Tải bản đầy đủ (.doc) (160 trang)

LUAN VAN hoan chinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.41 KB, 160 trang )

1
Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn lớn của
nền văn học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Là một cây
bút trẻ, sung sức, trởng thành trong kháng chiến chống Mĩ và
phát triển trong thời kỳ đổi mới. Hành trình sáng tạo nghệ
thuật của ông đợc chia thành hai giai đoạn trớc và sau 1975. ở
giai đoạn sáng tác nào cũng thể hiện ông là cây bút đầy tài
năng, tâm huyết, luôn trăn trở trong lao động và sáng tạo
nghệ thuật. Những tác phẩm của ông là một chỉnh thể nghệ
thuật thống nhất của một quá trình liên tục đổi mới thể hiện ở
khả năng tự vợt mình để hớng tới sự sâu sắc và hoàn thiện.
1.2. Sau chiến tranh, đất nớc bớc vào thời kỳ mới. Nền văn
học nớc nhà lại đứng trớc muôn vàn những khó khăn và thách
thức của thời kỳ hậu chiến. Đời sống mới đòi hỏi phải có một
nền văn học mới, đó là một nền văn học vì cuộc sống con ngời. Nền văn học sử thi trớc 1975 đến giai đoạn này bắt đầu
bộc lộ những điểm yếu, không đủ sức chuyển tải những vấn
đề bức xúc sau chiến tranh. Nhận thấy đợc điều đó, Nguyễn
Minh Châu đà âm thầm tự tìm hớng đi mới, tự đổi mới chính
mình trên trang viết để tìm lại cội nguồn đích thực cho một
nền văn học vì con ngời.
1.3. So với các nhà văn trong bớc đầu đổi mới, Nguyễn Minh
Châu là ngời đi tiên phong không phải bằng những tuyên ngôn
ồn ào mà bằng những tác phẩm có giá trị, đặt ra nhiều vấn
đề cốt tử cho sự phát triển văn học. Giai đoạn trớc 1975,
Nguyễn Minh Châu đà khẳng định đợc vị trí xứng đáng của
mình trong nền văn xuôi chống Mỹ. Nhng sự nghiệp sáng tác
của ông nếu nói là đạt đợc những thành công lớn trên bớc đờng
nghệ thuật, thì phải kể đến những sáng tác sau 1975. Đó là



2
những bớc tiến về t duy nghệ thuật, giúp ông trở thành một
cây bút tiên phong mở đờng "tinh anh và tài năng" cho một
thời đại văn học mới. Chính vì vậy, các sáng tác sau 1975 của
Nguyễn Minh Châu luôn đòi hỏi những nhà nghiên cứu không
ngừng khám phá, vừa để khẳng định vị thế của nhà văn trên
văn đàn, vừa để góp phần khẳng định những thành tựu mà
văn học Việt Nam đà đạt đợc trong quá trình chuyển mình và
đổi mới.
1.4. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nói chung, truyện
ngắn sau 1975 nói riêng đà đợc đa vào chơng trình môn văn
từ bậc phổ thông đến bậc đại học. Vì vậy, tìm hiểu đề tài
"Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau
1975" sẽ góp phần thiết thực cho việc nghiên cứu và giảng dạy
tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thêm sâu sắc và có chất lợng hơn.
2. Lịch sử vấn đề
"Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của
sáng tạo nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng,
thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xà hội
riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng,... chỉ xuất
hiện một cách ớc lệ trong sáng tạo nghệ thuật. Mỗi thế giới nghệ
thuật có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới.
Sự hiện diện của thế giới nghệ thuật không cho phép đánh giá
và lí giải tác phẩm văn học theo lối đối chiều giản đơn giữa
các yếu tố hình tợng với các sự thực đời sống riêng lẻ, mà phải
đánh giá trong chỉnh thể tác phẩm"[28, tr.302].
Tiến hành nghiên cứu Thế giới nghệ thuật truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975 chính là khám phá sự thống
nhất, toàn vẹn mà các truyện ngắn sau 1975 của ông đà tạo

ra. Qua đó chúng ta nhận ra sự xuyên suốt của một cái nhìn


3
về con ngời và cuộc sống cũng nh những phơng diƯn chÝnh
u vỊ t duy nghƯ tht cđa Ngun Minh Châu.
Từ sau 1975, văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng
đà có sự chuyển biến về mọi mặt. Trong tiến trình vận động
ấy, nhiều nhà văn đà khẳng định đợc tên tuổi và vị trí của
mình trên văn đàn. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn nh
thế. Tác phẩm của ông ngay từ khi xuất hiện đà đợc công
chúng hào hứng đón nhận. ĐÃ có rất nhiều công trình khoa
học, những bài viết đăng trên các báo, tạp chí và các cuộc hội
thảo về Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn sau 1975 của
ông. Ngoài số lợng lớn các bài viết đề cập đến con ngời,
nghiệp viết, những kỷ niệm, hồi ức những ngày ông còn sống,
những nỗi niềm tiếc thơng, những cuộc trò chuyện trực tiếp
của học giả với nhà văn,.. trong phạm vi khảo sát liên quan đến
đề tài chúng tôi chỉ nhắc đến những bài nghiên cứu theo hai
xu hớng: Các bài viết, công trình khoa học, cuộc hội thảo đề
cập đến những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu. Và các bài nghiên cứu một số phơng diện nghệ thuật
truyện ngắn sau 1975 của ông.
Xu hớng thứ nhất: Các bài viết, bài nghiên cứu, cuộc hội
thảo đề cập đến những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn
Minh Ch©u sau 1975.
Sau khi tiĨu ln ViÕt vỊ chiÕn tranh đợc đăng trên Tạp
chí Văn nghệ quân đội số 11 1978, với sự đổi mới t duy
nghệ thuật đợc thể hiện qua các sáng tác từ Bức tranh, Ngời
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra, d luận bạn

đọc đà có những ý kiến khác nhau mà "cuộc trao đổi về
truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu"
do tuần báo Văn nghệ tổ chức vào tháng 6 1985 đà thể hiện
tơng đối đầy đủ. Điều nổi lên ở cuộc hội thảo này là sự khác
nhau giữa hai luồng ý kiến:


4
Thứ nhất, là các ý kiến đánh giá cao sự tìm tòi, đổi mới
của Nguyễn Minh Châu. Nhà văn Lê Lựu khẳng định: Nguyễn
Minh Châu "nhìn đâu cũng ra truyện ngắn". Chỉ với "những
cái tởng nh bình thờng, lặt vặt trong đời sống hàng ngày, dới
con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành
những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý" (Tô Hoài). Ông là
nhà văn mà "cái đa giọng điệu, đa thanh của cuộc đời đà đi
vào tác phẩm", và do nhận thức "cái quyết định không phải là
đề tài" nên "Nguyễn Minh Châu dần dần tạo ra thế giới nghệ
thuật cho riêng mình" (Phong Lê). Với "đối tợng mới", "văn phong
Nguyễn Minh Châu nh "hoạt" hẳn lên" "tỏ rõ thêm một khía
cạnh trong tài năng của mình", một sự "thật hết mình trong
lao động nghệ thuật" (Lê Thành Nghị). Những ý kiến trên
đây tơng đối tập trung tiêu biểu cho thái độ và cách đánh
giá khác nhau buổi đầu với sự tìm tòi đổi mới Nguyễn Minh
Châu.
Thứ hai, là một số ý kiến tỏ ra nghi ngại, dè dặt về hớng
tìm tòi đổi mới của ông. Bùi Hiển cho rằng, sự tìm tòi của ông
đà đợc đẩy "theo một hớng có vẻ phức tạp hơn nhng cha chắc
đà là sâu sắc hơn". Vì thế, trong tác phẩm "cái niềm tin ấy
phần nào nh bị hẫng hụt, đồng thời hình tợng quả có kém đi
vẻ chân thực sinh động và sức mạnh thuyết phục". Hoặc "do

có điều gì bối rối trớc hiện thực xà hội diễn biến phức tạp" nên
"ngời đọc rất khó nắm bắt chủ đề của thiên truyện" (Xuân
Thiều). "Một số nhân vật đợc xây dng có tính chất khiên cỡng", "độc đáo nhng hơi cá biệt", "cảm hứng của tác giả hơi
gán ghép" (Phan Cự Đệ). Có ý kiến cho rằng các truyện ngắn
của ông "bị rối, hơi có phần khó hiểu" (Vũ Tú Nam, Đào Vũ),
"nghiêng về những nhân vật dị thờng" (Nguyễn Kiên). Điều
đáng chú ý là ở ngay trong các ý kiến xem ra còn nghi ngại, dè
dặt này, hầu nh ai cũng đều thừa nhận nét míi cđa «ng kh«ng


5
chỉ so với mọi ngời mà còn so với chính ông trong thời kỳ trớc
đó.
Tiếp tục khẳng định những đổi mới của truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975, LÃ Nguyên trong bài "Nguyễn
Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới t duy nghệ thuật",
Tạp chí Văn học, số 2 1989 đà nhận thấy: "Khi truyện ngắn
Bức tranh vừa xuất hiện, giới phê bình đà nhận thấy bớc ngoặt
tất yếu sẽ xảy ra trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh
Châu. Quả thế, liền sau Bức tranh, Nguyễn Minh Châu liên
tiếp cho ra đời hàng loạt tác phẩm làm xôn xao d luận. Công
chúng bỗng nhận ra một Nguyễn Minh Châu mới, khác xa với
Nguyễn Minh Châu thời Dấu chân ngời lính. Vậy là cùng với
một vài cây bút khác, Nguyễn Minh Châu đà lặng lẽ mày mò,
tự đổi mới trớc khi làn sóng mới đang dâng lên mạnh mẽ trong
đời sống tinh thần dân tộc [60, tr.157].
Nguyễn Văn Hạnh trong bài "Nguyễn Minh Châu những
năm 80 của sự đổi mới cách nhìn về con ngời", Tạp chí Văn
học, số 3 1993, đà khẳng định: "Cuộc đời Nguyễn Minh
Châu là một tấm gơng lao động sáng tạo và đầy trách nhiệm

cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng ta trân trọng di sản văn học
của anh, đặc biệt đánh giá cao phần đóng góp của anh vào
bớc ngoặt quyết định của văn học trong thời kỳ đổi mới" [27,
tr.181].
Mai Hơng trong bài "Nguyễn Minh Châu và di sản văn học
của ông", Tạp chí Văn học, số 1 2001 đà khẳng định:
"Nguyễn Minh Châu là cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi
chống Mỹ, đồng thời là ngời mở đờng tinh anh và tài năng, ngời đi đợc xa nhất trong cao trào đổi mới văn học đơng đại
[37, tr.138].
Trong bài "Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975", trích trong cuốn Nguyễn Minh


6
Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2004,
Nguyễn Tri Nguyên đà nhận định: "Cùng với nhiều nhà văn cùng
thế hệ trẻ hoặc trẻ hơn, Nguyễn Minh Châu đà góp phần đổi
mới nền văn học nớc nhà sau 1975, từ nền văn học đơn thanh
điệu trong thi pháp thể hiện sang một nền văn học đa thanh
điệu, phức điệu trong thi pháp. Đó chính là kết quả của sự
nghiệp đổi mới của đất nớc, của nhân dân, dới sự lÃnh đạo
của đảng ta. Nền văn học đó ngày càng hiện thực hơn, nhân
đạo hơn và dân chủ hơn và vì thế có sức thuyết phục hơn"
[31, tr.246].
Cùng chung với xu hớng nghiên cứu trên, trong công trình
Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học sau 1975,
Nxb Đại Học S Phạm Hà Nội, 2007, Nguyễn Văn Long Trịnh Thu
Tuyết nhận xét: "Trong xu hớng vận động chung của văn xuôi
Việt Nam những năm sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu thực
sự trở thành một trong những ngời mở đờng xuất sắc bởi sự

đổi mới điềm đạm nhng toàn diện, sâu sắc trong cả t tởng
nghệ thuật lẫn sáng tác văn chơng" [51, tr.66-67].
Xu hớng thứ hai: Các bài viết, công trình khoa học nghiên
cứu phong cách Nguyễn Minh Châu và một số phơng diện
nghệ thuật truyện ngắn sau 1975 của ông.
Theo xu hớng này, tác giả Nguyễn Thị Minh Thái trong bài
"ấn tợng về nhân vật nữ của Nguyễn Minh Châu", Tạp chí Văn
học, số 3 – 1985, nhËn thÊy: "chØ b»ng mét chïm truyÖn ngắn
mới nhất trong tập Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành này,
với những nhân vật nữ đáng yêu: cô thiếu nữ Phi trong Mùa hè
nắng ấy, Hạnh trong Bên đờng chiến tranh, ngời mẹ và con gái
trong Mẹ con chị Hằng, kể cả cô Thoan trong Đứa ăn cắp,...
cũng thấy rằng Nguyễn Minh Châu có một cái nhìn ấm áp,
nhân hậu, luôn chăm chú phát hiện ra vẻ đẹp cđa ngêi phơ n÷
ViƯt Nam tõ nhiỊu chiỊu, nhiỊu híng, nhiỊu phÝa kh¸c nhau.


7
Trong cả bối cảnh chiến tranh lẫn bối cảnh đời thờng, nhân
vật ấy đều đẹp. Mỗi nhân vật là một phát hiện mới về hình
tợng ngời phụ nữ trong văn xuôi hiện đại [70, tr.289].
Trong bài "Bến quê một phong cách trần thuật giàu chất
triết lý", Báo Văn nghệ, số 8 1987, Trần Đình Sử đà khẳng
định: "đặc sắc của tập Bến quê, chủ yếu là sự thể nghiệm
một hớng trần thuật có chiều sâu... hớng sáng tác của anh rất
có triển vọng. Chắc rằng anh sẽ còn đóng góp nhiều hơn nữa
cho quá trình văn học hiện nay" [66].
Tập trung nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu, tác giả Tôn Phơng Lan với công trình nổi bật Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu sự hình thành và

những đặc trng, Nxb Khoa học xà hội, 1999, đà đi vào tìm
hiểu quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và sự
triển khai quan điểm ấy vào văn bản tác phẩm. Quá trình
nghiên cứu toàn bộ sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở cả hai
giai đoạn, tác giả công trình đà nhận thấy: "phong cách nghệ
thuật Nguyễn Minh Châu chỉ thực sự đợc hình thành vào
đầu những năm 80, cho đến thời điểm ông mất dăm ba năm,
với sự thăng hoa của ngòi bút, phong cách đó mới phát triển và
đang dần đến độ chín" [44, tr.27].
Trịnh Thu Tuyết trong bài "Nguyễn Minh Châu với nghệ
thuật xây dựng nhân vật truyện ngắn", trích trong cuốn
Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội, 2004, đà có nhận xét: "khảo sát hệ thống nhân vật trong
những truyện ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu, có
thể thấy ông đà có những thay đổi căn bản trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật. Từ vai trò của những khách thể với tính
cách định hình trong các sáng tác trớc năm 1975, nhân vật
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu đợc miêu tả nh
những "chủ thể tự nó" với những bí ẩn khôn lờng, những diễn


8
biến phức tạp của quá trình vận động tâm lý, tính cách,...Với
sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngời, Nguyễn Minh
Châu đà đến với nhân vật từ góc độ tiếp cận nhân bản, và
sau một chặng đờng lao động nghệ thuật vất vả, nghiêm túc,
từ Bức tranh đến Phiên chợ Giát, ông đà thu đợc những thành
công nhất định" [31, tr.247].
Nhận xét về không gian nghệ thuật, Lê Văn Tùng trong bài
"không gian Bến quê và một sự nhận thức đau đớn sáng ngời

của con ngời", trích trong cuốn Nguyễn Minh Châu về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2004, đà nhận định: "yếu
tố thi pháp nổi nhất của truyện này là không gian nghệ thuật.
Nguyễn Minh Châu tập trung khai thác nó nh một hình thức
của quan niệm, của t tởng. Các yếu tố kh¸c cđa t¸c phÈm nh
thêi gian nghƯ tht, hƯ thèng nhân vật, chi tiết nghệ thuật,...
là các yếu tố cộng hởng tạo một không gian độc đáo gắn liền
với vận mệnh tinh thần văn hóa của nhân vật chính: anh Nhĩ"
[31, tr.194].
Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài "vấn đề tình huống
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu", trích trong cuốn
Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội, 2004, đà có sự so sánh giữa hai tác giả Nguyễn Minh Châu
và Nguyễn Huy Thiệp trong vấn đề tạo dựng tình huống:
"khác với Nguyễn Huy Thiệp thờng tạo ra tính bất ngờ cho tình
huống (ví dụ: Sang sông), thì Nguyễn Minh Châu trái lại, cố
gắng tạo tính chất tự nhiên cho tình huống. Vì thế truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu nh một "mũi khoan" ngày càng xoáy
sâu vào ngời đọc, càng về cuối càng tập trung. Tình huống
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mang "sức nổ" còn
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là "sức xoáy" [31, tr.314].
Qua khảo sát một số bài viết và ý kiến đánh giá của các
tác giả nêu trên, nhìn chung các bài viết đà đánh giá đúng tài


9
năng của Nguyễn Minh Châu và nghệ thuật truyện ngắn của
ông. Nhng tình hình trên cũng cho thấy, các bài viết dờng nh
chỉ tập trung vào một hoặc một vài phơng diện nghệ thuật
nào đó của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Cho đến nay,

vẫn cha có một công trình nào đặt vẫn đề thế giới nghệ
thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nh một đối tợng nghiên
cứu chỉnh thể, chuyên biệt. Nhận thấy đây vẫn còn là một
khoảng trống đà củng cố thêm nhiệt tình cho chúng tôi đến
với đề tài này, với mong muốn có đợc một cái nhìn tơng ®èi
toµn vĐn, chØnh thĨ vỊ thÕ giíi nghƯ tht trun ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975. Trên cơ sở tiếp thu những
thành quả nghiên cứu của những ngời đi trớc, chúng tôi sẽ cố
gắng nhận diện những giá trị và đặc ®iĨm chđ u cđa thÕ
giíi nghƯ tht trun ng¾n Ngun Minh Châu sau 1975 một
cách chỉnh thể, toàn vẹn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đặt truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong bối cảnh
chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1975, để từ đó thấy đợc vai trò, vị trí và những đóng góp của truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu sau 1975 trong tiến trình đổi mới văn học sau
1975.
3.2. Khảo sát, phân tích đặc điểm thế giới nghệ thuật
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 trên các phơng diện: Nhân vật, Không gian, Thời gian nghệ thuật.
3.3. Nhận diện, tìm hiểu những đặc điểm thi pháp của
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở các phơng diện:
cốt truyện, tình huống và nghệ thuật trần thuật.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu


10
Đúng nh tên gọi, Đối tợng nghiên cứu của luận văn là Thế
giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau
1975.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Do mục đích nghiên cứu quy định, đề tài tập trung
khảo sát toàn bộ truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 đợc in trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb
Văn học, Hà Nội, 2006. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi có
đối chiều thêm một số truyện ngắn và tiểu thuyết trớc 1975
của Nguyễn Minh Châu để từ đó thấy đợc quá trình vận
động và đổi mới t duy nghệ thuật của ông.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ thuật
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, chúng tôi vận
dụng một số phơng pháp nghiên cứu sau:
- Phơng pháp tiếp cận, hệ thống.
- Phơng pháp phân tích, tổng hợp.
- Phơng pháp so sánh, đối chiếu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận
văn đợc triển khai trong 3 chơng:
Chơng1: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong bối cảnh
truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Chơng 2: Nhân vật, Không gian, Thời gian nghệ thuật
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
Chơng 3: Cốt truyện, tình huống và nghệ thuật trần thuật
truyện ngắn Nguyễn Minh Ch©u sau 1975


11

Chơng 1
TRUYệN NGắN NGUYễN MINH CHÂU TRONG
BốI CảNH TRUYệN NGắN VIệT NAM SAU 1975
1.1. Bối cảnh lịch sử xà hội Việt Nam sau 1975

Ba mơi năm, cuộc kháng chiến trờng kỳ của dân tộc Việt
Nam đà kết thúc bằng một mốc sơn chói lọi, đại thắng mùa
xuân năm 1975. Sự kiện lịch sử trọng đại này đà mở ra một kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xÃ
hội. Chiến thắng đà có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ đất nớc của toàn dân tộc. Tuy nhiên, với một đất
nớc nhỏ bé đà anh dũng giành đợc thắng lợi qua hai cuộc kháng
chiến chống đế quốc. Chúng ta đà phải dồn hết tất cả cho
cuộc kháng chiến. Việc xây dựng chủ nghĩa xà hội trong
những năm đầu hoà bình không phải dễ dàng gì. Nhất là với
một đất nớc vừa bớc ra khỏi chiến tranh với bao thơng tích
nặng nề. Đó không những thiệt hại về vật chất mà còn hao
tổn lớn về sức ngời, khó có thể bù đắp đợc trong một thời gian
ngắn. Con đờng chúng ta đi không phải là con đờng bằng
phẳng mà chông gai, gập ghềnh, trải qua không ít những khó
khăn, "vấp váp và trả giá" (Nguyên Ngọc). Khi vết thơng chiến
tranh còn cha lành, chúng ta lại phải gồng mình bớc vào cuộc
kiến thiết thời hậu chiến với muôn vàn khó khăn và thử thách.
Nền kinh tế sau chiến tranh bị khủng hoảng trầm trọng. Các
mặt phải, mặt trái, cái phi đạo đức, phi nhân cách hàng ngày
vẫn len lỏi trong tất cả mọi ngõ ngách của đời sống. Mâu


12
thuẫn giai cấp, các tầng lớp xà hội ngày càng nổi rõ khó bề đợc
giải quyết. Tâm lý con ngời hoang mang lo lắng khi đối diện
với những biến động và khủng hoảng xà hội. Đó là môi trờng
thích hợp cho những tiêu cực có thể xảy đến bất cứ lúc nào.
Đối với đất nớc là "ngổn ngang bao vấn đề, xoá bỏ khoảng cách
còn lại, từ t tởng, lối sống và chính kiến, khắc phục tàn d lối

sống cũ, hàn gắn vết thơng chiến tranh và bớc vào xây dựng
đời sống mới". Song "cái mảnh đất bao lớp ngời liên tiếp đổ xơng máu giành đợc độc lập, xa nay đất dới chân ngời thắng
giặc có bao giờ nở sẵn đầy hoa" (Nguyễn Minh Châu). Khó
khăn lớn của một đất nớc vừa mới đợc giải phóng nh là một lêi
th¸ch thøc, "nh mét thø chiÕn trêng míi, lËp tøc mở ra trên vùng
chiến trờng cũ", đòi hỏi con ngời phải đầy đủ nghị lực và trí
tuệ mới vợt qua đợc. Đúng nh Nguyễn Minh Châu đà từng đề
cập đến trong tiĨu thut MiỊn ch¸y "Bíc ra khái cc chiÕn
tranh cũng cần phải có đầy đủ nghị lực nh bớc vµo mét cc
chiÕn tranh" [35, tr.881].
Sau 1975 cịng lµ giai đoạn mà những d âm của cái cao
cả, của anh hùng ca và cái ta cộng đồng bắt đầu bộc lộ những
bất ổn và đổi thay. Nếu trớc chiến tranh, mọi quan hệ của con
ngời đều đợc đặt trong mối quan hệ cao nhất đó là tình yêu
tổ quốc, thì sau chiến tranh con ngời phải đối diện với những
mối quan hệ xà hội phức tạp. Nguyễn Minh Châu đà tõng nãi
"cuéc ®êi ®a sù, con ngêi ®a ®oan". Con ngêi trong cuéc sèng
hä nhá bÐ, bon chen, ganh ®ua, chà đạp lẫn nhau,"sống ích
kỷ và nhỏ nhen chỉ biết quyền lợi cho riêng mình". Bên cạnh
đó, mối quan hệ của con ngời đều bị cân, đong, đo, đếm
bởi các nhu cÇu vỊ vËt chÊt.
NÕu trong chiÕn tranh con ngêi luôn đối diện với bom đạn,
luôn phải phấp phỏng trong mỏng manh của sự sống và cái chết,
giữa anh dũng và hèn nhát, thì trong thời bình, dù không còn c¸i


13
¸c liƯt cđa chiÕn tranh nhng hiƯn thùc cc sèng cũng không
đơn giản một tý nào. Vì vậy, con ngời trong xà hội luôn phải cố
tìm kiếm cho mình một điểm tựa vừa để khỏi tự đánh mất

mình, nhng mặt khác con ngời cũng bị cuốn hút bởi những
phức tạp và tiêu cực của đời thờng. Hiện thực cuộc sống sau
chiến tranh và diễn biến tâm lý phức tạp của con ngời đòi hỏi
các lĩnh vực xà hội phải có một cơ chế quản lý thích hợp. Đối với
văn học, ngời nghệ sỹ phải nhìn nhận lại mọi vấn đề đa dạng,
phức tạp của cuộc sống. Nghệ sỹ là con mắt, lỗ tai của xà hội,
bằng thực tế của đời sống văn học phải phản ánh đúng bản chất
của hiện thực, phải nói thẳng, nói thật mới mong đáp ứng nhu
cầu thẩm mỹ của ngời đọc. Bởi hơn bao giờ hết "tầm quan
trọng của thị hiếu ngời đọc là cái nôi cho tác phẩm thế này
hoặc thế khác ra đời và sống đợc" [35, tr.4]
1. 2. Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Trong điều kiện thuận lợi, đời sống xà hội bớc sang "một
thời kỳ khác" (Nguyễn Kiên), thời kỳ mà mỗi con ngời tìm lại đợc ý nghĩa đích thực cho cuộc sống của mình. Đó là sự tự do
trong sinh hoạt, trong tất cả các mối quan hệ xà hội. Đối với văn
nghệ sỹ, văn học thời kỳ này không còn phải chuyên tâm sáng
tác vì mục đích phục vụ kháng chiến nữa mà họ đợc tự do
trong sáng tạo, tự do trong việc lựa chọn đề tài chủ đề, trong
cách viết,... Càng về sau tinh thần cởi trói cho đội ngũ sáng tác
càng đợc thể hiện một cách triệt để hơn. Đây chính là một
trong những nguyên nhân quan trọng đa đến bớc phát triển
mới cho văn học sau 1975.
Nếu trớc 1975, để tái hiện lại khung cảnh hoành tráng với
cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta, các nhà văn thờng
tìm đến với những tiểu thuyết. Bởi nó là một thể loại tự sự cỡ
lớn, có khả năng ôm trùm nhiều sự kiện, chi tiết. Với những cuốn
tiểu thuyết dài nh Cửa Sông (1966), DÊu ch©n Ngêi LÝnh


14

(1972), của Nguyễn Minh Châu có thể dễ dàng miêu tả đầy
đủ cái không khí hào hùng của dân tộc. Còn truyện ngắn nó
chỉ là một lát cắt của đời sống, khó khăn hơn cho việc dung
nạp nhiều sự kiện nhiều chi tiết. Nhng cần phải khẳng định
rằng: truyện ngắn với u thế của thế loại, "Nó tự hàm chứa
những cái thi vị, những điều sâu sắc trong một hình thức
nhỏ gọn và truyền dẫn cực nhanh thông tin mới mẻ. Đây là thể
loại văn học có nội khí, một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm
suy" [50, tr.84]. Do đó, truyện ngắn là thể loại gặt hái đợc
nhiều thành công giai đoạn này. Càng về sau truyện ngắn
càng phát triển mạnh hơn với sự xuất hiện nhiều cây bút trẻ,
bên cạnh các cây bút trởng thành trong kháng chiến nh:
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Kiên, Nguyễn Khải, Xuân Thiều...
Chỉ trong vòng mời năm đầu sau chiến tranh (1975
1985), truyện ngắn đà có những bớc đi mới. Truyện ngắn sau
1975 đà có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lợng lẫn chất lợng với
đội ngũ sáng tác a tìm tòi và khám phá. Thời kỳ này ảnh hởng
anh hùng ca với những d âm chiến thắng vẫn còn vang vọng
trong các tác phẩm. Nhng nhìn chung truyện ngắn sau 1975
đà có sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc khai thác t tởng, chủ
đề mới và sự tìm tòi sáng tạo với phong cách thể hiện mới.
Theo con số thống kê của Bùi Việt Thắng, "các cuộc thi do
tuần báo Văn nghệ tổ chức (1978 - 1979) và (1983 - 1984), do
Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức (1982 và 1983 - 1984) đÃ
có những con số đa ra chứng minh sự nổ rộ của truyện ngắn
giai đoạn này. Hai cuộc thi tuần báo Văn nghệ, ban tổ chức
chấm giải nhận đợc 2.901 truyện ngắn dự thi, in trên báo 203
truyện. Qua cuộc thi này một loạt các cây bút trẻ mới xuất hiện
và sớm đợc khẳng định nh: Nguyễn Mạnh Tuấn, Hồ Anh Thái,
Phạm Thị Minh Th, Trần Thuỳ Mai, Nguyễn Quang Lập, Dạ

Ngân... Thế hệ các nhà văn đợc coi là già nh: Nguyễn Minh


15
Châu, Ma Văn Kháng, Xuân Thiều, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên,
Hồ Phơng, đà có đợc sự đổi mới trong sáng tác. Ngòi bút của
họ có phần linh hoạt và sắc sảo hơn trớc" [71, tr.200].
Hiện tợng đáng chú ý nhất trong mời năm này là Nguyễn
Minh Châu với hai tập truyện ngắn xuất sắc Ngời đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985). Báo Văn nghệ
đà tổ chức một cuộc hội thảo luận về truyện ngắn của ông.
Các ý kiến khen chê phong phú và trái chiều nhau nhng thống
nhất ở một điểm - khẳng định sự tìm tòi và đóng góp của
nhà văn để đổi mới văn học, để tạo ra chất lợng cao của
truyện ngắn. Giai đoạn này có những tác giả viết khỏe trong
vòng mời năm in năm tập truyện là Dơng Thu Hơng, Nguyễn
Mạnh Tuấn, Lê Minh Khuê.
Truyện ngắn ra đời đầu tiên sau 1975 là Hai ngời trở lại
trung đoàn (1976) của nhà văn Thái Bá Lợi. Truyện ngắn này đÃ
từ bỏ lối nhìn đơn giản về con ngời, tác giả đà mạnh dạn
trình bày tính cách phức tạp của con ngời đơng thời đà đợc
thử thách qua chiến tranh đang chuẩn bị hành trang cho
mình bớc vào cuộc sống đời thờng. Con ngời đợc phát hiện
trên bình diện đạo đức, đợc tìm hiểu trên tiến trình hình
thành nhân cách mới.
Sau 1975 là giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn học cách
mạng sang văn học thời kỳ hậu chiến. Do vậy, ở thời kỳ này một
số nhà văn vẫn theo đà quán tính cũ, vẫn viết về đề tài chiến
tranh và khuynh hớng sử thi vẫn nổi trội trong những năm đầu
sau chiến tranh. Mặc dù vẫn có những bớc tìm tòi phát triển

mới, song mạch cảm hứng trữ tình sử thi vẫn tiếp tục dòng
chảy mạnh mẽ cùng với xu hớng nhận thức lại chiến tranh và số
phận con ngời. Thời kỳ này vẫn có sự phát triển của một loạt trờng ca, là bản tổng kết của một thế hệ "dàn hàng ngang gánh
đất nớc trên vai", là những bài ca "thô sơ"và "hực sáng" gửi tới


16
ngày mai. Đó là các tác phẩm: Những ngời tới biển của Thanh
Thảo, Đờng tới Thành phố của Hữu Thỉnh, S đoàn của Nguyễn
Đức Mậu, Mặt trời trong lòng đất của Trần Mạnh Hảo,... ở văn
xuôi giai đoạn này, các tác phẩm viết về chiến tranh đợc nhìn
từ nhiều góc độ, có hớng tiếp cận cự ly và có cái nhìn toàn cục
về chiến tranh. Đó là các tác phẩm: Trong cơn gió lốc (Khuất
Quang Thuỵ) Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Đất Trắng
(Nguyễn Trọng Oánh) Nắng đồng bằng (Chu Lai).
Trong ý thức nghệ thuật của hầu hết các nhà văn kỳ này
vẫn còn bị chi phối âm hởng anh hùng ca cách mạng, cả ngời
viết và ngời đọc vẫn cha kịp bắt nhịp với thực tiễn xà hội. Vì
thế, đây là khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là "khoảng
chân không trong văn học". Nhng cũng chính trong những năm
này đà diễn ra sự vận động chiều sâu của đời sống văn học
với những trăn trở, vật và tìm tòi quyết liệt ở một số nhà văn
mẫn cảm với đời sống và có ý thức trách nhiệm trong lao động
nghệ thuật. Cũng từ đây với yêu cầu mới của lịch sử, khuynh hớng sử thi và cảm hứng lÃng mạn không còn phù hợp, không đáp
ứng đợc nhu cầu thẩm mỹ của ngời tiếp nhận. Do đó, văn học
cần phải có sự đổi mới, buộc nhà văn phải thay đổi cách
nhìn, thay đổi cảm quan hiện thực cũng nh t duy nghệ thuật.
Nhà văn phải viết theo những điều mắt thấy tai nghe, gắn
liền với sự công bằng trong đối xử, quan hệ giữa ngời với ngời.
Quan niệm về con ngời giai đoạn này cũng khác trớc, đợc bổ

sung toàn diện hơn, con ngời đợc nhìn nhiều chiều không
những thấy đợc những mặt tốt đẹp, mà còn thấy đợc những
nét tính cách đời thờng, trong sự đa dạng và phức tạp của nó.
Tất cả những điều đó đều đợc nhà văn truyền tải vào truyện
ngắn.
Nhìn chung trong mời năm đầu sau chiến tranh (1975 1985), truyện ngắn tập trung nghiên cứu về hiện trạng sau


17
chiến tranh, tinh thần xà hội. Đó là các hiện trạng phức tạp, đan
xen các mặt tích cực và tiêu cực, tính chất phức tạp của đời
sống xà hội, kết quả tất yếu của hậu quả tàn d chiến tranh để
lại. Thời kỳ này, "các nhà văn đà quan tâm đa ngòi bút của
mình tham qua trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái
xấu trong mỗi một con ngời - một cuộc giao tranh không có gì
ồn ào nhng xảy ra từng ngày, từng giờ và khắp các lĩnh vực
của đời sống" [35, tr.85].
Các truyện ngắn đà ®Ị cËp ®Õn nh÷ng vÊn ®Ị gai gãc
cđa cc sèng. Đề tài đời t - thế sự là đề tài nổi bật trong
truyện ngắn giai đoạn này, càng về sau đề tài này càng đợc
phát huy trong hầu hết các truyện ngắn. Theo Bùi Việt Thắng
"giai đoạn này thậm chí, đà hình thành quan niệm văn học
thế sự" [71, tr.202]. Nhà văn có thể tự do sáng tạo, tự do bày tỏ
những khúc mắc, những nổi niềm, truyền tải những quan
niệm, t tởng, tình cảm của mình qua truyện ngắn, có thể là
nỗi cô đơn, sự dằn vặt, phán xét,... Các truyện ngắn đà len lỏi
vào tận các ngõ ngách của đời sống, đà nhìn sâu hơn vào các
cảnh ngộ và số phận đời t con ngời, tiêu biểu nh: Nguyễn Minh
Châu viết Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn
Quang Thân viết Ngời không đi cùng chuyến tàu, Lê Hoàng

viết Lời cuối trong kịch bản... đà phản ánh các sự kiện, hiện tợng của đời sống một cách trung thực nhất.
Nếu trong chiến tranh mọi tình cảm uỷ mị đều đợc các
nhà văn né tránh, họ ít nói đến cái ác liệt dữ dội của bom đạn
thì sau chiến tranh, tất cả mọi nỗi đau đó đều đợc hiện lên
trên trang viết của các nhà văn. Các tác phẩm: Bức tranh, Cơn
giông, Cỏ lau...(Nguyễn Minh Châu), Mùa lá rụng trong vờn (Ma
Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh),... không chỉ viết về cuộc chiến tranh đà đi qua mà còn
phản ánh chân thực cuéc sèng h«m nay - mét cuéc sèng th«


18
ráp, xù xì, góc cạnh mà ít nhiều trong kháng chiến nó bị coi là
ngoại trừ để nhờng chỗ cho chất thi vị, lÃng mạn. Dới ngòi bút
của các nhà văn sau 1975, chất đời t hiện lên một cách sinh
động hơn, chân thực hơn. Các truyện ngắn sau 1975 còn đi
sâu vào khám phá đời sống nội tâm con ngời với mục đích
"tìm con ngời bên trong con ngời" (Bakhtin). Nhà văn chú ý
đào sâu vào nội tâm con ngời với mục đích thấy đợc suy t
trăn trở dằn vặt của con ngời, khi sống dới các mối quan hệ
phức tạp. Truyện ngắn thời kỳ này nhìn con ngời dới góc độ
đa diện có sự phân tuyến giữa: tốt xấu, thiện - ác, trắng đen, cao cả - thấp hèn.
Sau 1986, truyện ngắn có bớc đột phá là do không khí
dân chủ, cởi mở trong công cuộc đổi mới văn học. Nhà văn
không còn bị bó buộc bởi "cái hành lang hẹp" và "thấp" kia
nữa mà ý thức của các nhà văn sau đổi mới đà tự khuyên nhủ
lẫn nhau "tự bạt cái thấp" đi để khỏi chạm trần, để đợc tự do
đi lại thoải mái trong "cái hành lang" kia. Tinh thần tự do sáng
tạo của nhà văn đà đợc "cởi trói". Điều này đà đợc đề cập trong
cuộc nói chuyện giữa tổng bí th Nguyễn Văn Linh và 100 văn

nghệ sỹ là cuộc gặp gỡ đầu tiên thể hiện t duy mới của ngời
lÃnh đạo cao nhất của đảng với văn học nghệ thuật. Với văn
nghệ sỹ thì nghị quyết 05 của Bộ chính trị - BCH TW Đảng
cộng sản Việt Nam là nghị quyết đầu tiên về Đổi mới nâng
cao trình độ quản lý văn học văn hoá phát triển nâng lên một
bớc mới. Sự kiến chính trị quan trọng đó đà tạo điều kiện,
động lực thúc đẩy cho văn học sau 1975 đặc biệt là sau 1986
có sự đổi mới vợt bậc. Chính vì lẽ đó trong các truyện ngắn
thời kỳ này, đời sống xà hội càng đợc phản ánh trong tác phẩm
một cách chân thực hơn. Các truyện ngắn về sau mật độ
càng tăng lên nhiều với các tên tuổi mới càng làm phong phó


19
thêm cho bức tranh truyện ngắn sau 1975 đa dạng hơn bao
giờ hết.
Phát triển trong điều kiện mới, đội ngũ sáng tác văn học
thời kỳ này đợc tự do thể hiện mình. Nhiều tác phẩm truyện
ngắn ra đời đà đáp ứng đợc nhu cầu của xà hội. Chính vì vậy
vào thời điểm này truyện ngắn phát triển với tốc độ nhanh.
"Đến đây thấy một quy luật rất thú vị về sự phát triển thế loại
văn hoá. Truyện ngắn bổng nổi bật lên hàng đầu. Những năm
trớc đây truyện ngắn gần nh lịm đi, bị đè bẹp bởi sức nặng
của tiểu thuyết đà chiếm ngồn ngộn. Bây giờ len qua kẻ hở
của vô số truyện ngắn ngổn ngang kia nó ngoi lên và bùng nổ.
Tôi có cảm giác nh đang đứng trớc một vụ mùa truyện ngắn.
Truyện ngắn đông và thật sù cã mét sè trun ng¾n hay"
[58, tr.44].
Theo con sè thống kê của Phan Thị Hoà trong bài "viết nh
một phép ứng xử", Báo Văn nghệ, số 4 -1989, "chỉ có ba cuộc

thi truyện ngắn của báo Văn nghệ hội nhà văn Thành phố Hồ
Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức sơ bộ đà có
gần tới 7000 truyện ngắn. Nếu tính cả những truyện ngắn
đăng trên báo, tạp chí trong năm, con số này phải lên đến
hàng vạn".
Truyện ngắn giai đoạn này đà mở rộng phạm vi đề tài, các
nội dung phản ánh, cách viết và hình thức đa dạng nên nhanh
chóng đáp ứng đợc nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của độc giả.
Ngời đọc tìm đến với truyện ngắn nhiều hơn vì gần gũi
hơn với đời sống hàng ngày, dung lợng lại ngắn câu chữ lại súc
tích để đọc. Vì vậy, truyện ngắn đà đi sâu vào đề tài thế
sự, những thực trạng còn tồn tại của xà hội, những t tởng phiến
diện, bảo thủ, trì trệ của một số con ngời, kiểu làm ăn cá thể
trên môi trờng tập thể, tiêu biểu nh Khách ở quê ra và Phiên chợ
Giát (Nguyễn Minh Châu). Các nhà văn đà lột tả hết mọi cung


20
bậc của đời sống truyện ngắn ở thời kỳ này không còn là "mũi
khoan thăm dò nhỏ nhẹ" (Nguyên Ngọc) nữa mà đà mang một
sức nặng mới của sự khái quát đời sống xà hội Việt Nam sau
1986. Thời kỳ này vẫn là sự đóng góp của những cây bút trởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và phát triển trong thời
kỳ đổi mới nh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn
Kiên,... trong đó Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà
văn sớm nhận ra nhu cầu bức thiết của lịch sử. Ông là ngời cảm
nhận ra sớm nhất, sâu xa nhất tận máu thịt tâm tởng của
mình cái yêu cầu bức bách sống còn của công cuộc trở dạ mà
ngày nay chúng ta gọi là công cuộc đổi mới, lặng lẽ âm thầm,
khiêm nhờng mà cực kỳ dũng cảm, kiên định đi vào con đờng
chông gai và hiểm nguy đó. Các tác phẩm của Nguyễn Minh

Châu thời kỳ này đà đổi mới trên nhiều phơng diện từ đề tài,
cảm hứng đến cách xây dựng nhân vật, không gian, thời gian
nghệ thuật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật...
Đổi mới của Nguyễn Minh Châu cũng là sự đổi mới chung của
văn học lúc bấy giờ.
Sự phát triển của truyện ngắn sau 1975 là một hiện tợng
mang tính tất yếu không chỉ bởi sự phát triển nội tại của bản
thân thể loại mà còn do sự tác động của những đổi mới về
mọi phơng diện của môi trờng sáng tạo mới. Về cơ bản, truyện
ngắn sau 1975 đà kế thừa và tiếp thu những truyền thống
của văn học dân tộc. Truyện ngắn giai đoạn này đà mở ra
những bình diện mới trong việc thể hiện, lý giải con ngời và
đà kịp thời bổ sung những gì còn thiếu mà giai đoạn 1945 1975 cha có. Văn học sau 1975, thực sự ®· trë víi quy lt vÜnh
h»ng cđa ®êi sèng. Thùc sự là một nền văn học vì con ngời và
càng về sau, văn học càng hớng tới những giá trị cao nhất của
văn chơng đó là giá trị chân - thiện - mỹ.
1. 3. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975


21
1.3.1. Vài nét về cuộc đời, con ngời
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20/10/1930, tại làng Thơi, xÃ
Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lu, tỉnh Nghệ An. Làng Thơi chuyên
làm nghề đánh cá khơi và làm muối. Đây là một vùng quê
nghèo, đời sống văn hoá thấp. Những còn ngời vùng biển quê
ông vốn là những con ngời "chất phác, cục mịch, lực lỡng nh
mọc lên từ sỏi đá. Rồi nhờ sóng gió bÃo táp mà luyện thành xơng sắt đa đồng. Những con ngời nh thuộc về một thế giới
hoang sơ nào" [55, tr.178]. Sau này Nguyễn Minh Châu đÃ
từng viết về ngời dân dân quê ông trong một số tác phẩm nh:
Cửa Sông, Mảnh đất tình yêu, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát.

Cho đến lúc sắp ra đi Nguyễn Minh Châu vẫn tâm niệm một
điều rằng "nếu tôi còn sống, t«i sÏ viÕt tiÕp trun L·o Khóng".
Cha cđa Ngun Minh Châu cũng có chút học hành. Mẹ
của ông quanh năm làm công việc đồng áng. Mặc dù không đợc đi học nhng ở ngời phụ nữ này lại rất giàu tình thơng và
lòng vị tha đối với các con. Nguyễn Minh Châu là con út trong
gia đình, từ nhỏ đà đợc học hành tử tế. Còn các chị của ông
quanh năm vất vả ở quê nhà mà sau này đà để lại trong lòng
nhà văn một niềm kính trọng các chị vô hạn.
Lúc còn nhỏ, Nguyễn Minh Châu vốn là ngời rụt rè, nhút
nhát. Cho đến sau này, khi ông đà bớc vào độ tuổi tóc đà lấm
chấm điểm bạc thì cái bản tính đó vẫn không hề thay đổi
trong ông. "Gần 60 tuổi đến một nơi đông ngời tôi chØ mn
lÈn vµo mét xã kht chØ cã thÕ míi cảm thấy đợc sự yên ổn và
bình tâm nh con dế chui tọt vào lỗ" [35, tr.142]. Ông đà có lần
tự bộc bạch về mình bằng những lời chân thành nhất "tôi
không có khả năng làm say mê hoặc chinh phục đám đông
bằng lợi khẩu, tôi chỉ muốn nói đến cái tính dút dát vụng về
trong cách ăn nói của mình mà trời phú cho từ khi ra đời. Nhng
thực tình tôi cũng không thích mình là một anh chàng cã


22
khiếu ăn nói. Tôi không thật quí cái năng khiếu ấy cho lắm.
Sống ở trên đời tôi chỉ thích những anh ăn nói lập bập và ấp
úng" [35, tr.142 -143]. Đây cũng là một trong những điều chi
phối đến tính cách Nguyễn Minh Châu. Ông không thích lối
sống giả tạo cùng với cách ăn nói hoa mỹ. Ông luôn chủ trơng
sống thực, sống đúng với bản chất của một con ngời.
Năm 1944- 1945, ông học trờng kỹ nghệ Huế. Tháng 3/
1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Nguyễn Minh Châu về

quê học tiếp và tốt nghiệp thành chung. Năm 1948- 1949, học
chuyên khoa trờng Huỳnh Thúc Kháng Nghệ Tĩnh. Tháng
1/1950, nhập ngũ cùng năm vào đảng cộng sản Việt Nam. Năm
1951, Học viên trờng sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn, trung
đội trởng thuộc s đoàn 320. Năm 1952- 1956, công tác tại ban
tác chiến ban tham mu tiểu đoàn 722 và tiểu đoàn 706, chi
ủy viên tiểu đoàn 706 và 722. Năm 1956- 1958, chính trị viên
phó đại đội, trợ lý văn hóa thanh niên trung đoàn 64. Năm
1958, ®ỵc phong trung óy sau ®ã ®i häc bỉ tóc quân sự khóa
2, viết tài liệu tổng kết chiến đấu ở quân khu Tả Ngạn. Năm
1959, dự hội nghị ban viết toàn quân. Năm 1960, công tác tại
phòng văn nghệ tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt
Nam. Năm 1962, đi học trờng văn hóa quân đội Lạng Sơn, sau
chuyển công tác về tạp chí Văn nghệ quân đội và phục vụ tại
đây với t cách là nhà văn quân đội cho đến lúc mất. Ông mất
vào ngày 23/1/1989 tại Bệnh viện quân y 108, Hà Nội.
1.3.2. Quan niệm về nghề văn, viết văn
Suy nghĩ của Nguyễn Minh Châu về con ngời là vậy, nhng đối với văn chơng nghệ thuật thì sao? Có thể nói, đến với
lao động nghệ thuật Nguyễn Minh Châu luôn đặt ra cho
mình sự nghiêm túc trong nghề văn. Ông đà sớm khẳng định
rằng: "không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại
cắt nghĩa rõ giá trị chân thực của ngời lµm ra nã nh nghỊ


23
viết văn" [35, tr.9]. Nghề văn theo ông là một thứ nghề cao quí
mà qua các tác phẩm, nhà văn có thể chuyển tải những quan
niệm, t tởng, tình cảm, thái độ của mình về con ngời và hiện
thực cuộc sống. Cũng chính qua những trang viết, ngời đọc có
thể tìm thấy trên trang sách nhà văn một sự rung động sâu

sắc, một sự quan tâm thực sự đối với cuộc đời thật của họ,
một niềm tin yêu, một tiếng nói chung. Chính vì lẽ đó,
Nguyễn Minh Châu đà đặt ra vấn đề nghiêm túc của văn học
và sứ mạng đích thực của ngời nghệ sỹ "Viết văn là phải đào
sâu tận cùng cái đáy của cuộc đời để săn tìm các quy luật".
Từ lúc mới bắt đầu cầm bút, Nguyễn Minh Châu đà ý thức
đợc rằng, mối quan hệ giữa nhà văn với ngời đọc, nhà văn với
cuộc sống, nhà văn với khát vọng riêng t của con ngời nh một sợi
dây vô hình mà nhà văn phải dựa vào thì mới mong đa ngòi
bút của mình đi đúng hớng và tìm thấy đợc chỗ dựa tinh
thần vững chắc nhất cho lao động nghệ thuật. Theo ông,
"trong đời sống văn học, có những nhà văn tài năng và đóng
góp vào một cách viết, một sự cách tân về thể loại, ngôn ngữ,
có ngời chỉ cho ngời đọc thởng thức một vẻ đẹp độc đáo,
nhỏ nhặt đáng quí. Nhng xét cho cùng, "cái phần chủ yếu của
một ngời viết văn vẫn là tiếng nói của anh ta trớc những vấn
đề đông đảo mà mọi ngời quan tâm tới" [35, tr.11]. Mỗi nhà
văn có thể mang đến và góp vào văn học dân tộc một phơng
diện nào đó sở trờng nhất. Nhng điều cơ bản cuối cùng là tác
phẩm văn học đó có thực sự phản ánh đúng cuộc sống hay
không? đó là điều quan trọng nhất.
Trong hoàn cảnh đất nớc chiến tranh, Nguyễn Minh Châu
đến với văn học khi cả nớc đang dồn sức cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Văn học thời kỳ này chịu sức ép lớn của quy luật lịch
sử nghiệt ngÃ, khi mà cả dân tộc ®ang dån vµo mét con ®êng,
"Êy lµ con ®êng ra trận, con đờng cứu nớc". Vì vậy, cha bao


24
giờ bằng lúc này, thái độ của nhà văn trớc vận mệnh chung lại

đợc đặt ra cấp bách và nghiêm khắc đến thế. Khi "mỗi nhà
văn, mỗi ngời đọc trong xà hội chúng ta đều có một mối quan
tâm thờng trực về vận mệnh dân tộc mình, về số phận khát
vọng của nhân dân trong những năm đầy sóng gió. Đòi hỏi
nguồn cảm hứng sáng tạo và nhân cách của ngời cầm bút cũng
bắt nguồn từ đó" [19, tr.85]. Vì vậy, đòi hỏi thái độ nhiệt
thành của ngời cầm bút, thái độ ấy phải đợc biểu lộ trên trang
viết và trong các hoạt động khác. Trớc những diễn biến và yêu
cầu bức thiết của lịch sử "Lẽ nào nhà văn lại có thể làm ngơ đợc, lẽ nào có thể viết những câu văn trái với điều mà nhiều ngời chung quanh hiện phải lo nghĩ để chiến thắng giặc" [35,
tr.12].
Nguyễn Minh Châu luôn ý thức đợc trách nhiệm và sứ
mệnh cao cả của ngời nghệ sỹ. Từ những năm 1970, trong
trang sổ tay viết văn ông đà khẳng định: "không thể lấy việc
khoác ba lô đi thực tế làm mục đích cuối cùng và cảnh tỉnh
một số anh chị em viết văn trẻ đứng dẫm chân hơi lâu ở bớc
đi đầu. Nhất là khi tái tạo hiện thực ngoài đời thành "một hòn
non bộ" xinh xẻo. Văn học bao giờ cũng phải trả lời câu hỏi của
ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối thoại với ngời đơng thời
về những câu hỏi cấp bách của đời sống. Tình thế đất nớc
lúc này bắt buộc nhà văn phải là ngời chiến sỹ trên mặt trận
của đảng, mà cái trách nhiệm thiêng liêng đó của ngời nghệ sỹ
là phải sáng tác ra những tác phẩm văn học, là nguồn cổ vũ
động viên tinh thần rất lớn cho nhân dân". Những tác phẩm ra
đời trớc hết với ý thức nóng bỏng đợc góp phần cùng toàn dân
tham gia đánh giặc" của ông, đà đáp ứng nhu cầu cấp bách
đó của cả dân tộc về một khát vọng tự do hòa bình.
Là một nhà văn tâm huyết với nghề, Nguyễn Minh Châu
đà sớm nhận ra những khó khăn, bất cập của nền văn häc



25
kháng chiến. "Hiện thực chiến tranh theo ông nh một cánh rừng
già cha khai phá với biết bao nhiêu vấn đề còn nơng náu trong
hai cuộc kháng chiến cứu nớc, những vấn đề con ngời chúng
ta". Vậy mà đội ngũ sáng tác lúc này nhận thức vẫn còn bồng
bột, cha thật sự quan tâm, trau dồi nghề văn của mình. "Khi
những tác phẩm văn học ra đời cha phải là mối quan tâm thờng trực tha thiết đối với họ và cũng cha phải là điều chiêm
nghiệm có tính chất triết học của cả một đời văn" [16, tr 24
25]. Tác phẩm vẫn còn thiếu đi phần ký thác cđa ngêi viÕt, vèn
lµ t tëng, lµ linh hån cđa tác phẩm nên cái phần hiện thực của
tác phẩm "nhẹ bỗng đi" đó là những điều mà ông từng băn
khoăn, trăn trở trong nghề nghiệp sáng tác. Nguyễn Minh Châu
đà từng mơ ớc rằng: "Trớc cái hiện thực bề bộn của cuộc sống,
nhà văn hÃy cố gắng ôm cho hết vòng tay của mình đi. Nếu
không ôm nổi một trái núi thì hÃy ôm lấy một cành cây trên sờn núi ấy, nếu cha khái quát đợc những vấn đề rộng lớn của
cuộc kháng chiến thì hÃy ghi lấy một dáng dấp, một khung
cảnh, một nét rung động của ngòi bút" [35, tr.18].
Trên nền của hiện thực ấy, nhà văn ®· suy nghÜ rÊt
nghiªm tóc vỊ lao ®éng nghƯ tht. Nghệ sỹ là ngời luôn sáng
tạo ra cái đẹp cho đời. ĐÃ là một ngời nghệ sỹ chân chính phải
có tâm, có trách nhiệm với đời. Tác phẩm ra đời phải là sản
phẩm tinh thần của một quá trình dài trăn trở, phải là nguồn
động viên lớn về tinh thần và phải nằm trong mạch chung của
văn học kháng chiến. Nhà văn phải thực sự tâm huyết với nghề,
để những tác phẩm viết ra "đừng nhạt nhẽo" và "ngời đọc có
thể bắt gặp những dáng dấp của họ trên trang sách". Chỉ có
nh vậy nhà văn mới có thái độ tỏ rõ sự trân trọng đối với nghề
văn của mình. Chính vì sự đòi hỏi rất cao của bản thân,
Nguyễn Minh Châu không bao giờ tự bằng lòng với những gì
mình có, ông luôn day dứt, trăn trở, nghiền ngẫm là nguyên



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×