Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Hành động cầu khiến – từ chối trong giao tiếp của người hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.31 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong xu thế ngôn ngữ học hiện nay lý thuyết về hành động ngôn
ngữ là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của giới học giả. Từ khi
lý thuyết ra đời, sự lý giải về lời nói của con người trong hoạt động giao
tiếp đã đạt được những kết quả nhất định. Chú ý đến hành động ngơn ngữ
mới có thể lí giải được nhiều vấn đề thuộc về chiến lược giao tiếp. Trong
nghiên cứu hành động ngôn ngữ, nguồn ngữ liệu xác thực nhất là ngôn ngữ
tự nhiên, tức là sản phẩm hoạt động giao tiếp của con người. Tuy nhiên, từ
trước tới nay do những nguyên nhân khác nhau các nhà nghiên cứu chủ yếu
đi vào tìm hiểu các hành động ngôn ngữ cụ thể của nhân vật trong tác phẩm
văn học mà chưa chú ý đến ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống hằng ngày.
1.2. So với số lượng phong phú các hành động ngôn ngữ được con
người sử dụng thì cặp cầu khiến – từ chối cũng là cặp hành động tương tác
mang tính phổ biến, tuy vậy chưa có đề tài nào thực sự đi sâu tìm hiểu cặp
hành động tương tác này. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề
tài Hành động cầu khiến – từ chối trong giao tiếp của người Hà Tĩnh.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, lịch sử nghiên cứu hành động cầu
khiến – từ chối gắn liền với việc nghiên cứu về hội thoại, về lý thuyết hành
động ngôn ngữ. Người đầu tiền đặt nền móng để xây dựng lý thuyết hành
động ngơn ngữ là J.Austin trong cơng trình “How to do things with words”.
Dựa trên ý nghĩa của động từ ngữ vi, ông chia thành năm phạm trù hành xử
thuộc nhóm hành động ở lời. Nhóm này gồm có các hành vi cụ thể: hỏi, ra
lệnh, đòi hỏi, yêu cầu, van xin, mời, cho phép, khuyên... Còn hành động từ

1


chối, tác giả xếp vào nhóm trình bày. Nhóm này gồm các hành động khẳng
định, phủ định, chối, trả lời, phản bác… [dẫn theo 31, tr.87].


Sau đó J. Searle đã phát triển lý thuyết hành động ngôn ngữ, xếp hành
động cầu khiến vào nhóm điều khiển. “Đây là nhóm hành động mà người
nói sử dụng để khiến người nghe làm cái gì đó. Chúng bộc lộ điều mà
người nói muốn”. Cịn hành động từ chối, J. Searle xếp vào nhóm ước kết.
Theo ông: “Ước kết là những thứ hành động nói mà người nói dùng để ràng
buộc chính mình vào một hoạt động nào đó trong tương lai. Chúng bộc lộ
cái mà người nói chủ định”. Mơ hình điều khiển: S muốn X; mơ hình ước
kết S chủ định X (trong đó S là người nói, X là tình huống ) [42, tr.108 -109] .
Cơng trình của J.Austin và J. Searle có tầm quan trọng ảnh hưởng tới
lý thuyết ngơn ngữ trong và ngồi nước, nó mang tính vĩ mơ. Vì thế, xem
xét hành động cầu khiến - từ chối, các tác giả chỉ dừng lại ở việc phân loại,
nhận diện một cách tổng quát chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể sự
xuất hiện tương tác của cặp thoại này.
Ở Việt Nam, một thời gian dài, các nhà ngôn ngữ học truyền thống đã
đặt vấn đề nghiên cứu câu cầu khiến, nhưng chủ yếu xem xét kiểu câu này
một cách biệt lập, mà chưa đặt nó trong mối quan hệ với câu từ chối của
người nghe.
Khi phân loại câu theo mục đích nói, các nhà Việt ngữ học chia ra 4
loại: Câu trần thuật (câu trình bày, câu tường thuật...), câu nghi vấn (câu
hỏi), câu cầu khiến (câu mệnh lệnh), câu cảm thán. Hành động cầu khiến
được xếp trong câu cầu khiến. Còn hành động từ chối thường được đặt
trong nhóm nhỏ của câu trần thuật (câu trình bày) và giữa chúng khơng có
mối liên hệ. Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, chia câu
trình bày như sau: Câu trình bày gồm có câu trình bày khẳng định, câu trình
bày phủ định; trong câu trình bày phủ định gồm có phủ định miêu tả và phủ
định bác bỏ. Theo ông, “… Khi ai đưa ra câu hỏi có/khơng (tức câu hỏi mà

2



khi trả lời thì có thể chỉ trả lời bằng từ có hoặc từ khơng cũng đủ) và ta trả
lời phủ định thì câu trả lời đó là câu phủ định miêu tả”. Chúng tôi thấy
hành động từ chối không được phân rõ trong các kiểu câu phân theo mục
đích nói mà chỉ hiện ra một cách mờ nhạt trong kiểu câu trần thuật phủ định.
Hướng quan điểm trên mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng trong
việc nghiên cứu các đơn vị ngơn ngữ, nhưng cịn hạn chế là xem xét câu
cầu khiến và câu từ chối tồn tại tách biệt nhau chứ chưa đặt trong sự tương
tác. Trên thực tế, cặp hành động cầu khiến – từ chối không chỉ được biểu
hiện bằng các dạng thức biểu đạt mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ) mà còn gặp ở
những dạng thức khác nhau, cần đi sâu tìm hiểu để chỉ ra những dạng khác
biệt đó.
Tiếp cận ngơn ngữ theo hướng hoạt động lời nói – ngữ dụng học, thuật
ngữ cầu khiến, từ chối được gọi là hành động cầu khiến, từ chối. Tìm hiểu
hành động cầu khiến, từ chối, các nhà ngơn ngữ có những định hướng
nghiên cứu khác nhau.
Thứ nhất, một số các tác giả đã tiếp thu lý thuyết hành động ngôn ngữ
của J. Austin và J. Searle để giới thiệu và xây dựng hệ thống lý thuyết theo
quan niệm của riêng mình. Đây là những người có công lớn xây dựng, phát
triển lý thuyết hành động ngôn ngữ ở Việt Nam. Tuy thế, khi xem xét hành
động cầu khiến, từ chối, các tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và
đưa ra một số cách hiểu về chúng nhằm mục đích làm rõ hệ thống lý thuyết
chứ khơng đi sâu phân tích, nghiên cứu một cách cụ thể các hành động đó.
Tiêu biểu là các tác giả: Đỗ Hữu Châu [8], [9], Nguyễn Đức Dân [16],
Nguyễn Thiện Giáp [18], [19], Cao Xuân Hạo [22]…
Thứ hai, một số tác giả khác đã áp dụng lý thuyết hội thoại và lý
thuyết hành động ngôn ngữ vào việc nghiên cứu các hành động cụ thể.
Theo hướng này có các tác giả: Chu Thị Thủy An [1], Nguyễn Phương Chi

3



[13], Hoàng Thị Thúy Hà [20], Lưu Quý Khương [27], Trần Chi Mai [34],
Lê Đình Tường [41]…
Nghiên cứu câu cầu khiến tiếng Việt, Chu Thị Thủy An tập trung chủ
yếu vào các đặc điểm của câu cầu khiến có lực ngơn trung tương ứng với
dấu hiệu hình thức. Tư liệu khảo sát được lấy trong các tác phẩm văn học
xuất bản từ năm 1954 trở về sau.
Nguyễn Phương Chi trong bài viết của mình đã khảo sát một số cách
từ chối không thành lời của người Việt như lắc đầu, xua tay, lừ mắt… đi
kèm lời từ chối [13]. Còn trong luận án Tiến sĩ, tác giả đã tập trung nghiên
cứu những chiến lược từ chối trong hành vi ngôn ngữ từ chối của người
Việt có sự đối chiếu với người Anh [14] chứ không xem xét trong sự tương
tác với lời cầu khiến.
Tác giả Hoàng Thị Thúy Hà trong luận án Tiến sĩ Tiểu từ tình thái
cuối phát ngơn trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh chỉ đề cập đến hành
động cầu khiến, hành động từ chối trong vai trị là đơn vị có tính chất đơn
thoại chứa yếu tố tình thái cuối phát ngơn [20].
Như vậy, các tác giả trên chỉ nghiên cứu hành động cầu khiến, hành
động từ chối trong thế riêng rẽ, độc lập với những hành động có sự tương
tác trao lời – đáp lời, hoặc sử dụng các hành động đó như một đơn vị chứa
đối tượng nghiên cứu.
Một số tác giả khác hướng nghiên cứu vào hành động cầu khiến, từ
chối cùng với các hành động ngôn ngữ khác trong lời thoại nhân vật được
chủ thể nhà văn tái tạo qua các tác phẩm văn chương như Nguyễn Thị Én
[17], Trần Thị Tuyết Nhung [35]…
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên là một trong những người khắc phục được
tình trạng nghiên cứu hai hành động từ chối - cầu khiến trong thế riêng rẽ
như đã tồn tại bấy lâu, tác giả đã đặt vấn đề nghiên cứu cặp hành động
tương tác cầu khiến – từ chối [31, 32]. Tuy thế, trong cơng trình của mình,


4


tác giả chỉ sử dụng nguồn ngữ liệu lấy từ các tác phẩm văn học nên khi
nghiên cứu hành động cầu khiến - từ chối, tác giả chưa có điều kiện đi sâu
tìm hiểu hết những dạng thức của chúng trong giao tiếp.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu lí thuyết của các cơng trình trước
đó, chúng tơi sẽ ứng dụng vào việc nghiên cứu hành động ngôn ngữ cụ thể
trên cứ liệu thực tế của một phương ngữ với mong muốn đề tài có những
đóng góp nhất định trong việc làm rõ bản chất của cặp hành động cầu khiến
– từ chối.
3. Đối tượng nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là cặp hành động tương tác cầu
khiến - từ chối trong giao tiếp của những người Hà Tĩnh. Giữa các vai giao
tiếp có mối quan hệ quen biết nhau.
3.2. Nguồn ngữ liệu
Chúng tôi sử dụng 1000 cặp thoại lời trao chứa hành động cầu khiến
và lời đáp là hành động từ chối trong giao tiếp của người Hà Tĩnh. Đó là
những cặp thoại được ghi âm, ghi chép ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh (thành phố Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh, các huyện: Cẩm Xuyên, Can
Lộc, Đức Thọ, Hương Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh, Nghi Xuân, Thạch Hà,
Vũ Quang, Lộc Hà). Đối tượng chủ yếu là các vai giao tiếp thành cặp
tương tác: Học sinh – thầy (cô giáo), bạn – bạn, đồng nghiệp – đồng
nghiệp, vợ – chồng, hàng xóm – hàng xóm, cha (mẹ) – con cái, người mua
hàng – người bán hàng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Tìm hiểu đề tài Hành động cầu khiến – từ chối trong giao tiếp của
người Hà Tĩnh, chúng tôi hướng đến mục đích làm sáng rõ bản chất hành

động cầu khiến – từ chối trên các phương diện cấu trúc, tương tác... góp

5


phần bổ sung lí thuyết hành động ngơn từ cũng như chỉ ra một số đặc thù
trong văn hóa giao tiếp của người Hà Tĩnh qua cách thức cầu khiến, từ
chối.
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Thống kê, phân loại các cặp thoại chứa hành động cầu khiến – từ
chối lời cầu khiến.
- Mơ tả, phân tích cấu trúc hành động cầu khiến – từ chối và cách thức
từ chối hành động cầu khiến và sự tương tác giữa hành động cầu khiến – từ
chối trong giao tiếp của người Hà Tĩnh.
- Rút ra một số nhận xét về lịch sự



một trong những biểu hiện nét

văn hóa ứng xử của người Hà Tĩnh qua cách thức cầu khiến, từ chối .
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp điều tra điền dã, ghi âm, ghi chép
Chúng tôi ghi âm trực tiếp các cuộc thoại trong sinh hoạt hàng ngày
của các đối tượng có quan hệ thân thiết, quen biết nhau trên địa bàn Hà
Tĩnh.
Từ ghi âm chúng tôi chuyển thành văn bản ghi lại các cuộc thoại có
xuất hiện cặp hành động cầu khiến. Bên cạnh ghi âm bằng máy, chúng tơi
cịn dùng phương pháp ghi chép.

5.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Trước hết, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê các cặp thoại có
chứa lời trao là hành động cầu khiến và lời đáp là hành động từ chối trong
giao tiếp của người Hà Tĩnh. Sau đó, chúng tơi phân loại các nhóm ngữ liệu
phù hợp với từng nội dung nghiên cứu. Những đánh giá, kết luận đưa ra
trong luận văn chủ yếu dựa vào ngữ liệu đã khảo sát.
5.3. Phương pháp miêu tả kết hợp phương pháp tổng – phân hợp

6


Chúng tôi sử dụng phương pháp này để miêu tả, phân tích cấu trúc
nghĩa, cách thức, sự tương tác của hành động cầu khiến – từ chối trong giao
tiếp của người Hà Tĩnh đồng thời tổng hợp kết quả từng phần nội dung và
quá trình nghiên cứu để đưa ra những kết luận có giá trị lý luận thực tiễn
nhất định.
5.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để so sánh đối chiếu các cách
thức cầu khiến, từ chối; so sánh một số yếu tố trong cấu trúc hành động cầu
khiến của người Nghệ Tĩnh với các yếu tố từ trước tới nay các nhà nghiên
cứu đưa ra để nhận diện hành động cầu khiến, từ chối.
6. Cái mới của đề tài
Đây là đề tài đầu tiên đi sâu vào tìm hiểu hành động cầu khiến và hành
động từ chối trong mối tương tác xét trên cứ liệu ngôn ngữ giao tiếp của
người Hà Tĩnh.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo
phần Nội dung được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Những giới thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Cấu trúc và các thành tố cấu tạo hành động cầu khiến trong

giao tiếp của người Hà Tĩnh
Chương 3: Cấu trúc hành động từ chối trực tiếp xét trong sự tương tác
với hành động cầu khiến trong giao tiếp của người Hà Tĩnh

7


Chương 1
NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Giao tiếp và hội thoại
1.1.1 Giao tiếp
1.1.1.1.Khái niệm giao tiếp
Trong đời sống con người, giao tiếp là hoạt động không thể thiếu
được. Con người giao tiếp với nhau thông qua nhiều phương tiện. Mỗi lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau có những quan niệm về giao tiếp khác nhau. Đề
tài của chúng tơi chủ yếu đề cập đến q trình giao tiếp bằng ngôn ngữ xét
trên phương diện ngôn ngữ học.
- Giao tiếp là sự thông báo hay truyền thông báo nhờ một hệ thống
mã nào đó [43, tr.101].
- Giao tiếp (Communication) là sự trao đổi tiếp xúc với nhau [37, tr. 510].
Tác giả Diệp Quang Ban cho rằng: “Giao tiếp là hiện tượng phổ biến
trong các kiểu xã hội, đó là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một cộng đồng
để truyền đạt một nội dung nào đó. Giao tiếp là một trong những đặc trưng
của xã hội, giúp phân biệt xã hội với các quần thể không phải là xã hội” [2, tr.17].
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, “Với cách hiểu bao qt nhất thì giao tiếp
bằng ngơn ngữ là hoạt động diễn ra khi ít nhất có hai người sử dụng một
ngôn ngữ tự nhiên để tác động lẫn nhau” [9, tr.96].
Tóm lại, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm giao tiếp. Tuy
nhiên, về cơ bản có hai cách hiểu về giao tiếp: hiểu theo nghĩa rộng và hiểu
theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, giao tiếp là sự tiếp xúc giữa các cá thể

trong xã hội bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Theo nghĩa
hẹp, giao tiếp là sự trao đổi thông tin bằng lời nói giữa ít nhất hai người

8


nhằm hướng tới mục đích nào đấy trong một hồn cảnh nhất định và sử
dụng phương tiện ngôn ngữ nhất định. Trong cơng trình này, chúng tơi sử
dụng khái niệm giao tiếp theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa này, giao tiếp được thể
hiện qua các đặc trưng sau:
+ Giao tiếp là quá trình con người ý thức được nội dung, hình thức và
phương tiện ngôn ngữ khi tiếp xúc với người khác.
+ Giao tiếp diễn ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới
quan, nhân sinh quan và nhu cầu của những người tham gia vào quá trình
giao tiếp.
+ Giao tiếp bao giờ cũng dẫn đến nhận thức hiểu biết lẫn nhau.
+ Giao tiếp là một quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội. Quan hệ xã
hội chỉ được thực hiện trong giao tiếp giữa con người với con người.
+ Giao tiếp phải được thực hiện trong một hoàn cảnh xã hội nhất định,
trong một thời gian không gian và các điều kiện cụ thể.
+ Giao tiếp được cá nhân thực hiện, cá nhân trong giao tiếp vừa là chủ
thể vừa là khách thể của giao tiếp.
Từ cách lí giải trên, chúng tơi thấy giao tiếp là một trong những dạng
hành động của con người. Các nhân tố tham gia vào quá trình giao tiếp bao
gồm: phương tiện giao tiếp, nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục
đích giao tiếp, hồn cảnh giao tiếp. Sau đây, chúng tơi trình bày một số
nhân tố tham gia vào quá trình hoạt động giao tiếp.
1.1.1.2. Phương tiện giao tiếp bằng ngơn ngữ
Con người có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện nhưng
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất vẫn là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là

phương tiện quan trọng để truyền đạt bảo quản thông tin; phần lớn thơng
tin được lưu giữ dưới hình thức ngơn ngữ. Suy cho cùng khơng có tư
tưởng, tình cảm, ý chí nào của con người lại không thể hiện qua ngôn ngữ.

9


Như chúng ta đã biết, chức năng quan trọng của ngôn ngữ là chức
năng giao tiếp. Những năm gần đây các nhà phân tích diễn ngơn cịn nhận
ra trong q trình giao tiếp ngơn ngữ thực hiện 2 chức năng chính là chức
năng giao dịch và chức năng liên nhân.
- Chức năng giao dịch (chức năng biểu hiện, quy chiếu, quan niệm,
miêu tả) là chức năng mà ngôn ngữ được dùng trong việc diễn đạt kinh
nghiệm, tức diễn đạt các “nội dung sự việc”, các “mệnh đề”.
- Chức năng liên nhân (hay còn gọi là chức năng tương tác, bộc lộ,
biểu cảm, bộc lộ xã hội) là chức năng của ngôn ngữ dùng trong việc diễn
đạt các quan hệ xã hội và các thái độ của cá nhân.
Trong giao tiếp có thể diễn ra đồng thời cả hai chức năng. Nhưng tùy
vào các nhân tố giao tiếp có thể trong hai chức năng đó có một chức năng
mang tính nổi trội hơn. Chẳng hạn, chức năng giao dịch được thể hiện rõ
trong ngôn ngữ viết, tục ngữ, ca dao dân ca, trong các diễn ngôn được thực
hiện nhằm trao đổi thơng tin, địi hỏi chi tiết, chính xác. Cịn chức năng liên
nhân nổi trội trong các trường hợp cần sử dụng ngơn ngữ để thiết lập và
duy trì các quan hệ xã hội. Trong đề tài này, chúng tôi quan tâm nhiều đến
chức năng liên nhân.
1.1.1.3. Vai giao tiếp
Vai giao tiếp là những người tham gia vào quá trình giao tiếp sử dụng
ngơn ngữ để tạo ra lời nói. Đó là người nói - vai nói và người nghe - vai
nghe. Lần lượt, vai nghe trở thành vai nói và vai nói đầu lại trở thành vai
nghe, cứ như thế ln phiên đổi ngơi nhau. Khơng có vai nói, vai nghe thì

khơng xảy ra q trình giao tiếp. Giữa các vai giao tiếp có những quan hệ
chi phối nội dung và hình thức giao tiếp.
a. Quan hệ vai giao tiếp là quan hệ giữa các vai giao tiếp được xem xét
ở quá trình truyền phát và quá trình tiếp nhận.

10


b. Quan hệ liên cá nhân là quan hệ được xét trong mối quan hệ xã hội,
sự hiểu biết, tình cảm giữa các vai giao tiếp. Quan hệ này được xét trên hai
trục:
+ Trục dọc là trục vị thế xã hội (trục quyền uy) do các yếu tố như vị trí
xã hội, tuổi tác, học lực, tài sản, uy tín, địa vị gia đình,… quyết định. Quan
hệ này được chia thành: quan hệ ngang vai ( A= B) và quan hệ không
ngang vai (A> B hoặc A< B).
+ Trục ngang là trục thân cận (trục khoảng cách), trục này đặc trưng
bởi hai cực thân tình và xa lạ. Trong giao tiếp quan hệ thân cận có thể thay
đổi tuỳ vào sự tham gia của các nhân vật trong quá trình giao tiếp.
1.1.1.4. Hồn cảnh giao tiếp
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về hoàn cảnh giao tiếp
nhưng chung quy lại hoàn cảnh giao tiếp được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng, hoàn cảnh giao tiếp bao gồm những hiểu biết về
thế giới vật lí, sinh lí, tâm lí, xã hội, văn hố, tơn giáo, lịch sử các ngành
khoa học, nghệ thuật v.v… ở thời điểm và ở khơng gian trong đó đang diễn
ra cuộc giao tiếp. Hồn cảnh giao tiếp rộng không tham gia trực tiếp vào
giao tiếp mà tham gia dưới dạng những hiểu biết về thế giới có trước hoạt
động giao tiếp trong tư duy của các nhân vật giao tiếp. Những hiếu biết về
thế giới trên còn được gọi là một bộ phận hiểu biết tiền giả định bách khoa
hợp thành hiện thực thực tại – hoàn cảnh giao tiếp.
- Theo nghĩa hẹp, hoàn cảnh giao tiếp còn được gọi là “thoại trường”

là cái khơng – thời gian cụ thể ở đó cuộc giao tiếp diễn ra. Hoàn cảnh giao
tiếp hẹp ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức và nội dung giao tiếp.
Như vậy, trong giao tiếp hoàn cảnh giao tiếp là yếu tố quan trọng giúp
chúng ta hiểu đúng nội dung giao tiếp. Trong đề tài này, hoàn cảnh giao
tiếp là cơ sở giúp ta xác định các hành động ngôn ngữ một cách cụ thể,
chính xác.

11


1.1.2. Hội thoại
1.1.2.1. Khái niệm hội thoại
Khi bàn về hội thoại đã có nhiều cách diễn đạt khác nhau.
Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học định nghĩa: Hội thoại là
hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm
trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích được đặt ra [36, tr.51].
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Hội thoại là sử dụng một ngơn ngữ để
nói chuyện với nhau [37, tr.593].
Đỗ Hữu Châu cho rằng: Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản
thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngơn ngữ, các hình thức hành
chức khác của ngơn ngữ đều được giải thích dựa vào hình thức hoạt động
căn bản này [8, tr.276].
Nguyễn Thiện Giáp xem hội thoại là giao tiếp hai chiều, có sự tương
tác qua lại giữa người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời [19, tr.64].
Tác giả Hồ Lê quan niệm: Phát ngôn hội thoại là kết quả của một hành
vi phát ngơn được kích thích bởi một sự kiện hiện thực có liên quan đến
những người có khả năng trực tiếp tham gia hội thoại, nó tác động vào anh
ta khiến anh ta phải dùng lời để phản ứng lại và hướng lời nói của mình vào
những người có khả năng trực tiếp tham gia hội thoại ấy, trên cơ sở của một
kiến thức về cấu trúc câu và về cách xử lí mối quan hệ giữa phát ngơn và

ngữ huống và của cuộc dự cảm về hiệu quả của lời nói ấy đối với người thu
ngơn hội thoại trực tiếp [28, tr.180].
Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Trong giao tiếp hai chiều, bên
này nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trị của hai bên thay
đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó
là hội thoại.” [16, tr.76].
Mỗi tác giả đứng ở những góc nhìn khác nhau để đưa ra khái niệm về
hội thoại. Tác giả Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh vai trò chức năng của hội thoại

12


trong sự hành chức. Còn các tác giả Nguyễn Thiện Giáp, Hồ Lê, Nguyễn
Đức Dân nhìn hội thoại từ cách thức hành chức của nó. Đặc biệt tác giả Hồ
Lê cịn nhấn mạnh khả năng ngơn ngữ của các nhân vật tham gia hội thoại.
Tiếp thu quan điểm của tác giả Đỗ Thị Kim Liên, chúng tôi cho rằng: "Hội
thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều
nhân vật trực tiếp, trong một hoàn cảnh nhất định, giữa họ có sự tương tác
qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích
nhất định". Hội thoại là một trong những dạng giao tiếp bằng ngôn ngữ cơ
bản, phổ biến nhất của con người. Đó là hoạt động ngơn ngữ hai chiều, có
sự tương tác qua lại của các nhân vật tham gia trực tiếp, bên nghe trở thành
bên nói và bên nói trở thành bên nghe.
Người nói
 
Người nghe





Người nghe
 
Người nói

Hội thoại có hai hoặc nhiều nhân vật tham gia. Khi hội thoại gồm 2
nhân vật giao tiếp gọi là song thoại, hội thoại gồm 3 nhân vật gọi là tam
thoại, nhiều nhân vật gọi là đa thoại. Tuy nhiên trong khuôn khổ của luận
văn, chúng tôi chỉ đề cập đến hội thoại trong giao tiếp hàng ngày có hai bên
(hai nhân vật) tham gia giao tiếp.
1.1.2.2. Vận động hội thoại
Vận động hội thoại gồm có 3 hành động: trao lời, đáp lời và tương tác.
Đây là những hành động góp phần hình thành và duy trì hội thoại.
a. Hành động trao lời
Hành động trao lời là vận động của người nói hướng lời nói của mình
về phía người nghe.
(1) Quỳnh lấy cho ả (chị) cấy (cái) thau đi!

13


Câu trao lời (1) của nhân vật trao lời là chị hướng tới người nhận là
Quỳnh. Lời trao với nội dung là cầu khiến.
b. Hành động đáp lời
Đáp lời là hành động nói của người nghe dùng để đáp lại hành động
nói của người nói. Khi hành động trao lời có hành động đáp lời thì hội thoại
chính thức được hoàn thành.
(2) A: - Thứ 5 chị đi sớm mượn phịng rồi gọi điện báo cho cơ cấy.
B: - Ngày nớ chị có việc, khơng đi được sớm mơ.
Nhân vật A đưa ra hành động trao lời là hành động cầu khiến nhân vật
B đáp lại bằng một hành động từ chối.

c. Hành động tương tác
Theo Nguyễn Thiện Giáp, “Tương tác là tác động qua lại đối với hoạt
động của nhau giữa những người tham gia hội thoại”. Có tương tác bằng
lời mà cũng có tương tác khơng bằng lời [19, tr.269]
Sự tương tác được diễn ra khi có hai nhân vật giao tiếp trở lên tác
động lẫn nhau ảnh hưởng lẫn nhau đến cách ứng xử của từng người trong
quá trình hội thoại. Vận động tương tác là một trong những vận động quan
trọng trong hội thoại. Tương tác khơng chỉ diễn ra giữa hình thức, nội dung
của lời các nhân vật mà còn diễn ra sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
nhân vật, làm cho họ có thể hiểu nhau hơn, hoặc có những phán ứng tiêu
cực, tích cực nào đấy. Biểu hiện của sự tương tác thể hiện ở cấu trúc hình
thức, nội dung cách thức giữa lời trao và lời đáp, các từ xưng hô giữa ngôi
thứ nhất và thứ hai, mối quan hệ qua lại giữa các nhân vật giao tiếp.
1.1.2.3. Các đơn vị hội thoại
Nghiên cứu về các đơn vị hội thoại có nhiều quan niệm khác nhau.
Trường phái phân tích hội thoại ở Mĩ (Conversation analysis) cho rằng có
hai tổ chức tổng quát: tổ chức cặp và tổ chức được ưa thích. Các tổ chức đó
được xây dựng từ lượt lời. Đơn vị tổ chức nên các đơn vị khác lớn hơn của

14


hội thoại là các lượt lời. Dưới các lượt lời khơng có đơn vị nào ngồi các
phát ngơn. Cịn trường phái phân tích diễn ngơn (discourse) ở Anh thấy
rằng cịn có một đơn vị nhỏ hơn phát ngơn (nhắc lại: lượt lời) và xem hành
vi là đơn vị nhỏ nhất của cuộc thoại. Họ đã phân tích cấu trúc hội thoại
thành năm bậc tương ứng với năm đơn vị hội thoại: tương tác (interation),
đoạn thoại (transaction), cặp thoại (exchange), bước thoại (move), hành vi
(act). Tiếp nhận quan điểm về các bậc trong hội thoại của lí thuyết phân
tích diễn ngơn, trường phái lí thuyết hội thoại ở Thuỵ Sĩ (Genève) và Pháp

cho hội thoại là một tổ chức tôn ti như tổ chức một đơn vị cú pháp. Các đơn
vị cấu trúc của hội thoại bao gồm: ba đơn vị có tính chất lưỡng thoại là
cuộc thoại (cuộc tương tác), đoạn thoại, cặp trao đáp; hai đơn vị có tính
chất đơn thoại là tham thoại, hành vi ngôn ngữ. Quan niệm trên từ trước tới
nay được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam chấp nhận và phù hợp với cảm
thức của người Việt về hội thoại. Chúng tôi chọn quan điểm này và phân
chia các đơn vị hội thoại như sau:
a. Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất. Cuộc thoại được
tính từ lời nhân vật từ khi trao đáp bắt đầu tham gia đến khi kết thúc hội
thoại.
Một số yếu tố xác định cuộc thoại gồm:
- Các nhân vật hội thoại: có ít nhất là hai người
- Thời gian và địa điểm diễn ra cuộc thoại
- Chủ đề cuộc thoại phải thống nhất.
Theo C.K.Orecchioni: “để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần
và đủ là có một nhóm nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong
một khung thời gian – không gian có thể thay đổi nhưng khơng đứt qng
nói về một vấn đề thay đổi nhưng không đứt quảng [dẫn Đỗ Hữu Châu 8, tr.313].
- Một số dấu hiệu hình thức: các dấu hiệu mở đầu, kết thúc cuộc thoại.

15


b. Đoạn thoại (Sequence): Đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do một
số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng
có tính hồn chỉnh bộ phận để có thể cùng với các đoạn thoại khác làm
thành cuộc thoại, trong cuộc thoại có thể có nhiều đoạn thoại.
c. Cặp thoại (cặp trao đáp): cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu,
có cặp thoại thì cuộc thoại mới chính thức được tiến hành. Nó là đơn vị cơ
sở của hội thoại cũng là đơn vị cơ bản của đề tài nên chúng tôi sẽ trình bày

kĩ phần này.
c1 - Căn cứ vào số lượng các tham thoại, chúng ta phân biệt các cặp
thoại gồm 1 tham thoại, 2 tham thoại, 3 tham thoại.
- Cặp thoại một tham thoại là cặp thoại chỉ trong trường hợp tham
thoại A không được B hưởng ứng hồi đáp bằng một hành vi tương ứng. Cặp
thoại này còn gọi là cặp thoại hẫng.
(3) A: - Hôm nay em đẹp quá! (A là một chàng trai gặp cô gái lần đầu).
B: - …
- Cặp thoại hai tham thoại (cặp thoại đơi) là cặp thoại có tham thoại
thứ nhất được gọi là tham thoại dẫn nhập, tham thoại thứ hai là tham thoại
hồi đáp.
(4)

A: - Ngày mai, cậu có ra Vinh không?
B: - Mai tớ chưa đi được.

- Cặp thoại ba tham thoại (cặp thoại ba) là cặp thoại có tham thoại thứ
ba do A phát ra có tính chất “đóng lại” cặp thoại đó để (nếu cần) mở ra một
cặp thoại khác. Tham thoại thứ ba của A có thể là một kiểu “tiếng vọng”
của tham thoại B như trường hợp trên, có thể là tham thoại tán đồng, đánh
giá, chúc mừng ...
(5)

A: - Đi mơ đó?
B: - Đi lại đây chơi.
A: - Vô chơi.

16



Trên đây là những dạng cặp thoại đơn giản, mỗi lượt lời của A, B là
một tham thoại do một hành vi ngôn ngữ thực hiện. Trong thực tế, cặp thoại
phức tạp hơn.
c2 - Căn cứ vào vai trò của mỗi cặp thoại trong đoạn thoại, chúng tôi
phân cặp thoại thành hai loại: cặp thoại chủ hướng và cặp thoại phụ thuộc.
- Cặp thoại chủ hướng là cặp thoại chứa đựng nội dung chủ đề của cả
đoạn thoại.
- Cặp thoại phụ thuộc là cặp thoại bổ sung, giải thích, làm rõ thêm cặp
thoại chủ hướng.
(6)

A1: - Chào anh!
B1: - Em à!
A2: - Mai anh có đi làm khơng?
B2: - Khơng. Chi rứa? (gì thế?)
A3: - Cho em mượn cái xe cấy .
B3: - Ầy, xe đó lấy mà đi.

Ở (6) cặp thoại chủ hướng là A3 – B3, những cặp thoại còn lại là những
cặp thoại phụ thuộc. Cặp thoại chủ hướng có thể ở đầu đoạn thoại, cuối
đoạn thoại, giữa đoạn thoại .
c3 - Căn cứ và vị trí (tính liên kết) trong hai vế của cặp thoại người ta
đưa ra cặp thoại liền kề (kế cận) và cặp không liền kề gồm cặp thoại lồng,
cặp thoại chéo. Hai vế trong cặp thoại được chúng tôi xem là hai phát ngơn
trong cặp thoại do những người nói khác nhau nói ra.
- Cặp liền kề là hai vế trong cặp thoại có sự liên kết trực tiếp. Theo
Đỗ Hữu Châu, kiểu cặp thoại này gọi là cặp thoại liên kết hồn tồn tuyến
tính (liên kết phẳng).
(7)


A1: - Mai anh có về q khơng?
B1: - Khơng.
A2: - Thế thì chở em ra trường cái.

17


B2: - Ra đó bắt xe buýt cho tiện, chớ mai phải tiếp khách rồi.
Các cặp thoại ở (7) được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
C1

A1: - Mai anh có về q khơng?
B1: - Khơng.

C2

A2: - Thế thì chở em ra trường cái.
B2: - Ra đó bắt xe buýt cho tiện, chớ mai phải tiếp khách rồi.

Ngoài ra, Đỗ Hữu Châu cịn bổ sung cặp thoại liên kết hồn tồn
tuyến tính cịn thể hiện ở những cặp thoại hẫng hoặc ghép. Cặp thoại ghép
có nghĩa là tham thoại tương đương với hai chức năng đáp lời và trao lời.
(8) A1: - B2 ơi, có nhà khơơng?
B2: - Có việc chi rứa?
Lượt lời của B2 tương đương với hai tham thoại, thứ nhất là ngầm ẩn
trả lời câu hỏi A1, thứ hai đưa ra câu hỏi cho A1.
- Cặp thoại không liền kề là kiểu các cặp thoại liên kết chéo, liên kết
lồng. Cặp thoại liên kết chéo là thứ tự các tham thoại trong cặp thoại ở vị
trí chéo nhau.
(9) A: - Làm phiền anh, cho tôi hỏi đường đến bệnh viện ở đâu?

B: - Không sao, anh cứ đi tới ngã tư rẽ phải khoảng 200m là đến.
Có thể biểu diễn cặp thoại trên bằng sơ đồ
Làm phiền anh,
C

cho tôi hỏi đường đến bệnh viện ở đâu?
Không sao,
anh cứ đi tới ngã tư rẽ phải khoảng 200m là đến.

Còn cặp thoại liên kết lồng là trong một cặp thoại bao trùm một hoặc
một số cặp thoại con.

18


(10)
C1

A: - Hà ơi, đi sinh nhật
C2

B: - Sinh nhật ai?
C3

A: - Mi quên rồi à?
B: - Ai mà nhớ nỗi.
A: - Sinh nhật anh Bình đó.

C4


B: - Có mời mi à?
A: - Mơ có, nhớ ngày ta đến chúc mừng chơ mời miếc mô.
B: - Thôi, sinh chuyện, tau khơng đi mơ.

Ở (10) có bốn cặp thoại, trong đó cặp C 1, C2 là cặp thoại không liền
kề, Cặp thoại C3, C4 là cặp liền kề. Cặp thoại C1 là bao trùm cặp thoại C 2,
C3, C4.
Từ sự phân tích trên, chúng tơi cho rằng, yếu tố hình thành nên cặp
thoại là phải có hai nhân vật (A, B), nhân vật này đưa ra lời trao, nhân vật
kia đưa ra lời đáp. Lời trao và lời đáp phải có quan hệ tương thích về chức
năng, chẳng hạn: hỏi - trả lời, chào - chào, mời - nhận lời hoặc từ chối, yêu
cầu – chấp nhận...
Ở đề tài này, chúng tơi chỉ đi sâu tìm hiểu những cặp thoại mang tính
chủ hướng, liền kề. Trong cặp thoại đó có lời trao là tham thoại dẫn nhập
chứa hành động cầu khiến và lời đáp là tham thoại hồi đáp chứa hành động
từ chối làm chủ hướng.
(11) A: - Thứ bảy ni (này) về nhà choa (mình) nhởi (chơi).
B: - Thứ bảy ni (này), hẹn về nhà Hịa rồi, bựa sau nha.
Ví dụ (11) cặp thoại gán lời trao là lời rủ, lời đáp là lời từ chối.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày là ba đơn vị (cuộc thoại, đoạn thoại và
cặp thoại) hội thoại có tính chất lưỡng thoại, có nghĩa là chúng được hình
thành do vận động trao đáp của các nhân vật hội thoại. Dưới đây, chúng tôi

19


sẽ trình bày hai đơn vị (tham thoại, hành động ngơn ngữ) mang tính đơn
thoại.
d. Tham thoại (participants) là đơn vị đơn thoại do một nhân vật nói ra
cùng với tham thoại của nhân vật khác lập thành một cặp thoại.

Tham thoại khác với lượt lời:
Lượt lời là chuỗi đơn vị ngơn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra,
kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói
chuổi của mình [10, tr.227]. Những người tham gia hội thoại đều có quyền
nói lượt lời, nói phần của mình, nhờ có ngun tắc luân phiên lượt lời (có
lời trao và lời đáp) cuộc thoại mới phát triển bình thường.
Bên cạnh đó, lí thuyết hội thoại cũng khẳng định các cặp thoại được
tạo nên bởi các tham thoại của ít nhất hai nhân vật giao tiếp. Như vậy tham
thoại có thể trùng lượt lời trong trường hợp một tham thoại là một lượt lời.
Nhưng có những trường hợp tham thoại khơng trùng khớp với lượt lời. Một
tham thoại có thể có nhiều lượt lời hoặc một lượt lời gồm nhiều tham thoại.
e. Hành động ngơn ngữ (speech) cịn được gọi là hành động ngơn từ,
hành vi ngơn ngữ. Nó là đơn vị nhỏ nhất của “ngữ pháp hội thoại” cũng là
đơn vị tối thiểu tạo nên tham thoại. Trong một phát ngơn có thể có một
hành động ngơn ngữ nhưng cũng có thể có nhiều hành động ngơn ngữ.
(12) A: - Cho con năm ngàn mua bánh xà phịng.
B: - Tao khơng biết!
(13) A: - Mai ơng đến nhà mình nhởi!
B: - Khơng đi được rồi, mai có khách bên nhà chồng. Hay ơng lại
nhà giúp mình với.
Ở (12) có hai hành động ngôn ngữ: hành động trao lời là hành động
xin, hành động đáp lời là hành động từ chối. Ở (13) có ba hành động ngơn
ngữ: hành động trao lời là hành động cầu khiến còn hành động đáp lời gồm
hành động từ chối và hành động cầu khiến.

20


Trên đây là năm đơn vị tạo nên cấu trúc hội thoại. Trong đó hành động
ngơn ngữ là đơn vị cơ sở của ngữ pháp hội thoại. Và đó cũng là đơn vị cơ

bản được nghiên cứu trong đề tài này. Vì thế, chúng tơi trình bày kĩ vấn đề
này ở mục 1.2.
1.2. Xung quanh vấn đề lý thuyết hành động ngơn ngữ
1.2.1. Khái niệm hành động ngơn ngữ
Nói năng là một dạng hành động đặc biệt của con người – hành động
thông qua ngôn ngữ. Trong cuốn sách nổi tiếng có nhan đề: How to do
things with words của mình, nhà triết học Anh J. L. Austin đã khởi xướng lí
thuyết hành động ngơn ngữ – một lí thuyết làm xương sống cho ngữ dụng
học. Lí thuyết đó được nhà triết học J. Searle phát triển. Hai ông đã xác
nhận rằng, khi sử dụng ngôn ngữ, chúng ta không chỉ tạo ra những phát
ngơn có chứa mệnh đề về những đối tượng, những thực thể, sự kiện, mà
chúng ta còn thực hiện những chức năng như yêu cầu, phủ nhận, xin lỗi
vv…, tức là thực hiện các hành động bằng các phát ngơn đó. Điều đó cũng
có nghĩa là về bản chất, khi nói năng, chúng ta thực hiện hành động nói,
cũng giống như những hành động vật lí khác [9, tr. 94,95; 19, tr. 42; 31, tr.68].
Như vậy, hành động ngôn ngữ (hành vi ngôn ngữ) được hiểu là “vai
nói có thể dùng ngơn ngữ để miêu tả mọi hiện tượng, để thuật lại một sự
việc, để khẳng định, để bày tỏ sự nghi vấn, để đưa ra một yêu cầu, để
khuyên nhủ, để đe dọa, để khen ngợi... Ứng với cách dùng ngơn ngữ trên,
ta có hành vi miêu tả, kể, khẳng định, nghi vấn, yêu cầu, khuyên nhủ, đe
dọa, khen ngợi... Đó là những hành động bộ phận trong hoạt động giao tiếp
nói chung. Khi miêu tả, kể, nhận xét, khuyên... là chúng ta đang hành động
– hành động bằng ngơn ngữ” [31, tr. 69]. Có ba loại hành động liên quan
đến lời phát ngôn của người nói: hành động trao lời (locutionary act); hành
động mượn lời (perlocutionary act); hành động ở lời (illocutionary act).

21


J.Searle cho rằng: trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, đơn vị của giao tiếp

không phải là ký hiệu từ hay câu, hay thậm chí là vật sở chỉ cụ thể của ký
hiệu, của từ hay câu như người ta vẫn thường nghĩ thế mà chính là sự sản
sinh ra cái sở chỉ cụ thể khi thực hiện hành động ngôn trung mới là đơn vị
cơ bản của giao tiếp bằng ngơn ngữ. Nói một cách chính xác hơn, sự tạo
sinh ra cái sở chỉ của câu trong những điều kiện nhất định chính là hành
động ngơn trung và chính hành động này là đơn vị nhỏ nhất của sự giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Như vậy hành động ở lời được coi là trọng tâm nghiên
cứu của lí thuyết hành động ngôn ngữ [dẫn theo 34, tr. 21].
Trong luận văn, chúng tơi đi sâu vào tìm hiểu cặp hành động cầu
khiến – từ chối trong giao tiếp của người Hà Tĩnh.
1.2.2. Điều kiện sử dụng hành động ở lời
Điều kiện sử dụng hành động ở lời là điều kiện cần thiết để thực hiện
một hành động ở lời nhất định trong một ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Người
đầu tiên đề cập các điều kiện sử dụng các hành động ở lời là J.L. Austin.
Ông gọi các điều kiện này là điều kiện “may mắn” (felicity conditions) vì
nếu những điều kiện đó được đảm bảo thì hành động mới thành cơng. Đó là
những điều kiện sau:
a - (i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có hiệu
quả cũng có tính quy ước.
(ii) Hồn cảnh và con người phải thích hợp với những điều quy định
trong thủ tục.
b - Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ.
c - Thơng thường thì (i) những người thực hiện hành vi ở lời phải có ý
nghĩ, tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và (ii) khi
hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có [8,
tr.112].

22



J.Searle đưa ra 4 điều kiện cho việc thực hiện hành động ở lời đạt hiệu
quả đúng với đích của nó.
(1) Điều kiện nội dung mệnh đề (Content conditions) chỉ ra bản chất
nội dung của hành động. Nội dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản
(đối với các hành vi khảo nghiệm, xác tín, miêu tả), hay một hàm mệnh đề
(đối với câu hỏi chỉ có hai khả năng trả lời có hoặc khơng), có thể là một
hành động của người nói (như hứa hẹn) hay một hành động của người nghe
(lệnh, yêu cầu).
(2) Điều kiện chuẩn bị (Preparatory conditions): gồm những hiểu biết
của người phát ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và các
quan hệ giữa người nói và người nghe.
(3) Điều kiện chân thành (Sincerity conditions): chỉ ra các trạng thái
tâm lí tương ứng của người phát ngơn. Chẳng hạn: xác tín, khảo nghiệm
địi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín; lệnh địi hỏi lịng mong muốn; hứa
hẹn địi hỏi ý định của người nói…
(4) Điều kiện căn bản (Essential conditions): là điều kiện đưa ra trách
nhiệm mà người nói và người nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời đó được
phát ra [8, tr.116-117].
Bốn điều kiện do Searle đưa ra cũng được chúng tôi dựa vào để xem
xét hành động cầu khiến.
1.2.3. Phân loại hành động ở lời
Có nhiều cách phân loại hành động ở lời khác nhau:
a. Dựa vào ý nghĩa khái quát của động từ ngữ vi, Austin chia hành
động ở lời thành 5 phạm trù: phán xử, hành xử, cam kết, trình bày, ứng xử.
- Phán xử là hành động đưa ra những lời phán xét về một sự kiện hoặc
một giá trị dựa trên những chứng cứ hoặc lí lẽ xác đáng, gồm một số động
từ: xử trắng án, xem là, tính tốn, phân tích đánh giá, phân loại …

23



- Hành xử là những hành động đưa ra quyết định thuận lợi hay chống
lại một chuỗi hành động nào đó, gồm các động từ: ra lệnh, chỉ huy, biện hộ
cho, khẩn cầu, bế mạc, khai mạc, cảnh cáo, tuyên ngôn…
- Cam kết là những hành động ràng buộc người nói vào những trách
nhiệm nào đó, gồm các động từ: hứa, hẹn, bày tỏ, giao ước, bảo đảm, thề…
- Trình bày là những hành động dùng để trình bày quan niệm, lập luận,
giải thích từ ngữ… gồm các động từ: khẳng định, phủ đinh, từ chối, trả lời,
phản bác,…
- Ứng xử là những hành động phản ứng lại xử sự của người khác trong
những vấn đề có liên quan, gồm các động từ: xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi,
chào mừng, phê phán, chia buồn…
b. Dựa vào chức năng khái quát của hành động ngôn ngữ, J. Searle
đưa ra 12 tiêu chí (đích ở lời, hướng khớp ghép lời với hiện thực, trạng thái
tâm lí được thể hiện, sức mạnh mà đích trình bày, tính quan yếu, định
hướng, hai thành phần của một cặp kế cận, nội dung mệnh đề, bằng lời hay
không bằng lời, thể chế xã hội và hành động ngơn ngữ, có động từ ngữ vi
hay khơng có động từ ngữ vi, phong cách thể hiện phân loại), trong đó có 4
tiêu chí cơ bản (tiêu chí đích ở lời, hướng khớp ghép lời với hiện thực, nội
dung mệnh đề, trạng thái tâm lí) để phân thành 5 phạm trù hành động ở lời
gắn với 5 chức năng tổng quát của hành động ở lời: (1) tuyên bố, (2) biểu
hiện, (3) bộc lộ, (4) điều khiển, (5) ước kết.
- Tuyên bố là những hành động mà khi nói ra chúng, người nói làm
thay đổi hiện thực được nói tới, gồm những động từ: tuyên bố, buộc tội.
- Biểu hiện là những hành động mà mệnh đề của chúng có thể đánh
giá theo tiêu chuẩn đúng – sai logích, gồm các động từ: than thở, khoe…
- Bộc lộ (biểu cảm) là hành động bày tỏ những trạng thái tâm lí, gồm
các động từ: vui thích, khó chịu, mong muốn, rầy bỏ.

24



- Điều khiển là những hành động đặt người nghe vào trách nhiệm thực
hiện một hành động trong tương lai, gồm các động từ: ra lệnh, yêu cầu, cho phép.
- Ước kết (cam kết) là những hành động mà người nói dùng để ràng
buộc chính mình vào một hành động nào đó trong tương lai, gồm các động
từ: hứa, hẹn, tặng, biếu, từ chối [21, tr. 35-36; 31, tr. 87-88].
Năm chức năng tổng quát trên cùng với những đặc trưng mấu chốt của
chúng mà Searle đưa ra đã được George Yule [42, tr. 109] lập thành bảng
bảng 1.1 tổng kết như sau
Loại hành động nói

Hướng khớp ghép

Tuyên bố

từ làm thay đổi thế giới

S = người nói
X = tình huống
S gây ra X

Biểu hiện

làm cho từ khớp với thế giới

S tin X

Bộc lộ


làm cho từ khớp với thế giới

S cảm nhận X

Điều khiển

làm cho thế giới khớp vào từ

S muốn X

Ước kết

làm cho thế giới khớp vào từ

S chủ định X

Bảng 1.1. Năm chức năng tổng quát của hành động nói
c - Dựa vào cách thể hiện lực ngôn trung chia hành động ở lời thành 2
loại cơ bản: hành động ngôn ngữ trực tiếp và hành động ngôn ngữ gián tiếp.
- Hành động ở lời trực tiếp là “hành động có sự tương ứng giữa cấu
trúc phát ngơn trên bề mặt với hiệu lực của nó gây ra”[31, tr.88]. Có nghĩa
là có một mối liên hệ trực tiếp dễ dàng nhận biết giữa một cấu trúc và một
chức năng.
(14) Anh có đi chơi khơng?
Đây là hành động hỏi và hiệu lực hỏi thể hiện ngay bề mặt phát ngôn.
- Hành động ở lời gián tiếp là hành động “khơng có sự tương ứng giữa
cấu trúc phát ngôn trên bề mặt với hiệu lực của nó gây nên hay nói cách
khác là hành động mà trên cấu trúc bề mặt A nhưng gây một hiệu lực lại là
B” [31, tr 88].


25


×