chỉ để phục vụ cho một nội dung sắp học. Còn trong mục này, việc "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng được đề cập một cách tổng quát, không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào. Trong quá trình dạy học trên lớp, GV quan tâm phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của HS. Những lỗ hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết trong nhóm HS yếu kém. Thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập của HS, GV cũng cần tập cho HS, kể cả HS yếu kém có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết cách tự lấp những lỗ hổng đó. Với những lỗ hổng kiến thức (quên) thì cần tra cứu sách vở, tài liệu và ghi lại nhiều lần ra nháp, sổ tay. Với những lỗ hổng kĩ năng thì cần luyện tập nhiều, giải nhiều bài tập cùng loại. Luyện tập vừa sức Đối với HS yếu kém, GV nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng cường luyện tập vừa sức. Khi lập kế hoạch bài dạy phải cân nhắc lượng kiến thức, kĩ năng cơ bản và tối thiểu. Theo tôi thì nên theo nguyên tắc: 2-3-3, nghĩa là 2 nội dung mới với tiết lý thuyết, 3 bài tập với tiết bài tập, 3 chủ đề với tiết ôn tập. Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng HS yếu kém. Vì vậy khi làm.
<span class='text_page_counter'>(53)</span> việc riêng với nhóm HS yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Và lưu ý những điều sau đây: . . . Đảm bảo HS hiểu đầu bài tập: HS yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên, không hiểu bài toán nói gì đó đó không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, GV nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm/cần chứng minh, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó. Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức, rèn luyện một kĩ năng nào đó, HS yếu kém cần những bài tập cùng thể loại và mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng này được thực hiện trong những tiết làm việc riêng với nhóm HS yếu kém toán. Chẳng hạn GV có thể ra cho HS rất nhiều bài tập giải phương trình bậc hai với hệ số mà không sợ "nhàm" như trường hợp HS khá giỏi. Sử dụng những mạch bài tập phân bậc mịn: Việc sử dụng những mạch bài tập phân bậc trong dạy học toán nói chung là đáng làm, riêng với nhóm HS yếu kém toán thì cần phân bậc mịn hơn so với trình độ chung, tức là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không nên quá xa, quá cao. Ta hình dung rằng nhiều bậc của HS yếu kém có thể gộp lại thành một bậc cho HS trung bình hoặc khá giỏi.. Được bước theo những bậc thang vừa sức với mình, HS yếu kém sẽ đỡ bị hẫng, bị hụt, bị ngã từ đó có nhiều khả năng leo hết các nấc thang dành cho họ để chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng mà chương trình yêu cầu. Những nấc thang đầu dù có thấp, những bước chuyển bậc dù có ngắn nhưng khi HS thành công sẽ tạo nên một yếu tố tâm lý rất quan trọng: các em sẽ tin vào bản thân, tin vào sức mình, từ đó có đủ nghị lực và quyết tâm vượt qua tình trạng yếu kém. Rèn luyện kĩ năng học tập Yếu về kĩ năng học tập là một tình hình phổ biến của HS yếu kém toán. Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với.
<span class='text_page_counter'>(54)</span> một bộ phận trong những HS diện này. Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục tình trạng HS yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp học tập. Cần bồi dưỡng cho các em ngay cả những hiểu biết sơ đẳng về cách thức học tập toán như: . nắm được lý thuyết mới làm bài tập đọc kĩ đầu bài vẽ hình sáng sủa viết nháp rõ ràng. Đặc biệt, giáo viên cần đấu tranh kiên trì với những thói quen xấu của học sinh như: chưa học lý thuyết đã lao vào làm bài tập không đọc kĩ đầu bài trước khi làm bài tập , vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn,... TẠO THÓI QUEN KHI LÀM BÀI TẬP THEO CÁC BƯỚC:. -. B1: Đọc kỹ đề toán. Đọc chậm 2 đến 3 lần và xác định dạng toán. B2: Tóm tắt đề toán (vẽ hình hoặc sơ đồ nếu cần). B3: Phân tích bài toán. B4: Viết bài giải. B5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. TẠO MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP. Đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến…Đặc biệt tạo nhóm học tập trong các tiết làm bài tập. Trong nhóm gồm có HS khá giỏi, cũng có HS yếu kém để các em có điều kiện kèm cặp nhau, dìu dắt nhau, cũng nhau tiến bộ.. Phương pháp dạy học toán cho học sinh trung bình.
<span class='text_page_counter'>(55)</span> Một trong những hoạt động cơ bản của HS trong học tập môn toán ở trường phổ thông là hoạt động giải toán. Đây là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều thành tố tham gia, mà lâu nay đã được các chuyên gia trong lĩnh vực phương pháp dạy học nghiên cứu và chỉ rõ. Thực tiễn dạy học lâu nay ở nước ta, theo nội dung, chương trình và SGK đã ban hành, hoạt động học và giải toán của HS đối tượng trung bình cơ bản diễn ra theo trình tự: quan sát, tiếp thu kiến thức; làm bài có sự hướng dẫn; tự làm theo mẫu; độc lập làm bài, tuân theo quá trình nhận thức chung là đi từ Algôrit đến Ơritstic. Để thích ứng với quá trình học tập đó của đa số HS, kinh nghiệm của giáo viên dạy giỏi cho thấy, quá trình dạy cũng phải được tiến hành theo 4 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu GV giúp HS nắm kiến thức cơ bản, tối thiểu, cần thiết. . GV cần kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp HS hiểu khái niệm không hình thức. Đồng thời với cung cấp kiến thức mới là củng cố khắc sâu thông qua ví dụ và phản ví dụ. Chú ý phân tích các sai lầm thường gặp. Tổng kết tri thức và các tri thức phương pháp có trong bài.. Đây là giai đoạn khó khăn nhất, giai đoạn làm quen tiến tới hiểu kiến thức mới, đồng thời là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn cung cấp kiến thức chuẩn cho HS. Kinh nghiệm cho thấy khi hoàn thành tốt giai đoạn này HS sẽ tiếp thu tốt hơn ở các giai đoạn sau..
<span class='text_page_counter'>(56)</span> Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn GV cho ví dụ tương tự HS bước đầu làm theo hướng dẫn, chỉ đạo của GV. Giai đoạn bắt đầu hình thành kĩ năng, thường được tổ chức trong các giờ học đầu tiên, tiết lí thuyết HS bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán. Giai đoạn này thường vẫn còn lúng túng và sai lầm, do HS chưa thuộc, chưa hiểu sâu sắc. Tuy nhiên giai đoạn 2 vẫn có tác dụng gợi động cơ cho giai đoạn 3. Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu GV ra một bài tập khác, HS tự làm theo mẫu mà GV đã đưa ra ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Giai đoạn củng cố, rèn luyện kĩ năng, thường được tổ chức trong các giờ luyện tập, tiết bài tập sau giờ học lí thuyết GV tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này HS độc lập thao tác. HS nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, HS nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. GV có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của cả lớp và từng cá nhân thông qua giai đoạn này, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. Giai đoạn 3 có tác dụng gợi động cơ trung gian. GV thường vận dụng giai đoạn này khi ra bài tập về nhà. Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập GV nên ra cho HS . Hoặc là một bài tập tương tự khác để HS làm ngay tại lớp. Hoặc là bài tập ra về nhà tương tự với bài được học, nhằm rèn luyện kĩ năng. Hoặc là bài kiểm tra thử. Hoặc là đề thi của năm học trước, nhằm kích thích học tập bộ môn.. Giai đoạn này có tác dụng gợi động cơ kết thúc một nội dung dạy học. Giai đoạn hệ thống, mở rộng kĩ năng, phát triển kĩ xảo, thường được tổ chức trong các bài cuối chương, hết chủ đề. GV thường vận dụng giai đoạn này trong kiểm tra. Cách dạy học toán theo bốn giai đoạn như trên, tuy chưa thoát ly cách dạy học truyền thống, nhưng đã phần nào tỏ ra có hiệu quả thiết thực đối với.
<span class='text_page_counter'>(57)</span> SGK đã được biên soạn lâu nay, phù hợp với hình thức dạy học theo tiết (45 phút), phù hợp với trình độ nhận thức của đối tượng học sinh diện đại trà trong học tập môn toán. Để có thể dạy học theo bốn giai đoạn như trên đòi hỏi GV phải: . Hiểu sâu sắc kiến thức và các tri thức phương pháp. Trong soạn bài, GV cần chuẩn bị cả bốn loại bài tập cho 4 giai đoạn, bên cạnh đó còn phải biết phân bậc bài tập cho từng đối tượng HS trong lớp. Và phải biết điều hành các đối tượng HS trong một lớp cùng hoạt động bằng cách giao cho mỗi loại đối tượng một dạng bài tập phù hợp với nhận thức của họ, có như thế giờ học mới sinh động và lôi cuốn..
<span class='text_page_counter'>(58)</span> NGHỆ THUẬT GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOANCÁ BIỆT I. Nhận dạng học sinh cá biệt (HSCB) HSCB là HS hư về đạo đức, lười nhác học tập, ví dụ như: Càn quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại gia giàu có chụm lại với nhau đối lập với tập thể lớp. Họ thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế, kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ”, dẫn đến chán học. HSCB, trường nào cũng có. HSCB không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm trí là thế lực “đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường. II. Các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt (HSCB) -. Cách dễ nhất, đỡ mất công sức, đã có thầy cô “áp dụng” là loại dần, một cách “hợp pháp” HSCB ra khỏi lớp để lớp “sạch”, dễ bề đạt danh hiệu “Lớp tốt” trong các phong trào thi đua.. -. Cần nâng cao vai trò của thầy cô, gia đình và xã hội nhằm giảm những HSCB. -. Nhiệm vụ của trường học là “Dạy” và “ Dỗ”, GD các em HS nên người, kể cả HSCB. Giáo dục HSCB là một thử thách, bản lĩnh, lòng vị tha của thầy, cô. Cải tạo HS hư thành con ngoan trò giỏi, công dân tốt, để xã hội.
<span class='text_page_counter'>(59)</span> bớt đi một người xấu chẳng phải đó là nhiệm vụ của thầy, cô giàu tình thương, hết lòng vì “HS thân yêu” đó sao? -. Một lớp học, xuất phát điểm có nhiều HSCB, hết năm học xóa hết “gánh nặng” cho lớp, cho trường, cho gia đình, công lao của thầy, cô được đền đáp. Vinh quang của nghề dạy học là ở chỗ đó, xã hội đánh giá nghề dạy học “nghề cao quý trong các nghề cao quý” nghề “ trồng người” cũng vì lẽ đó.. -. Nếu nói trường học, lớp học là một xã hội thu nhỏ, thì ngoài xã hội có loại cá biệt nào, trong trường học có loại cá biệt đó. Có HS mệnh danh là “Chí Phèo” vì tính cách ngang bướng, có HS được gán cho biệt danh “chầy cối”, bởi hay cãi “ ba bửa”, trọc cười gây rối trong lớp. Có HS lý lẽ theo kiểu “thắng lợi tinh thần”, học giỏi để làm gi? Cũng có HS đến lớp để vỗ ngực dương dương tự đắc “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba là… mỗ đây”.. -. Nghề dạy học vốn là nghề “sáng tạo trong các nghề sáng tạo”. Nói theo cách nói của thầy thuốc: Thầy phải “chẩn” đúng bệnh, dùng loại thuốc “đặc trị” phù hợp mới cứu được con “bệnh” cá biệt.. -. Đừng nghĩ HSCB, bộ mặt lúc nào cũng câng câng, bất cần đời là có “trái tim đá”. Dưới vẻ mặt lạnh lùng, vô cảm là sự hụt hẫng tình thương. Phải là những thầy cô giáo chủ nhiệm giàu kinh nghiệm, có cách đối nhân xử thế bao dung, vi tha, kiên nhẫn mới “phá” được “lô cốt” tưởng là “bất khả xâm phạm”, đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người tốt chung quanh ta, nhiều lắm!. -. Giáo dục HSCB còn một yêu cầu quan trọng, thầy, cô phải giỏi nghề. Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.. -. Thầy, cô biết hỏi “gợi mở” mang tính “phát động”, nhất định sẽ nhận được câu trả lời độc đáo. Thầy hỏi: “Theo em cô Tấm có mặt nào tốt, mặt nào chưa tốt. Em thích Tấm ở đức tính gì?”. Trò mạnh dạn trả lời:.
<span class='text_page_counter'>(60)</span> “Em không thích nhân vật Tấm. Tấm chỉ sống dựa vào người khác. Tấm cũng ác không kém gì mụ dì ghẻ. Tấm lừa giết Cám để trả thù. Tấm thật đáng sợ”. Ta khoan bình luận đúng sai. Em HS dám đưa ra một đánh giá riêng của mình. Cũng giống Phùng Quán phê phán câu ca dao cổ: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Hoa sen đẹp, lại có hương thơm, nhờ có “bùn”. Tại sao sen lại vô tình “không tanh mùi bùn”. - Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp” thời gian “chết”, trò không “nhàn cư…” nghịch, đánh cờ ca rô, nhắn tin… ngay trong tiết học. - Giáo dục HSCB là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả khán giả- tức HS ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn-bỏ học..
<span class='text_page_counter'>(61)</span> 5 QUY TẮC GIÁO DỤC HỌC SINH “CHƯA NGOAN” Phần lớn những ai quan tâm đến sự nghiệp GD đều luôn tự hỏi: công tác GD đạo đức trong nhà trường được xuyên suốt từ bé đến lớn. Bậc Mầm non là GD lễ giáo, Tiểu học là môn đạo đức, tới Trung học là môn GD công dân. Thế nhưng vấn đề đạo đức HS, SV đang là sự lo lắng, bức xúc của xã hội? 1. Quy tắc 2H (Hiểu rõ – Hợp tác) 1.1. Hiểu rõ: - Tìm hiểu tình hình của lớp thông qua GVCN cũ. Đây là dịp để kiện toàn lại đội ngũ cán bộ lớp, bổ sung những cái chưa làm được và phát huy những mặt mạnh mà lớp đã có. Từ đó GVCN có thể triển khai dễ dàng kế hoạch GD HS “chưa ngoan” dựa trên những bao quát khởi đầu mà GVCN cũ cung cấp. - Tìm hiểu một cách hết sức tế nhị HS “chưa ngoan” từ cán bộ lớp đến cả những em thuộc “nhóm” của HS “chưa ngoan” để từ đó có kế hoạch hợp lý và phối hợp với gia đình để giáo dục các em. 1.2. Hợp tác: - Khi đã tiếp xúc được với phụ huynh của HS “chưa ngoan”, điều cần tránh là không nên gay gắt, dồn dập việc báo cáo và phê bình con em họ, vì hơn ai hết họ đã từng nghe nhiều lời ca thán và đã biết rõ con em mình. Điều đó sẽ không có tác dụng gì mà ngược lại làm mất đi ý nghĩa của sự hợp tác, phối hợp GD. Vì vậy, cần phải giao tiếp ở một góc độ cởi mở một cách hết sức tâm lý và tế nhị nhưng chân tình, tạo cho phụ huynh HS một sự tin tưởng,.
<span class='text_page_counter'>(62)</span> một tình cảm gần gũi, thân mật, một thái độ tận tâm hợp tác để GD con em họ trở thành người tốt. * Quy tắc 2H sẽ giúp GVCN hiểu và chia sẻ với gia đình những khó khăn trong việc dạy dỗ các em, và ngược lại gia đình sẵn sàng hợp tác với GVCN để GD con em mình suốt năm học. Vấn đề ở đây là các em cần phải được GD để hiểu, nhận ra và chống lại tác động tiêu cực của những con người và sự việc xấu bằng sự quan tâm của gia đình và của GVCN. 2. Quy tắc 2Q (Quan tâm – Quan sát) 2.1. Quan tâm: - GVCN quan tâm bằng cách trực tiếp hỏi thăm HS “chưa ngoan” về hoàn cảnh gia đình để giúp các em dần dần ý thức về việc quan tâm đến gia đình mình kết hợp với quan tâm thăm hỏi HS “chưa ngoan” về bạn bè thân thích thường hay chơi với nhau. Đồng thời thông qua phối hợp chặt chẽ gia đình, GV bộ môn để hiểu thêm về năng lực học tập cũng như thái độ và sự tôn trọng, lễ phép của HS “chưa ngoan” và gián tiếp giúp đỡ, quan tâm, ân cần hơn đối với các em. Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường để gắn các em vào những hoạt động mà các em ưa thích, hoặc chia sẻ, giúp đỡ các em những khó khăn. Kêu gọi và yêu cầu các em khác trong lớp biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn mình (là những HS “chưa ngoan”), không nên xem thường và cô lập bạn, hoặc phê phán một cách thái quá hay gay gắt dẫn đến mâu thuẫn chỉ vì thi đua của lớp quá thấp. Điều đó lại có thể thúc đẩy việc tìm kiếm bạn bên ngoài nhà trường (nhất là những nhóm thiếu niên hư hỏng sẽ có khả năng dẫn đến những hậu quả đáng tiếc). 2.2 Quan sát: - Quan sát, theo dõi HS “chưa ngoan” hằng ngày về việc thực hiện nội quy, quy chế trường lớp, về thái độ học tập bằng nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp cho GVCN nắm vững và sẽ không vội vàng kết luận mội vi phạm nào.
<span class='text_page_counter'>(63)</span> đó khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện cần quan sát nhằm tránh làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của các em. 3. Quy tắc 2N (Nghiêm khắc – Ngọt dịu) 3.1. Nghiêm khắc: - GVCN cần xử lí những vi phạm của tất cả HS trong lớp với một thái độ nghiêm khắc, công bằng và tôn trọng HS, cho dù đó là cán bộ lớp hay HS “chưa ngoan”. Có như vậy những em “chưa ngoan” sẽ cảm thấy GVCN đã tôn trọng tất cả thành viên trong lớp, không thiên vị, không hề “ghét bỏ” mình (theo suy nghĩ của các em). Cần lưu ý: nếu nghiêm khắc quá mức sẽ dẫn đến “phản sư phạm” và phản tác dụng. 3.2. Ngọt dịu: - GVCN phải là người tận tụy với công việc, có tình yêu thương, tấm lòng độ lượng và bao dung đối với HS. Tuy nhiên lòng yêu thương ấy không thể pha trộn với những nét ủy mị, mềm yếu và thiếu sự đề ra yêu cầu nghiêm khắc đối với các em, mà ngược lại. Quy tắc này sẽ xóa bỏ khoảng cách, làm cho HS “chưa ngoan” cảm thấy mình không bị “ghét bỏ” hay bị “bỏ rơi.” Tình cảm thầy-trò dần được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, những chia sẻ... Khi đó những lời động viên, những định hướng của GVCN sẽ đạt hiệu quả cao. 4. Quy tắc 2Đ (Động viên – Định hướng) 4.1. Động viên: - Trong việc GD HS “chưa ngoan” thì sự động viên và khuyến khích có vai trò rất quan trọng. HS “chưa ngoan” đa số là những em có học lực yếu kém, dẫn đến bất mãn, không thiết tha gì đến học tập, hay nói cách khác, không có động cơ, ý thức học tập. Chính vì vậy GVCN phải là người trực tiếp quan tâm, động viên các em trên tinh thần “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “có công mài sắt, có ngày nên kim”..
<span class='text_page_counter'>(64)</span> - Cần huy động và vận hành cả guồng máy: Gia đình - Giáo viên - Đoàn thể - Các tổ chức xã hội - Bạn bè HS – và cả cá nhân HS “chưa ngoan” để động viên, hỗ trợ, giúp đỡ các em có được tinh thần, động cơ, và ý thức trong rèn luyện đạo đức và học tập.. 4.2. Định hướng: - HS “chưa ngoan” thường là những em không định hướng được mình cần phải rèn luyện những gì để giúp ích cho bản thân mình để hoàn thành nhiệm vụ của mình là học tốt và rèn luyện tốt. Chính vì vậy GVCN sẽ là người giúp các em biết quan tâm đến bản thân, gia đình ... cũng như suy nghĩ đến việc chọn nghề để các em có hoài bão, ước mơ và trở thành người hữu ích. 5. Quy tắc 2T (Tâm huyết – Trách nhiệm) Chính tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp cho GVCN có được năng lực “cảm hóa” HS nói chung, HS “chưa ngoan” nói riêng. Đó là năng lực gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với HS về mặt tình cảm và ý chí. Tâm huyết và trách nhiệm nằm trong nhân cách của người thầy giáo. GVCN phải dùng nhân cách của mình để tác động vào HS, GD các em nên người. Đây chính là dùng nhân cách để GD nhân cách là vậy. Có thể nói rằng chỉ có người GV nào luôn ý thức sẽ cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đào tạo và GD thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đào tạo con người làm hạnh phúc cao cả của đời mình thì mới có thể thực hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng..
<span class='text_page_counter'>(65)</span>