Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG về TRUYỆN NGẮN và NHÂN vật nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.74 KB, 141 trang )

1

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là hai
cuộc kháng chiến ác liệt và gian khổ bậc nhất trong lịch sử
dựng nớc và giữ nớc của dân tộc Việt Nam. Cuộc chiến với quy
mô lớn, thời gian kéo dài, tính chất khốc liệt đà để lại những
dấu ấn không phai mờ trong lòng dân tộc in đậm lên từng
cuộc đời từng số phận con ngời Việt Nam đặc biệt là ngời
phụ nữ. Với ngời phụ nữ, họ không chỉ sống và chiến đấu
trên mặt trận có tiếng súng, thiên chức làm vợ, làm mẹ khiến
vai trò của ngời phụ nữ trở nên vô cùng quan trọng cũng bởi
thế mà nỗi đau, sự mất mát do chiến tranh gây ra với họ
cũng tăng lên gấp bội. Trong chiến tranh họ đà sống và chiến
đấu nh thế nào? Sau chiến tranh cuộc đời, số phận của họ
ra sao? Đó là tâm điểm thu hút sự quan tâm chú ý của
không ít ngời cầm bút có trách nhiệm.
1.2. Viết về đề tài chiến tranh, bên cạnh thể loại dài hơi
truyện ngắn đợc xem là một thể loại tiêu biểu có nhiều
thành tựu đà thể hiện rất thành công chân dung nhân vật
nữ trong chiến tranh và số phận của họ thời hậu chiến. Vì
vậy nó là sự lựa chọn của rất nhiều nhà văn, độc giả và giới
nghiên cứu phê bình.
1.3. Nhân vật nữ trong truyện ngắn viết về đề tài
chiến tranh dù ở giai đoạn nào cũng có giá trị và sức sống
riêng của nó. Nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta thấy đợc
những sắc thái khắc nhau của chiến tranh thông qua nh©n


2


vật ngời phụ nữ, đồng thời cũng thấy đợc giá trị thực sự của
họ trong sự nghiệp đấu tranh chung của toàn dân tộc.
1.4. Cuộc chiến đà lùi xa nhng thế hệ những ngời cầm
bút hôm nay vẫn rất quan tâm tới đề tài chiến tranh và số
phận con ngời thời hậu chiến. Nghiên cứu đề tài này còn giúp
chúng ta thấy đợc sự vận động của văn học viết về đề tài
chiến tranh nói chung, truyện ngắn nói riêng qua các thời kỳ
khác nhau của lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
Nhân vật nữ truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh đÃ
thu hút đợc sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu phê bình
văn học. ở đây chúng tôi chỉ đa ra những ý kiến, những
bài viết, những bài nghiên cứu phê bình có liên quan tới vấn
đề chúng tôi đang nghiên cứu làm rõ.
Tác giả Phùng Ngọc KiÕm trong “Quan niƯm nghƯ tht
vỊ con ngêi trong trun ngắn 1945-1975
Chiến tranh đà lùi xa cũng là lúc ngời ta nhìn nhận và
đánh giá lại cuộc chiến một cách khách quan và trung thực.
Nếu nỗi đau thơng mất mát là điều ít đợc nói đến trong
văn học trớc giải phóng thì trong văn học hôm nay lại rất chú
trọng thể hiện số phận của ngời phụ nữ đà từng đi qua
chiến tranh. Trong bài Vài nét về thân phận ngời phụ nữ đi
qua chiến tranh (Tạp chí văn học số 3-1991). Tác giả Lê
Quang Trang qua các tác phẩm Ngời mẹ tội lỗi của Xuân
Thiều, Nớc mắt đỏ của Trần Huy Quang, Chim én bay của
Nguyễn Trí Huân đà đặc biệt chú ý tới bi kịch những ngời
phụ nữ đi qua chiến tranh, tác giả nhấn mạnh Chiến tranh
bao giờ cũng đi liền với tàn phá chết chóc, bất hạnh, mất mát.



3
Có lẽ đối tợng mất mát nhiều nhất chính là phụ nữ, vì
những đặc điểm riêng của giới tính. Nhng chiến tranh
giành độc lập cho tổ quốc cho dân tộc, với sự cần thiết của
nó thì chính những mất mát kia chỉ làm cho chúng ta yêu
quý những gì chúng ta có hôm nay. Nói về số phận của
những ngời phụ nữ đi qua chiến tranh tác giả Lê Quang
Trang đồng thời khẳng định vai trò của họ trong thắng lợi
chung của toàn dân tộc. Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại ở
bi kịch của ngời phụ nữ đi qua chiến tranh còn các khía
cạnh khác trong cuộc đời của họ cha đợc tác giả đề cập tới.
Trong bi Một vài suy nghĩ về con ngời trong văn xuôi
thời kỳ đổi mới (Tạp chí văn học số 3- 2001). Tác giả Tôn Phơng Lan lại chú ý tới nhân vật cô đơn trong văn xuôi thời kỳ
đổi mới, trong đó có nhân vật Quỳ (Ngời đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu) là ngời Trong cái
vỏ bọc là ngời bị bệnh mộng du đà sống cuộc sống cô đơn
vì lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối
hoàn mỹ. Tác giả cũng cho rằng Văn xuôi thời kỳ này nhất
là những năm đầu của thập niên chín mơi, nhân vật cô
đơn là phụ nữ xuất hiện rất phổ biến. Những ngời phụ nữ
đi qua chiến tranh thờng không chỉ mang nỗi cô đơn vì thờng xuyên phải sống nơi chốn giáp ranh giữa địa ngục và
trần gian, vì quanh năm suốt tháng họ chØ tiÕp xóc víi
nh÷ng ngêi cïng giíi víi nhau trong công việc sinh hoạt hàng
ngay nh ngời sót lại của rừng cời. Sau chiến tranh khi cuộc
sống trở lại cái yên ả đời thờng không ít ngời phụ đà giật
mình vì tuổi thanh xuân của họ đà không còn phần nửa
cuộc đời của đà nằm lại nơi chiến trờng, hoặc không có cơ


4

hội để tìm lại đợc. Trong bài Những ấn tợng chung về nhân
vật nữ của Nguyễn Minh Châu (Tạp chí văn học, số 3-1985).
Tác giả Hồ Thị Minh Thái đà phát biểu những cảm nhận
chung của mình về nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu, tập trung vào nhân vật Quỳ (Ngời đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành) Trớc Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi
hiện đại và cả những tác phẩm chính của Nguyễn Minh
Châu, tôi hầu nh cha gặp một nhân vật phụ nữ nào có tính
cách mạnh và rõ ràng đến thế, và theo một cách diễn đạt
thông thờng có khả năng làm chủ vận mệnh của mình đến
thế!. Từ nhận xét về nhân vật Quỳ, Nguyễn Thị Minh Thái
đi đến cảm nhận chung về nhân vật ngời phụ nữ của
Nguyễn Minh Châu: Những nhân vật đáng yêu nhất của
Nguyễn Minh Châu chính là những nhân vật ngời phụ nữ.
Và chỉ riêng đóng góp cho những tính cách văn học ấy của
văn nghiệp của anh cũng khiến anh có một vị trí trong
những nhà viết văn xuôi Việt Nam hiện đại và khiến cho anh
có một diện mạo không thể hoà lẫn. Những nhận xét trên
đây tuy mới chỉ ở dạng nhận định, phát biểu cảm tởng về
nhân vật nữ của một tác giả nhng đà tiếp cận những nét
riêng của nhân vật nữ trong văn xuôi thời kỳ đổi mới so với
văn học trớc đó.
Trong bài Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học
Việt Nam đơng đại. Tác giả Đoàn Cầm Thi đà gián tiếp bàn
về nhân vật nữ trong văn xuôi đơng đại qua một chủ đích
khác: yếu tố tình dục trong văn xuôi đơng đại viết về chiến
tranh qua nhân vật nữ nh: Thai, Huệ (Cỏ lau - Nguyễn Minh
Châu), Thảo (Ngời sót lại của rừng cời - Võ Thị Hảo), Hạnh,



5
Thắm (Bến không chồng - Dơng Hớng), Phơng (Nỗi buồn
chiến tranh - Bảo Ninh), Diễm (Đàn sẻ ri bay ngang rừng - Võ
Thị Xuân Hà). Bi kịch về tình yêu, tình dục càng khắc hoạ
rõ nét hơn số phận bất hạnh của nhân vật nữ trong và sau
chiến tranh.
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu bàn về nhân vật
nữ trong truyện ngắn của một hoặc một nhóm tác giả đợc
đăng rải rác trên các báo, tạp chí uy tín khác.
Các tác giải nh: Trần Cơng, Nguyễn Văn Long, Bùi Việt
Thắng, Bích Thu, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Hoà, Đặng Văn Sinh,
Nguyễn Thị Hơng Giang, Nguyên Ngọc đà có rất nhiều bài
viết, bài nghiên cứu về truyện ngắn viết về đề tài chiến
tranh. Nhng đối tợng chủ yếu là những ngời lính nam mang
phẩm chất, tâm hồn và dấu ấn của thời đại. Nhân vật nữ là
một đối tợng thẩm mỹ riêng biệt nhng lại rất ít đợc đề cập tới
và nếu có đề cập tới thì lại nằm trong cái nhìn chung về
nhân vật ngời lính.
Bên cạnh những bài phê bình nghiên cứu nói trên thì
nhân vật nữ còn là đối tợng nghiên cứu của một số luận văn
thạc sĩ nh: Đào Đồng Điện (2004), Nhân vật nữ trong văn xuôi
Việt Nam từ 1945 đến nay, Đại học Vinh; Nguyễn Thị Thu Hơng (2004), Một số đặc điểm nổi bật của truyện ngắn các
nhà văn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, Đại học Vinh; Nguyễn
Thị Hơng (2003), Truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh
và ngời lính sau 1975, Đại học s phạm Hà Nội. Đây là những
đề tài có liên quan đến nhân vật nữ trong truyện ngắn
viết về đề tài chiến tranh nhng khác với góc độ và nhiệm vụ
nghiên cứu.



6
Tóm lại, có rất nhiều ý kiến bàn về nhân vật nữ trong
văn xuôi viết về đề tài chiến tranh nói chung và truyện
ngắn nói riêng. Mỗi bài nghiên cứu, mỗi bài viết, mỗi ý kiến
thờng chỉ đề cập tới một hoặc một vài khía cạnh nỗi bật của
nhân vật nữ hoặc chỉ bàn về nhân vật nữ của một tác giả
tiêu biểu chứ cha thực sự nhìn nhận, xem xét, lí giải nó
trong tính hệ thống. Vì vậy nhân vật nữ trong truyện
ngắn viết về đề tài chiến tranh vẫn còn là một vấn đề để
ngỏ. Tuy nhiên những tài liệu nói trên là cơ sở đầu tiên,
những gợi mở quan trọng để chúng tôi tiếp tục thực hiện đề
tài này.
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng
Nhân vật nữ trong truyện ngắn viết về đề tài chiến
tranh
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này ngời viết luận văn không có tham vọng khảo
sát tất cả truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh từ 1945
đến nay mà chủ yếu tập trung khảo sát nhân vật nữ trong
các tuyển tập:
Truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài chiến tranh, Nhà
xuất bản Hội nhà văn 1995.
Tuyển tập truyện ngắn chọn lọc về chiến tranh, Nhà xuất
bản Văn học 2006.
Tuyển tập truyện ngắn đợc giải Văn nghệ quân đội,
nhà xuất bản Văn học 2007.
4. Nghiệm vụ nghiên cứu



7
4.1. Tìm hiểu nhân vật nữ trong những truyện ngắn
về chiến tranh (trớc và sau 1975) trên các phơng diện: Loại
nhân vật, phẩm chất - số phận, nghệ thuật xây dựng nhân
vật.
4.2. Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo, để tiếp tục nghiên cứu nhân vật nữ trong văn học viết
về đề tài chiến tranh.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt mục đích, nhiệm vụ đặt ra luận văn
của chúng tôi thực hiện bằng việc kết hợp nhiều phơng pháp
nghiên cứu:
5.1. Phơng pháp khảo sát - thống kê
5.2. Phơng pháp so sánh - đối chiếu
5.3. Phơng pháp phân tích - tổng hợp
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Khái quát chung về truyện ngắn và nhân vật
nữ trong truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh từ 1945
đến nay
Chơng 2: Phẩm chất và số phận nhân vật nữ trong
truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh từ 1945 đến nay
Chơng 3: Vài nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng
nhân vật nữ


8

Chơng 1

Khái quát chung về Truyện ngắn và nhân vật nữ
trong truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh
từ 1945 đến nay
1.1. Truyện ngắn và u thế của thể loại
1.1.1. Trun ng¾n


9
Thuật ngữ truyện ngắn (tiếng Pháp là: Nouvelle, tiếng
Anh; Short Story, tiếng Nga; Hoberra; tiếng Trung Quốc: Đoản
thiên tiểu thuyết) hiện nay đợc dùng nh một thói quen, ít khi
ngời ta mang ra bàn luận, nhng thực tế vấn đề không hề
đơn giản. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về truyện
ngắn. Giáo s văn học ngời Pháp D.Grônôpxki cho rằng: Truyện
ngắn là một thể loại muôn hình muôn vẻ biến đổi không
cùng. Nó là một vật biến hóa nh quả chanh của Lọ Lem. Biến
hóa về khuôn khổ: Ba dòng hoặc ba mơi trang. Biến hóa về
kiểu loại: tình cảm, trào phúng, kỳ ảo. Hớng về biến cố thật
hay tởng tợng, hiện thực hoặc phóng túng. Biến hóa về nội
dung thay đổi vô cùng tận. Muốn có chất liệu để kể, cần
một cái gì đó xảy ra, dù đó là sự thay đổi chút xíu về sự
cân bằng, về các mối quan hệ. Trong thế giới của truyện
ngắn, cái gì cũng thành biến cố. Thậm chí sự thiết vắng
tình tiết diễn biến cũng gây hiệu quả, nó làm cho sự chờ
đợi bị hụt hẫng.
Nhà văn ngời Nga Pautôpxky thực chất truyện ngắn là
gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn
gọn, trong đó cái không bình thờng hiện ra nh một cái bình
thờng và cái bình thờng hiện ra nh một cái không bình thờng.
ở Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan đa ra khái niệm

truyện ngắn nh sau: Trớc hết ta nên phân biệt thế nào là
truyện ngắn, thế nào là truyện dài. Loại truyện ngắn viết
bằng văn xuôi theo nghệ thuật Tây Âu là loại mới có trong văn
học Việt Nam, từ ngày ta chụi ảnh hởng của văn học Pháp.
Ngày xa ta chỉ có trun kĨ b»ng miƯng hc viÕt b»ng


10
văn vần. Những truyện: Muỗi nhà, muỗi đồng; Hai ông phật
cÃi nhau trong Thánh Tông di thảo không phải là lịch sử - tiểu
thuyết. Cho nên loại truyện này viết theo nghệ thuật Tây Âu,
ta theo Trung Quốc mà gọi là tiểu thuyết, và cái nào viết
trong năm tranh gọi chung là trung thiên tiểu thuyết, cái nào
viết hàng trăm trang gọi là trờng thiên tiểu thuyếtNăm
1932, báo Phong Hóa dịch đoản thiên tiểu thuyết ra tiếng ta
gọi là truyện ngắn. Rồi từ đó trờng thiên tiểu thuyết gọi là
truyện dài trung thiên tiểu thuyết gọi là truyện vừa.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, mục từ truyện ngắn là:
Hình thức tự sự cỡ nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở
dung lợng nhỏ hơn, tập trung miêu tả một mảnh của cuộc
sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong giai đoạn
nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào
đó của vấn ®Ị x· héi. Cèt trun ng¾n thêng diƠn ra trong
mét khoảng không gian, thời gian hạn chế. Kết cấu của
truyện ngắn cũng không chia thành nhiều tuyến phức tạp.
Truyện ngắn viết ra để thu liền một mạnh, đọc một hơi
không nghỉ, nên đặc điểm của, biết gọt tỉa và dồn nén.
Truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện. Do đó trong
khuôn khổ ngắn gọn, những truyện ngắn thành công thể
hiện đợc những vấn đề xà hội có tầm khái quát rộng lớn.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học mục truyện ngắn là:
Tác phẩm thự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn
bao trùm hầu hết các phơng diện cđa ®êi sèng: ®êi t thÕ sù
hay sư thi, nhng cái độc đáo của nó là ngắn.
Tuy nhiên mức độ ngắn dài cha phải là đặc điểm chủ
yếu để phân biệt truyện ngắn với tác phẩm tự sự khác.


11
Trong văn học hiện đại có rất nhiều tác phẩm rất ngắn nhng
thực chất là những truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn
thời trung đại cũng ngắn nhng cũng rất gần với truyện vừa.
Các hình thức truyện kể về dân gian ngắn gọn nh cổ tích,
truyện cời, giai thoạilại càng không phải là truyện ngắn.
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu t duy mới, một cái
nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng mang
tính chất thể loại. Cho nên truyện ngắn đích thực xuất hiện
tơng đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với tiểu thuyết là
loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn
vẹn của nó, truyện ngắn thờng hớng tới việc khắc họa một
hiện tợng, phát hiện một nét bản chất quan hệ nhân sinh
trong đời sống con ngời. Vì thế truyện ngắn thờng ít nhân
vật, ít sự kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu
thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là
mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn không nhằm hớng tới
những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong thơng quan với hoàn cảnh. Nhân vật của trtuyện ngắn thờng
là hiện th©n cho mét quan hƯ x· héi, ý thø x· hội hoặc trạnh
thái tồn tại của con ngời.
Cốt truyện của truyện ngắn thờng tự giới hạn về không
gian thời gian; nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu

sắc về cuộc đời con ngời. Kết cấu truyện ngắn không bao
gồm nhiều tầng tuyến mà thờng đợc dựng theo lối tơng
phản hoặc liên tởng.
Chi tiết và lời văn là những u tè quan träng nghƯ tht
viÕt trun ng¾n. Lêi kĨ và cách kể là những điều đợc ngời


12
viết truyện ngắn đặc biệt chú ý khai thác và xử lý, nhằm
đạt hiệu quả nh mong muốn.
Trong 150 thuật ngữ văn học coi truyện ngắn là một:
thể tài tác phẩm thự sự cỡ nhỏ, thờng đợc viết bằn văn xuôi,
đề cập đến hầu hết các phơng diện của ®êi sèng con ngêi
vµ x· héi. NÐt nỉi bËt cđa truyện ngắn là sự giới hạn về dung
lợng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với ngời tiếp nhận (độc
giả) đọc một lần không nghỉ
Qua những định nghĩa trên về truyện ngắn cho ta thấy
một cái nhìn tơng đối đầy đủ về truyện ngắn trên các phơng diện nh: dung lợng, nhân vật kết cấu,cốt truyện, sức
khái quát hiện thực từ đó chúng ta có thể rút ra những
đặc điểm chính của truyện ngắn nh sau:
Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ (nhỏ ở đây
đồng nghĩa với ngắn gọn, cô đúc, hàm xúc, tinh lọc và hay)
Truyện ngắn tập trung vào một mặt nào đó của cuộc sống
hiện thực, các sự kiện tập trung trong một khoảng không
gian thời gian nhất định. Kết cấu của truyện ngắn chặt chẽ
và là kết cấu đơn tuyến. Nhân vật của truyện ngắn thờng
thể hiện trạng thái tâm thế của con ngời thời đại
1.1.2. Ưu thế của thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn nằm trong hệ thống chung của thể loại văn
kể chuyện. Nhà văn kể lại một trờng hợp đặc biệt của nhân

vật thay một số nhân vật nào đó. Tuy có một số đặc điểm
riêng biệt, nhng truyện ngắn cũng có những đặc trng
chung cho thể loại truyện. Đó là có: cốt truyện, có nhân vật,
đợc thể hiện qua phơng thức kể truyện và có vai trò của ng-


13
êi kĨ trun. Lêi kĨ, nh©n vËt, cèt trun trong mỗi tác
phẩm có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Truyện ngắn trong xà hội hiện đại có những u thế riêng.
Nhà nghiên cứu M. Bakhtin đà chỉ rõ: Mỗi thể loại thể hiện
một thái độ thẫm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ,
nhìn nhận, giải minh thế giới và con ngời. Truyện ngắn cũng
là một thể loại nh thế đặc biệt là trong xà hội hiện đại. Vì
thế, nó thu hút đợc sự quan tâm của ngời sáng tác, nghiên
cứu và ngời đọc
Truyện ngắn là một thể loại rất nhạy cảm với những biến
đổi đời sống xà hội. Với hình thức gọn nhẹ truyện ngắn
luôn bắt kịp những vận động của xà hội và những biến thái
dù rất tinh vi của đời sống con ngời. Ngày nay khi x· héi víi sù
phÊt triĨn nh vị b·o cđa c¸c ngành khoa học kỹ thuật và công
nghệ con ngời luôn phải đứng trớc nguy cơ tụt hậu, đòi hỏi
mỗi ngời phải nỗ lực hết mình thì truyện ngắn có thể
nhanh chóng nắm bắt và mô tả đợc những bớc đi của con
ngời. Con ngời bị dồn ép về mặt thời gian hơn bao giờ hết.
Con ngời không đủ thời gian cho những bộ tiểu thuyết đồ
sộ hàng trăm trang nh: Chiến tranh và hoà bình, Sông đông
êm đềm, Những ngời khốn khổTruyện ngắn đà hàm chứa
cái thú vị trong hình thức nhỏ gọn, xinh xinh và đầy truyền
cảm, truyền dẫn cực nhanh những thông tin đà chinh phục

đợc rất nhiều độc giả thời hiện đại.
Truyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ nhng lại có khả năng
to lớn trong việc tái hiện cuộc sống của con ngời, vì nó là thể
loại phát hiện đời sống con ngời theo chiều sâu. Vậy dung lợng của truyện ngắn là rất lớn. Nhà văn Nguyên ngọc đà nhậ


14
xét trong độ ba trang giấy, mấy nghìn chữ mà rõ cả bộ
mặt của cả một cuộc đời, một kiếp ngời, một thời đại. Các
truyện ngắn bây giờ rất nặng. Dung lỵng cđa nã là dung lỵng
cđa mét cn tiĨu thuyết.
Truyện ngắn hiện đại rất gần gủi với thể loại báo chí. Đây
là một lợi thế lớn bởi hiện tại báo chí kể cả báo điện tử phát
triển với tốc độ chóng mặt. Ngời ta quen và thích đọc
những tác phẩm có dung lợng ngắn nhng hàm chứa Truyện
ngắn có tính thời sự cao, trong thời đại ngày nay nó nhanh
chóng nắm bắt, truyền tải những vấn đề bức xúc của đời
sống xà hội. Vì thế nó là trung tâm thu hút sức sáng tạo của
nhiều thế hệ cầm bút. Raymond Carer một trong những
bậc thầy truyện ngắn thế giới đà nghi nhận: ngày nay các
tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thoả mÃn nhất về
nhiều mặt, thậm chí tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trờng
tồn, chính là những tác phẩm viết dới dạng truyện ngắn.
Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là ngắn,
những chi tiết, yếu tố cô đúc có dung lợng lợng lớn và lối hành
văn nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm chiều sâu cha nói hết.
Truyện ngắn là thể loại gần gủi với đời sống hàng ngày, súc
tích dễ đọc lại thờng gắn với các hoạt động báo chí, do đó
có tác động kịp thời trong đời sống. Rất nhiều nhà văn đÃ
thành công với thể loại truyện ngắn nh: Nam cao, Nguyễn

Công Hoan, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân
Thiều, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp...
hiện nay còn có sự góp mặt của những cây bút trẻ: Nguyễn
Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Phan thị Vàng Anh, Trần Thị Thờng, Nguyễn Ngọc T...Sự tiếp nối giữa các thế hệ sáng tác đÃ


15
góp phần không nhỏ trong việc kế thừa và cách tân thể loại
làm cho truyện ngắn ngày càng mới mẻ và phong phú hơn.
1.2. Cái nhìn chung về truyện ngắn viết về đề tài
chiến tranh từ 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công tạo ra một bớc ngoặt mới
trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên của độc lập tự do và chủ
nghĩa xà hội, đồng thời cũng mở ra một thời đại mới trong văn
học nghệ thuật. Hơn nửa thế kỷ qua văn học đà có nhng bớc
đi vững chắc gặt hái đợc nhiều thành tựu to lớn đóng góp
một phần không nhỏ trong tiến trình hiện đại hóa văn học.
Nền văn học mới ra đời và phát triển trong một hoàn cảnh
lịch sử đặc biệt, thời kỳ mà đất nớc có nhiều biến cố lịch sử
lớn lao tác động sâu sắc đến toàn bộ đời sống xà hội và con
ngời. Trong vòng ba mơi năm dân tộc ta đà phải lần lợt đánh
đuổi hai tên đế quốc sừng sỏ là thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ. Sau năm 1975 dới sự lÃnh đạo của Đảng chúng ta vừa phải
bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nớc theo định hớng chủ
nghĩa xà hội. Ngay từ buổi đầu nền văn học đà xác định đợc
hớng đi cho mình phục vụ những mục tiêu cao cả của cách
mạng, phục vụ cuộc chiến đấu sống còn của dân tộc vì vậy
nền văn học cách mạng trở thành nền văn học chủ lu trong đời
sống văn học dân tộc gắn với từng bớc đi của lịch sử. Suy cho
cùng bất cứ nền văn học chân chính nào cũng gắn liền với

thời đại của mình, với đông đảo quần chúng của thời đại ấy.
Văn học nói chung truyện ngắn nói riêng nhận rõ sứ mệnh
lịch sử của mình, tự nguyện trở thành vũ khí đắc lực cho sự
nghiệp trong sự nghiệp xây dựng và giải phóng đất nớc. Từ
định hớng trên, truyện ngắn 30 năm chiến tranh đề cao


16
nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, thể
hiện niềm tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc.
Văn học viết về đề tài chiến tranh gồm nhiều thể loại:
thơ, tiểu thuyết, ký, truyện ngắn... trong đó truyện ngắn là
một loại tiêu biểu đà đạt đợc nhiều thành tựu với nhiều tên
tuổi lớn nh: Nam cao, Tô Hoài, Hữu Mai, Nguyễn Thi, Nguyễn
Minh Châu Truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh từ 1945
đến nay có thể chia làm hai giai đoạn lớn giai đoạn đất nớc có
chiến tranh (1945-1975) và giai đoạn hòa bình thống nhất
đất nớc từ (1975 đến nay).
1.2.1. Giai đoạn 1945-1975
Độc lập cha đợc bao lâu thì thực dân pháp quay trở lại
xâm lợc nớc ta một lần nữa. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ
Tịch Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nớc
không chịu làm nô lệ lòng yêu nớc, tinh thần dân tộc lại một
lần nữa đợc bùng lên, cả nớc đồng loạt đứng dậy chống giặc
ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập tự do của
dân tộc. Ba mơi năm chiến tranh khói lửa với bao nhiêu chiến
công oai hùng, biết bao nhiêu máu và nớc mắt của chiến sĩ
và đồng bào đà đổ xuống trở thành một mảng hiện thực
lớn, phong phú có sức hấp dẫn đặc biệt đối với văn học nghệ
thuật nói chung. Đó không phải mảng hiện thực gắn bó với

những mảnh đời nhỏ bé, những số phận bất hạnh hay
những mộng tởng cá nhân nh trong văn học giai đoạn 19301945 mà nó là khí thế quật cờng của cả một dân tộc đang
trỗi dậy vơn lên. Truyện ngắn giai đoạn này chủ yếu tập
trung phản ánh những vấn đề to lớn, những biến cố trọng
đại của đời sống xà hội, kịp thời ghi lại những hình ảnh


17
không thể phai mờ của lịch sử dân tộc. Đó là một giai đoạn
đầy gian lao, thử thách, nhiều hy sinh nhng cũng không kém
phần vẻ vang của lịch sử dân tộc. Cuộc kháng chiến của dân
tộc có quy mô rộng lớn cha từng có, tác động mạnh mẽ đến
cả một thời đại, với tính chất quyết liệt và hào hïng víi sù
n¶y në rùc rì cđa chđ nghÜa anh hùng trong hàng triệu quần
chúng đà làm xúc động biết bao con tim, đồng thời ảnh hởng trực tiếp đến thế giới quan của ngời sáng tác, là cơ sở
cho một nền văn học mới ra đời. Văn học trong giai đoạn này
đà tập hợp đợc đội ngũ nhà văn đông đảo với rất nhiều tài
năng đợc tôi luyện trong môi trờng chiến tranh và cách mạng
nh: Tô Hoài, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng,
Nguyễn Thành Long, Nguyễn Thành Trung, Mai Ngữ, Đỗ Chu
Họ vừa là chiến sĩ, vừa là nghệ sĩ luôn luôn có mặt ở mũi
nhọn cuộc sống, nhà văn trở thành ngời th kí trung thành của
thời đại theo sát những chặng đờng của cách mạng. Họ
chính là nguồn tinh lực đa nền văn học 1945-1975 đi đến
đỉnh cao vinh quang.
Truyện ngắn giai đoạn này đà phác hoạ lại những nét tơi nguyên, sống động của những sự kiện lịch sử sôi động
của dân tộc.(Làng Kim Lân, Đôi mắt, ở rừng Nam Cao, )
Hoàn cảnh lịch sử đem lại cho nhà văn phát hiện lớn lao:
Phát hiện ra sức mạnh quật khởi của con ngời Việt Nam trong
vẻ đẹp mới lạ của đời sống cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu

văn học đà khẳng định “Mét nỊn nghƯ tht míi bao giê
cịng ra ®êi víi con ngời mới. Văn học giai đoạn này đà sáng
tạo ra một thế giới nhân vật đông đảo trong đó nh©n vËt


18
trung tâm là những con ngời mang t tởng của thời đại và kết
tinh những phẩm chất cao quý của cả cộng đồng. Tuy nhiên
quan niệm nghệ thuật về con ngời trong từng giai đoạn cũng
có sự thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu
của lịch sử. Cách mạng đà đa những ngời nông dân từ thân
phận nô lệ trở thành những ngòi làm chủ đất nớc. Mối ân
tình đó đối với cách mạng thật sâu đậm chính vì vậy mọi
hành động việc làm của họ đều hớng kháng chiến. Con ngời
đến với cách mạng với sự hăm hở, đầy nhiệt huyết nhà văn
không xem xét con ngời ở bình diện cá nhân mà khám phá
con ngời tập thể, cộng đồng, giai cấp với nhân vật trung
tâm là quần chúng công - nông - binh. Các nhà văn hớng tới
quần chúng thể hiện sự ngạc nhiên thán phục, ngợi ca trớc
hành động dũng cảm, hồn nhiên và lạc quan của quần chúng
cách mạng (Cách mạng, Đôi mắt, Đờng vui, Trong rừng Yên
Thế, Núi cứu nớc) Mỗi con ngời đều tìm thấy mình trong
cuộc sống của cộng đồng. Trong truyện ngắn Đôi mắt của
Nam Cao anh trai làng hăng say vác bó tre đi cản cơ giới
địch, hăng say đọc thuộc lòng bài Ba giai đoạn của cuộc
kháng chiến, Trong truyện ngắn làng của Kim Lân ngời nông
dân tản c, thấy xấu hổ đau xót khi nghe tin làng theo giặc
bỗng trở lại vui mừng phấn khỏi khi biết đó chỉ là tin đồn
thất thiệt. Tuy nhiên cái nhìn về quần chúng trong văn học
kháng chiến chống Pháp khá đơn giản con ngời chủ yếu đợc

thể hiện qua hành động hớng ngoại, cha có suy nghĩ gằng
xé nội tâm. Các nhà văn cha đi sâu vào tờng tận từng nhân
vật để thấy đợc chân dung sinh động và có giá trị.


19
Cuộc kháng chiến chống Mĩ là thử thách vô cùng lớn lao
đối với dân tộc ta. Đây là một cuộc chiến đầu cam go thử
thách, chúng ta phải đối diện với một kẻ thù tàn ác và lớn mạnh
nhất trong lịch sử. Cuộc chiến đầygay go ác kiệt cả dân tộc
chìm trong bể máu, chủ nghĩa anh hùng, truyêng thống yêu
nớc lại đợc đánh thức trong mỗi con ng ời tạo nên sức mạnh
quật khỏi của tinh thần đoàn kết. Hiện thực về cuộc kháng
chiến chống là mảnh đất màu mỡ để truyện cắm rể, đâm
chồi phát triển. Đời sống hiƯn thùc cđa lÞch sư cïng víi sù chÝn
mi cđa lí tởng cách mạng, những bài học kinh nghiệm quý
báu đà trở thành những nhân tố hội tụ mọi tiềm năng sức
mạnh để văn học về đề tài chiến tranh nói chung chuyện
ngắn nói riêng đi đến vinh quang. Những tác phẩm ra đời
trong truyến đầu máu lửa đà thể hiện đợc kịp thời nhanh
nhạy cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân miền Nam
anh dũng (Rừng Xà Nu Nguyễn Trung Thành, Đất Anh
Đức) Từ quan niệm con ngời quần chúng trong truyện ngắn
thời kháng chiến chống Pháp, với những hình tợng tập thể
còn khá mới mẻ đơn xơ, đến thời kháng chiến chống Mĩ
nhận thức về con ngời đà đạt tới chiều sâu mới. Nhà văn đÃ
chú ý khắc hoạ những gơng mặt, những chân dung cụ thể
mang dấu ấn, tầm vóc và t tởng của thời đại. Con ngời sử thi
trong truyện ngắn chống Mĩ với hai phơng diện nỗi bật là
chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn (Những đứa con

trong gia đình - Nguyễn Thi, Hai Đởm Chu Lai, Mảnh trăng
cuối rừng - Nguyễn Minh Châu, Bức th làng Mực Nguyễn
Chí Trung, Rõng xµ Nu - Ngun Trung Thµnh….)


20
Có nhiều ý kiến phủ nhận nền văn học giai đoạn 19451975 coi đó là khúc gảy là sự gián đoạn trong tiến trình
hiện đại hóa văn học dấy lên từ đầu thế kỷ. Nhng muốn
đánh giá đúng văn học giai đoạn này thì phải đặt nó trong
bối cảnh lịch sư ®· sinh ra nã. Con ngêi trong chiÕn tranh có
những tính cách, suy nghĩ và tập quán riêng không giống với
con ngời trong văn học giai đoạn trớc hay sau nó. Suy cho cùng
bất kỳ một nền văn học chân chính cũng gắn với thời đại
của mình, với đông đảo quần chúng của thời đại ấy. Văn học
giai đoạn 1945-1975 đà xác định ngay từ đầu hớng đi cho
mình là phục vụ kháng chiến phục vụ kháng chiến, phục vụ
cách mạng, tự nguyện trở thành vũ khí đắc lực trong sự
nghiệp giải phóng và xây dựng đất nớc. Chính vì vậy nó đÃ
làm tròn nhiệm vụ lịch sử xà hội của mình. Tố Hữu đà từng
khẳng định Thớc đo của một nền văn học là nó phục vụ đợc bao nhiêu cho phong chào cách mạng. Bao trùm lên toàn bộ
văn học 30 năm chiến tranh là cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa
anh hùng cách mạng nó tái hiện lại những năm tháng hào hùng
của dân tộc một cách sống động qua những biến cố những
sự kiện lịch sử nổi bật. Không có lòng yêu nớc tha thiết,
không có niềm tin tuyệt đối vào chiến thắng thì làm sao
chúng ta có tinh thần để có thể vợt qua đợc muôn vàn khó
khăn gian khổ, đánh đuổi đợc kẻ thù lớn mạnh hơn gấp nhiều
lần.
Thành tựu của thể loại truyện ngắn 1945-1975 đợc
đánh dấu bằng bề dày của những tác phẩm xét trên cả hai

phơng diện số lợng và chất lợng. Một khối lợng tác phẩm đồ sộ


21
cha từng thấy trong lịch sử văn học dân tộc viết về chiến
tranh.
Nền văn học mới ra đời trong hoàn cảnh hết sức đặc
biệt, gắn liền với những biến cố lớn lao của lịch sử. Trong
điều kiện chiến tranh gian khổ và khắc nghiệt bản thân
nó cũng phải tự vật lộn với bao nhiêu khó khăn để khẳng
định mình và trở thành một trong những nền văn học tiên
phong trong công cuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc. Tuy
nhiên Truyện ngắn giai đoạn 1945-1975 cũng không có
những phần non yếu, sơ lợc công thức. Chúng ta mới chỉ nói
nhiều đến những chiến công, chiến thắng đến vẻ đẹp
toàn bích của con ngời trong kháng chiến mà cha đi sâu
vào số phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân của con ngời. Hạn
chế của văn học gia đoạn này một phần là do lịch sử, trình
độ nhận thức của thời đại và cũng do nhiêu nguyên nhân
chủ qua từ phía quản lý lÃnh đạo và hạn chế cả trong công
tác lí luận phê bình và tài năng của ngời sáng tác.
1.2.2. Giai đoạn 1975 đến nay
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đất níc thu vỊ mét mèi
nhng cc sèng thêi hËu chiÕn không hề đơn giản xuôi
chiều mà xô bồ phức tạp hơn nhiều so với những năm tháng
chiến tranh. Đặc biệt là những hậu của nó vẫn đè nặng lên
mỗi cuộc đời con ngời, là những tấn bi kịch vẫn cha có hồi
kết. Nhà văn Nguyễn Khải đà từng nói: Chiến tranh ồn ào
náo động nhng lại có cái yên tĩnh của nó. Hòa bình yên tĩnh
nhng lại chất chứa bao nhiªu sãng giã ë bªn trong”. Trong

chiÕn tranh tÊt yÕu phải có những tác phẩm mang cảm hứng
ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, những tấm gơng chiến đấu hy


22
sinh anh dũng để cổ vũ động viên tinh thần chiến đấu của
toàn dân, toàn quân ta. Khi chiến tranh kết thúc, hiện thực
đa dạng phức tạp của cuộc sống trở thành đối tợng phản ánh
mới của văn học. Với độ lùi thời gian cần thiết nhà văn có cơ
hội để đánh giá lại cuộc chiến với cái nhìn khách quan, trung
thùc. Cuéc sèng thêi hËu chiÕn kh«ng chØ cã vinh quang của
ngời chiến thắng mà hơn hết nó còn là nỗi đau không gì bù
đắp đợc của những con ngời từng đi qua chiến tranh. Nếu
nh truyện ngắn giai đoạn 1945-1975 thờng khái quát hiện
thực ở tầm vĩ mô, thờng sử dụng nhiều tình tiết biến cố
để nói về cuộc chiến, về những trận đánh hay về tấm gơng chiến sĩ anh hùng thì truyện ngắn sau 1975 phản ¸nh
hiƯn thùc cđa chiÕn tranh qua nh÷ng sè phËn, nh÷ng bi kịch
bất hạnh của mỗi con ngời. Để có đợc chiến thắng ngày hôm
nay biết bao nhiêu máu và nớc mắt đà đổ xuống, biết bao
nhiêu gia đình phải chịu cảnh sinh li tử biệt. Hiện thực
không còn đơn giản xuôi chiều và có thể đoán trớc đợc mà
nó chứa đầy những yếu tố ngẫu nhiên, phi lí, bất ngờ ở đó
cái tốt lẫn với cái xấu cái cao cả lẫn với cái thấp hèn. Truyện
ngắn hôm nay viết về chiến tranh nh nó đà từng xảy ra.
Không phải văn häc cđa chóng ta b©y giê míi viÕt vỊ
chiÕn tranh. Văn học viết về đề tài chiến tranh đà tồn t¹i
suèt mêi thÕ kû qua nhng thùc chÊt suèt mêi thế kỷ qua là
nền văn học khẳng định cuộc chiến tranh vệ quốc chính
nghĩa của dân tộc, ca ngợi chiến thắng và các chiến công
anh hùng. Nhng nó mới chỉ dừng lại ở việc mô tả cái nền mà

trên đó con ngời bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của chđ
nghÜa anh hïng. Nhng hiƯn thùc chiÕn tranh lµ sù d· man,


23
tàn khốc với tính chất tàn bạo vô nhân tính thì cha trở
thành đối tợng nhận thức của văn học. MÃi đến sau này khi
hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ qua đi ngời ta
mới nhìn nhận đánh giá về hiện thực bất thờng của chiến
tranh và những tác động to lớn của nó đến đời sống xà hội
và con ngời.
Có thể nói, truyện ngắn từ sau 1975 đến nay đợc đánh dấu
bằng hai mốc thời gian. Bắt đầu từ 1975 đến 1980 tryện
ngắn vẫn trợt theo một quán tính nghiêng về sự kiện vè
bao quát hiện thực trong bình diện rộng, cảm hứng sử thi
vẫn chiến một vị trí quan trọng trong t duy nghệ thuật.
Truyện ngắn giai đoạn này chủ yếu vẫn nghiên về đề tài
truyền thèng nhng ®· cã dÊu hiƯu ®ỉi míi vỊ hiƯn thực và
con ngời so với truyện ngắn thời kỳ trớc. Truyện ngắn hai ngời trở lại trung đoàn 1975 của Thái Bá Lợi (1975), Bức tranh
của Nguyễn Minh Châu () đợc coi là những tác phẩm mở
đầu trong công cuộc đổi mới văn học
Sau năm 1980 trở đi thì truyện ngắn mới trợt khỏi quán
tính mở đầu cho một thời kỳ phát rực rỡ của truyện ngắn
về đề tài chiến tranh. Nhờ vào chủ chơng đờng lối đúng
đắn của Đảng và nhà nớc đặc biệt là sự dân chủ hoá trong
sáng tác mà trong văn học hôm nay đà có những thành tựu
đáng kể. Văn xuôi nói chung đà chuyển dÇn tõ t duy sư thi
sang t duy tiĨu thut. Vấn đề cách mạng và chủ nghĩa xÃ
hội không còn đợc chú trọng nh trớc thay và đó là mảng hiện
thực trớc đây hầu nh bị bỏ quên: đó chính là vấn đề đời t

thế sự. Từ những vấn đề lớn lao của đất nớc cho đến những
vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống đời thờng đều đợc nhà văn


24
quan tâm ở nhiều bình diện khác nhau. Nếu nh trớc đây
nhà văn quan tâm nhiều tới đời sống cộng đồng, vận mệnh
của dân tộc thì trong truyện ngắn hôm nay lại quan tâm tới
số phận cá nhân của mỗi con ngời. Viết về đề tài chiến
tranh và ngời lính truyện ngắn sau 1975 tập trung khai thác
mặt trái của chiến tranh, đặt ra những vấn đề nhức nhối
có sức ám ảnh nghê gớm đối với con ngời. Đó là những vấn đề
về số phận con ngời trong chiến tranh và trong thời hậu
chiến, vấn đề nhân cách và nhân tính của con ngời.
Hiện thực cuộc sống luôn là đối tợng khám phá của văn
học, ở mỗi gia đoạn khác nhau của lịch sử nhà văn có quan
niệm khác nhau về hiện thực. Trong văn học bao giờ cũng
thể hiện mối quan hệ giữa hiện thực khách quan và ý thức
chủ quan, nó là sự nhào nặn những chất liệu cuộc sống qua
thế giới chủ quan của nhà văn. Trong truyện ngắn 1945-1975
thờng là hiện thực cần có chứ không phải là hiện thực đang
tồn tại, vì vậy dù trong ma bom bÃo đạn đói khát bệnh tật
cũng không làm tổn hại gì đến con ngời (Mảnh trăng cuối
rừng - Nguyễn Minh Châu, Hoa rừng - DơngThị Xuân Quý Những Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê, Một ngày
không bình thờng - Phạm Hoa, Những vẻ đẹp khác nhau Xuân Cang... ) hoặc nếu có hi sinh mất mất thì càng làm tô
đậm thêm cái cao cả vĩ đại của ngời lính và sự vĩ đại của
chiến thắng (Ráng đỏ - Đỗ Chu, Một đoạn đờng chiến tranh
- Cao Duy Thinh, Anh Hai §ëm - Chu Lai). Trun ngắn hôm
nay có sự mở rộng về dung lợng hiện thực có những miền
hiện thực mới đợc xuất hiện có những mảng hiện thực trớc

đây cha có hoặc bị né tránh. Đó chính là sự khốc liệt của


25
chiến tranh, con ngời thờng xuyên phải đối mặt với bom đạn,
chết chóc với rừng thiêng nớc độc ở đó sự sống và cái chết
chỉ cách nhau trong gang tấc (Máu của lá - Võ Thị Hảo,
Chiều vô danh - Hoàng dân Thung lũng hoa vàng Huỳnh
Thạch Thảo...) Trong chiÕn tranh sè phËn con ngêi thËt nhá
bÐ c¸i chÕt có thể ập đến bất cứ lúc nào nhanh chóng và
tàn khốc. Trong truyện ngắn Máu của lá - Võ Thị Hảo, Hoàng
và Tuân đang đi trong một khu rừng yên tĩnh, tởng rằng
chẳng có một mối nguy hiểm nào thị bục một viên đạn lạc
phút chốc đà lấy đi mạng sống của Tuân. Cái chết đến với
con ngời thật bất ngờ không đợc dự báo trớc Sự ra đi của
Thanh (Đốm lửa- Nguyễn Minh Thuý) cũng vậy. Ngọc và Mĩ
chờ anh ở điểm hẹn mÃi mà không thấy thì ra Thanh đà hy
sinh từ lúc nào không biết, sáng hôm sau hai ngời mới phát
hiện ra xác Thanh bị ép ngay sát bờ. Lan (Một đêm cả đời
ngời) do đang bị kinh nguyệt lại ngâm mình trong nớc lạnh
quá lâu, cuối cùng chết chết cứng trong t thế đang đẩy
thuyền đi. Đài trở xác bạn trên thuyền và kéo theo một xác
chết không rõ danh tính không biết đà chết từ lúc nào dới
dòng sông. Qua những truyện ngắn về đề tài chiến tranh
sau giải phóng, chúng ta nhận thÊy mét thùc tÕ lµ sinh mƯnh
con ngêi thËt nhá nhoi trong lửa đạn của chiến tranh. Trong
cuộc chiến tàn khốc đó con ngời bị đẩy và những trận
đánh, vào những hoàn cảnh bất khả kháng, ranh giới mong
manh giữa sự sống và cái chết chỉ là trong gang tấc. Chiến
thắng có đợc không chỉ toàn vinh quang mà nó còn là máu

và nớc mắt của biết bao con ngời.


×