Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TỔNG QUAN về VIỆC sử DỤNG điển cố TRONG SÁNG TÁC”TRUYỆN KIỀU” của NGUYỄN DU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.91 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài”

1.1. “Truyện Kiều”là viên ngọc sáng ngời, một kiệt tác văn học của
Nguyễn Du, là tập đại thành của văn học Việt Nam thời trung đại. Từ khi ra đời
đến nay “Truyện Kiều” đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời
sống tinh thần dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng. Tác
phẩm cịn trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu văn
học Việt Nam và ngoài nước.
1.2.“Truyện Kiều” xuất sắc khơng chỉ về nội dung tư tưởng mà cịn về
hình thức nghệ thuật.Hình thức nghệ thuật của “Truyện Kiều” được mọi người
say sưa kham phá,tìm hiểu và đã thu được nhiều thành tựu lớn.
1.3. Một trong những vấn đề nghệ thuật của“Truyện Kiều” chính là cách
Nguyễn Du sử dụng điển cố văn học khi viết tác phẩm cũng đã được nhiều
người quan tâm, chú ý. Kết quả nghiên cứu về nghệ thuật thống kê hay mới chỉ
miêu tả ,tường thuật nội dung điển cố đã được Nguyễn Du sử dụng trong
“Truyện Kiều” mà chưa thể hiện được nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du trong
việc dung điển cố trong sáng tác “Truyện Kiều “ như thế nào.
1.4. Thực tiễn về việc nghiên cứu điển cố trong “Truyện Kiều” cũng như
tìm hiểu cái hay cái đẹp của “Truyện Kiều” qua việc sử dụng điển cố của
Nguyễn Du đã trở thành một vấn đề khoa học thôi thúc chúng tôi mạnh dạn đi
tìm hiểu ở tiểu luận này. Trong một giới hạn khá hạn chế vì viêc tìm hiểu chỉ
được tiến hành ở bốn đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 10:Thề nguyền;
Trao dun; Nỗi thương mình; Chí khí anh hùng.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về vấn đề nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Du trong
“Truyện Kiều” đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm và thể hiện trong
những cơng trình khoa học. Có hai loại cơng trình tìm hiểu về nghệ thuật sử
dụng diển cố trong “Truyện Kiều”.Tìm hiêủ điển cố trong từng đoạn trích,đặt

1




trong mối tương quan với nội dung và nghệ thuật đoạn trích thì vẫn chưa được
nghiên cứu triệt để.
2.1 Loại cơng trình tập trung thống kê điển cố sử dụng trong “Truyện
Kiều”
2.1.1 Đoàn Ánh Loan- “Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố” – Nxb
Đại học Quốc Gia TPHCM 2003.
Trong chương 3 phàn 2 “Phân loại và thống kê điển cố trong truyện thơ”
tác giả chú ý tìm hiểu nguồn gốc của điển cố trong một số câu Kiêu,nêu đặc tính
của điển cố trong một số câu Kiều,nêu rõ các loại điển cố:điển cố âm Hán Việt,
điẻn cố đã “Việt hóa”, điển cố và ngơn ngữ của tác giả,điển cố và ngôn ngữ của
nhân vật<trang 100-168>. Đồng thời trong cơng trình này Đồn Ánh Loan đã
xây dựng được một bảng thống kê điển cố trong “Truyện Kiều” rất công
phu<gồm 236 điển cố>.Việc thống kê được một hệ thống điển cố trong “Truyện
Kiều”như Đoàn Ánh Loan đã làm là một thao tác khoa học rất đáng trân
trọng.Mặc dù vậy tác giả của cơng trình”Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển
cố”cũng chưa vươn tới việc chỉ ra những đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng điển
cố của Nguyễn Du.
2.1.2 Trần Hồ Phương-“Điẻn tích trong Truyện Kiều”-Nxb Đồng Nai1996 đã thống kê được 110 điển tích được Nguyễn Du sử dụng trong “Truyện
Kiều”. Điều thú vị ở cơng trình này là việc Trần Hồ Phương đã chép những câu
Kiều có sử dụng điển tích và giải thích nguồn gốc của điển tích rất tỉ mỉ.Tuy
nhiên, Trần Hồ Phương chỉ dừng lại ở việc giới thiệu điển tích mà thơi chứ chưa
phân tích được cái đẹp của câu Kiều cố sử dụng điển tích là ở chỗ nào.
2.1.3 Nguyễn Tử Quang- “Điển tích Truyện Kiều”- Nxb Đồng Tháp 1997
Trong cơng trình này,Nguyễn Tử Quang cũng đã làm như cách Trần Hồ
Phương dã thực hiện ở “Điển tích trong Truyện Kiều”. So sánh hai cơng trình
này thì thấy có nhiều điển tích trùng nhau nhưng có một số ít điển tích khơng
trùng nhau. Có thể do quan niệm của Trần Tử Quang cho nên ơng chỉ giải thích
nguồn gốc và nội dung của 75 điển tích trong “Truyện Kiêù”. Qua đó chúng tơi

2


thấy quan niệm của hai tác giả Trần Hồ Phương và Nguyễn Tử Quang khơng
hồn tồn đồng nhất về khái niệm điển tích và do đó dẫn đến một số khác biệt
như đã trình bày.
2.1.4 Nguyễn Ngọc San-Đinh Văn Thiện- “Từ điển điển cố văn học trong
nhà trường”-Nxb GD-HN1998.
Hai tác giả dưới hình thức kể chuyện đã giải thích 23 điển cố. Đó là 23
câu chuyện rất li kì và hấp dẫn làm cho người đọc thấm thía hơn về ý nghĩa
những điển cố mà Nguyễn Du đã sử dụng.Tuy nhiên, số lượng điển cố trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du được giải thích bằng hình thức kể chuyện như
các tác giả ấy thì vẫn chưa đầy đủ,cịn q ít ỏi so với số lượng mà các tác giả
khác đã thống kê.
2.1.5 Trương Xn Tiếu-“Bình giảng 10 đoạn trích trong Truyện Kiều”Nxb GDHN 2007.
Tác giả đã liệt kê điển cố,gjiair thích nội dung điển cố và chỉ ra được vị
trí,vai trị của điển cố trong những câu Kiều ở 10 đoạn trích tiêu biểu được dung
để dạy và học trong trường phổ thông.
2.1.6 Đinh Gia Khánh (chủ biên) : “Điển cố văn học” Nxb Văn học
HN,1975.
2.2 Loại cơng trình nhận xét,đánh giá khái quát về nghệ thuật sử dụng
điển cố của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”
2.2.1 Dương Quảng Hàm- “Văn học Việt Nam”-

Nxb Trẻ TPHCM

2005 .Trong chương viết về Nguyễn Du và “Truyện Kiều”, học giả Dương
Quảng Hàm đã đề cập đến khá nhiều điển tích văn học được Nguyễn Du sử
dụng trong các đoạn trích “Truyện Kiều”. Song Dương Quảng Hàm cũng chỉ
dừng lại ở việc giải thích điển tích và thơng qua đó để giải thích ý nghĩa của câu

Kiều mà chưa nói lên được cái hay cái đẹp trong việc sử dụng điển tích như thế
nào (trang 126-151).
2.2.2 Đào Duy Anh- “Khảo luận về truyện Thúy Kiều”- Nxb Văn hóa
thơng tin HN 2007.
3


Đây là một cơng trình chun khảo về “Truyện Kiều” được trình bày
trong 9 chương. Vấn đề Nguyễn Du sử dụng điển cố khi viết “Truyện Kiều”
được Đào Duy Anh đề cập đến trong chương thứ 6. Tác giả khẳng định: “ sử
dụng điển cố là một phép văn rất phổ thông trong văn giới ta xưa mà lại là lối sở
trường đặc biệt của tác giả “Truyện Kiều”. Một điều tối diệu trong nghệ thuật
văn chương là dùng chữ ít mà hàm nghĩa nhiều, dùng điển cố cũng như dùng ẩn
dụ, thành ngữ, tục ngữ là cốt để đạt mục đích ấy…Văn “Đoạn trường tân thanh”
dung điển cố rất nhiều, toàn là những điển cố trong Hán văn…Dùng điển thay
lời , là chỗ khéo, là chỗ hợp với cái mục đích dùng điển, là lời ít mà nhiều nghĩa
vậy. Nghĩa ẩn dụ và điển cố ấy phần nhiều Nguyễn Du dịch y theo nguyên văn,
nhưng khi đọc nguyên văn thì ta thấy nó nặng nề, khó chịu mà sau khi chuyển
sang văn của Nguyễn Du thì nó hóa ra nhẹ nhàng, thanh tao” (trang 139-142).
Đây là ý kiến rất có giá trị khoa học đã được nêu lên rất sớm ( cuốn sách được
công bố năm 1943).
2.2.3 Hà Nhi Chi- “Việt Nam thi văn giảng luận”- Nxb Văn hóa thông tin
HN 2000.
Trong chương 4 mục các tác giả khi viết về: “Giá trị Truyện Kiều” ở mục:
“Đặc tính trang nhã quý phái” Hà Nhi Chi đã khẳng định: “Văn Kiều nhẹ nhàng
hay thanh tao trang nhã phần nhiều cũng nhờ các điển cố mà cụ Nguyễn Du đã
sử dụng rất nhiều và rất khéo”. Với Nguyễn Du nghệ thuật dùng điển cố thật đã
thành thục, tinh xảo. Không như những nhà thơ thời trước chỉ dùng điển cố để tỏ
ra thơng thái, bác học hoặc vì bất lực khơng thể dùng lời ngay thật mà diễn đạt ý
tưởng, cụ Nguyễn Du đã dùng điển cố làm cho câu thơ có ý vị đậm đà mà vẫn

lưu lốt. tự nhiên khơng cầu kì thắc mắc ( trang 485-486).
2.2.4 Phan Ngọc- “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều”-Nxb Thanh niên HN 2003
2.2.5 Hoang Hữu Yên-“Cái hay cái đẹp của Tiếng Việt trong Truyện
Kiều”-Nxb Nghệ An 2003.

4


Trong chương 4: “Tiếp nhận để làm giàu từ Hán Việt”, muc 4, Hồng Hữu
n có nhận xét như sau: “đề cập đến vốn từ Hán Việt trong Truyện Kiều
chúng ta còn cần phải chú ý đến một bộ phận khơng kém phần quan trọng là
những điển tích, điển cố trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng…chí ít
Nguyễn Du cũng có đến gần 250 lần sử dụng điển tích, điển cố. Theo Hồng
Hữu n thì việc dùng điển cố khi viết “Truyện Kiều” của Nguyên Du đã
“khẳng định bút pháp kì tài khi nhà thơ đưa vào tác phẩm của mình loại từ đặc
biệt này” (trang 67-68).
2.2.6 Lê Quế- “Tìm hiểu Truyện Kiều”- Nxb Nghệ An 2004.
Những từ kinh điển lấy từ tích cổ Trung Quốc chiếm phần lớn trong tác
phẩm của Nguyễn Du. Vì đa số người bình dân khơng biết chữ Hán nên Nguyễn
Du chọn cách dùng điển cố vào những văn cảnh sao cho người đọc khơng cần
biết điển tích vẫn dễ dàng hiểu được ơng muốn diễn đạt. Nhận xét của Lê Quế
có tính chất phân tích nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Du. Lê Quế không
chỉ nhận xét mà con đưa ra những vấn đề để phân tích. Đó là một thành cơng,
song Lê Quế chưa tìm hiểu một cách tồn diện về nghệ thuật sử dụng điển cố
của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
2.2.7 Phạm Đan Quế- “Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương
Truyện Kiều”- Nxb GDHN-2002.
2.2.8 Phạm Đan Quế- “Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều”- Nxb Văn học
2001.

2.3 Khóa luận tốt nghiệp đại học:Lưu Thị Thủy- “Nghệ thuật sử dụng
điển cố trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” ,Đại học vinh- 2002, Nguyễn Thị
Lệ (2008).
2.4 Loại cơng trình tìm hiểu nghệ thuật sử dụng trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du dưới góc độ thi pháp học hiện đại.
2.4.1 Trần Đình Sử- “Thi pháp Truyện Kiều”- Nxb GD-2007.
Chuyên luận này có nhiều nhận định: “Điển cố là một biện pháp tu từ cơ
bản của văn chương cổ điển” gọi là “kê cổ”. “Điển cố trở thành biện pháp tu từ
5


do nó dẫn lời, dẫn việc, nói gọn, gợi nhiều. Trong “Truyện Kiều” điển cố được
sử dụng khá nhiều, song không phải chỗ nào dẫn việc cũng là điển cố ( trang
291) : “Phần lớn điển cố trong “Truyện Kiều” đều được dùng trong lời thoại
của nhân vật, đặc biệt là nhân vật cao quý bởi nó giúp nhân vật nói những điều
khó nói một cách ý nhị và văn vẻ” (trang 292). “Tổng quan các hình thức dùng
điển cố của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” ta thấy phạm vi sử dụng điển cố
khá rộng, trong lời thoại của nhân vật, trong lời tự sự, miêu tả chân dung, thể
hiện tình cảm, miêu tả tiếng đàn… Trong số đó điển cố dùng theo lối kê cổ,
nhưng phần lớn điển cố được dùng như ẩn dụ, hoán dụ, như mượn lời trong lời
thoại nhân vật, điển cố giúp nói những điều tế nhị, kín đáo. Trong trần thuật
miêu tả điển cố được sử dụng như ẩn dụ để thể hiện trạng thái tình cảm, cảm
giác của nhân vật, góp phần cụ thể hóa nhân vật. Đây là nét đặc sắc nhất của
Nguyễn Du vừa làm tăng thêm chất thơ cổ điển tao nhã, điển cố tạo thành ngôn
ngữ biểu trưng cỏ điển của Nguyễn Du- một ngôn ngữ biểu trưng cao xa thâm
thúy (trang 304).
2.4.2 Đào Duy Anh trong “Từ điển Hán Việt”- Nxb Văn hóa thơng tin,
HN, 2003, định nghĩa điển cố là chuyện chép trong sách vở xưa (trang 132) và
ơng khơng định nghĩa về điển tích.
2.4.3 Theo định nghĩa của Viện ngôn ngữ học trong “Từ điển Tiếng việt”

(Hoàng Phê chủ biên), Nxb Đà Nẵng, trung tâm từ điển học- HN- 2006, điển cố
là sự việc hay câu chữ trong sách vở trước được dẫn trong thơ văn và điển tích là
“Câu chuyện trong sách vở đời trước được dẫn lại một cách cô đúc trong tác
phẩm (trang 38).
2.4.4 Theo Lại Nguyên Ân trong: “Từ điển văn học” thì điển cố là một sự
tích xưa của một vài câu thơ, câu văn cổ được người đời xưa sử dụng trong hành
văn để diễn đạt ý mình cần nói. Song đây khơng phải là lối trích dẫn ngun văn
mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến điển tích cũ ấy, câu văn cổ ấy.
Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và phép dùng
chữ.
6


“Dùng điển”: “Dùng” là vận dụng, “Điển” là việc cũ hoặc xử sự- khiến
việc, ý nói “sai khiến” các điển tích cũ, chuyện xưa cho thích dụng vào văn
mạch của mình.Các “điển”gồm các tình tiết đã được chép trong sử sách, kinh
truyện, kể cả tình tiết hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong những tác
phẩm nổi tiếng thời trước. Lấy chữ là mượn dùng lại một vài chữ trong các áng
văn thơ cổ vào câu văn của mình, gợi cho người đọc phải nhớ đến câu thơ, câu
văn trong tác phẩm của người xưa. Lối dùng điển cố tạo cho câu văn, câu thơ cô
đúc, hàm súc, gây thú vị cho những người vốn sành văn thơ cổ, lại cũng tránh
nói thẳng các điều thơ tục,sỗ sàng khiến cho văn chương giữ được vẻ thanh
nhã… Lối dùng điển cố có khi tựa như dẫn chứng tích cũ xưa tạo nên thêm lí lẽ
trong văn mạch. Lối dùng điển cố do vậy là một lối vay mượn mang tính từ
chương thuàn túy. Đó là cách làm đẹp, làm sang cho văn chương, tạo cho văn
chương những nét quý phái, uyên bác.
Lại Nguyên Ân còn chỉ rõ cơ sở bề sâu của lối dùng điển cố là quan niệm
nói theo cổ nhân “thuật nhi bất tác” (trang 416). “Truyện Kiều” là một tác phẩm
truyện Nơm, do đó ngồi việc qn triệt tinh thần, định nghĩa của Lại
Nguyên Ân như đã trình bày, tơi tham khảo thêm định nghĩa của

Nguyễn Ngọc San trong cuốn : “Lý thuyết chữ Nôm, văn Nôm”- Nxb Đại học
Sư phạm, HN, 2003.
Trong muc 11 “Tìm hiểu giá trị và cấu trúc của điển cố trong tác phẩm
Nôm” Nguyễn Ngọc San đã chỉ ra hai cấp độ nghĩa của điển cố:
a. Tính lịch sử cụ thể của điển cố
b. Tính đặc trưng hay phong cách học của điển cố.
Nguyễn Ngọc San khẳng định “điển cố là một trong các biện pháp tu từ
cổ được vận dụng rộng rãi trong các sáng tác trước của ông cha và tất
nhiên là trong tất cả các tác phẩm chữ Nôm”.
Nguyễn ngọc San đã phân chia các loại điển cố khá cụ thể, ông viết : “Xét
về nguồn gốc người ta thường chia ra làm hai loại :loại dùng điển và loại dẫn
kinh”
7


Loại dùng điển dựa vào các câu chuyện, sự tích nổi tiếng trong sách để
lấy giá trị biểu trưng. Nó được cấu tạo bằng cách rút ra từ cốt lõi câu chuyện
theo ba hướng:
- Sự thật hay sự việc cốt lõi
- Nhân vật tính cách, cốt cách điển hình cho một phẩm chất một thái độ sống
- Tên địa danh, song núi… biểu trưng cho một khái niệm phổ biến.
- Lấy trọn một ý, một đoạn ngữ trong nguyên văn.
- Cắt lấy một vài chữ đầu hay chữ cuối của câu văn trong sách.
- Lựa chọn một vài từ trong câu nói của kinh truyện cấu tạo lại theo
cách riêng. Từ đó Nguyễn Ngọc San đã nêu lên những đặc điểm của điển cố như
sau:
+ Điển cố để nguyên chữ Hán
+ Dịch từ điển cố Hán sang Việt
+ Dịch thoát lấy ý chính của điển chữ Hán
+ Cùng một điển trong chữ Hán nhưng chữ Nơm người viết có thể lấy ý

mà đổi chữ hoặc chuyển thành hai, ba diểm khác nhau( từ trang 499-526)
Nói tóm lại, điển cố và điển tích tuy tên gọi khác nhau nhưng đều chung
một ý nghĩa nội dung. Điển cố là một đặc điểm thi pháp của văn học trung đại
Việt Nam, từ bộ phận văn học chữ Hán sang bộ phận văn học chữ Nôm.
3: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
3.1: Đối tượng nghiên cứu:
- Là nghệ thuật sử dụng điển cố trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
- Văn bản “Truyện Kiều” đươc sử dụng trong quá trình nghiên cứu là
cuốn “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh. NXBKHXH, HN, 1974.
3.2: Phạm vi đề tài.
Đề tài chỉ tập trung khỏa sát, phân tích những điển cố tiêu biểu được
Nguyễn Du sử dụng trong bốn đoạn trích ở SGK Ngữ Văn 10 tâp II: Thề nguyền
; Trao duyên; Nỗi thương mình; Chí khí anh hung (Truyện Kiếu- Nguyễn Du )
và qua đó chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Du khi dùng điển cố.
8


4: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1: Mục đich nghiên cứu
4.1.1 Trước hết nhằm thấy được số lượng điển cố mà tác giả sử dụng
trong “Truyện Kiều” rất dồi dào và phong phú, thấy được nét đặc trưng thi pháp
“Truyện Kiều” qua việc dùng điển cố.
4.1.2 Thấy được nghệ thuật sử dụng điển cố hết sức tài tinh điêu luyện của
Nguyễn Du trong những câu Kiều.
4.2: Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1: Xác định vai trị của điên cố, vị trí, tác dụng của nó trong q trình
sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du khi viêt “Truyện Kiều”.
4.2.2: Góp phần hiểu đúng, hiểu sâu nội dung thẩm mĩ của một số câu
thơ: “Truyện Kiều” có dùng điển cố.
5: Phương pháp nghiên cứu:

Để nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau:
5.1: Phương pháp thống kê, phân loại
5.2: Phương pháp miêu tả, phân tích.
5.3: Phương pháp so sánh, đối chiếu.
5.4: Phương pháp hệ thống.
6: Cấu trúc tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung tiểu
luận được triển khai thành hai chương:
Chương I: Tổng quan về việc sử dụng điển cố trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du.
Chương II: Cái hay của các điển tích điển cố trong bốn đoạn trích trong
Sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 2: Thề nguyền, Trao duyên, Nỗi thương mình,
Chí khí anh hùng.

9


NỘI DUNG
Chương I: TỔNG QUAN VỀ VIỆC SỬ DỤNG ĐIỂN CỐ TRONG
SÁNG TÁC”TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU.
1.1 Số lượng điển cố mà Nguyễn Du đã sử dụng trong “Truyện Kiều”.
1.1.1 Dựa vào Đinh Gia Khánh (chủ biên) – “Điển cố văn học” –
NXBVHHN có 299 điển cố.
1.1.2 Theo Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện(1998)- “Từ điển điển cố
văn học trong nhà trường”- NXBVHHN, có 70 điển cố.
1.1.3 Đồn Ánh Loan (2003): “Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố” –
NXBĐHQG TPHCM, có 237 điển cố.
1.2 Các phương thức sử dụng điển cố trong “Truyện Kiều”
1.2.1 Nguồn gốc điển cố:
1.2.1.1 Điển cố bắt nguồn từ kinh sử truyện.

1.2.1.2 Những điển cố có nguồn gốc bắt nguồn từ thơ.
1.2.2 Loại câu thơ “Truyện Kiều” có dùng điển cố: đó là câu lục và câu bát.
Số lượng diển cố có trong câu lục là 128 điển cố.
Số lượng điển cố có trong câu bát là 165 điển cố.
1.2.3: Tính chất điển cố.
Điển cố trong “Truyện Kiều” có hai loại là điển cố thuần Việt và điển cố
âm Hán Việt, điển cố loại dễ hiểu hay loại khó hiểu.
1.2.4: Chức năng của điển cố;
Xuất phát từ quan niệm xem điển cố là một phương thức ẩn dụ, hoạt
động trong phạm vi của ngôn ngữ thơ, tiểu luận tập trung khảo sát chức năng
của điển cố thể hiện trong ngôn ngữ tác phẩm qua lời của tác giả (kể, tả, phát
biểu) và lời đối thoại hay độc thoại của nhân vật qua bốn đoạn trích nhằm tìm ra
cách thức thể hiện điển cố trong lĩnh vực ngôn ngữ của thể loại truyện thơ tự sự,
nhất là trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Theo thống kê thì “Truyện Kiều” có số điển cố xuất xứ từ kinh, sử,
truyện la 223 (81,9 %). “Truyện Kiều” có xuất xứ từ thơ là 47 (17,2 %). Những
10


điển cố có xuất xứ từ các sách kinh điển như Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Thư, Kinh
Xuân Thu, Luận Ngữ, Mạnh Tử được tuyển chọn từ những lời giáo huấn của
thánh nhân về cách ứng nhân xử thế, về đạo làm người thường được truyền dạy
từ đời trước cho đời sau trong gia đình, làm nội dung thi cử tuyển chọn nhân tài
cho đất nước. Điển cố xuất phát từ sử truyện thường được đúc kết từ những câu
chuyện về các nhân vật lịch sử gắn liền với các địa danh nổi tiếng tạo sự hấp dẫn
cho người đọc và người nghe.
Tác giả các truyện thơ ít khi đưa điển cố có nguồn gốc từ thơ vào trong
tác phẩm của mình. Song bất kể điển cố có nguồn gốc từ đâu, khi đánh giá tài
năng sử dụng của tác giả, chúng ta khơng nên truy tìm nguồn gốc của nó mà nên
đánh giá nhà thơ đã dùng nó như thế nào để làm nên những câu thơ đẹp. Vì để

có một kết quả dùng điển hay những từ ngữ, câu chuyện của điển cố phải được
hòa nhập vào nhau tạo thành một sức sống mới cho câu thơ mà khơng gây khó
khăn cho người đọc trong việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa của nó.
Điển cố mà Nguyễn Du sử dụng ở “Truyện Kiều” trong câu lục và câu bát
là rất khác nhau. Số lượng điển cố trong câu lục là 128 (43.5%) còn trong câu
bát là 165 (56,1%). Như vậy số lượng điển cố có trong câu bát nhiều hơn trong
câu lục.
Trong toàn bộ điển cố mà Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm có 126
điển cố là từ thuần Việt, nhiều hơn từ Hán Việt. điều này chứng tỏ tác giả đã
“Việt hóa” điển cố Trung Quốc, làm cho điển cố hòa nhập vào câu thơ chữ Nơm.
Do vậy nó làm cho người đọc dễ hiểu, dễ cảm. “Truyện Kiều” là tác phẩm vừa
mang tinh văn học, vừa mang tính bác học, lại vừa mang tính bình dân, cách
dùng điển cố có nét độc đáo riêng.
1.3: Kết quả về số lượng điển cố ở bốn đoạn trích trong SGK Ngữ Văn
10 tập II.
-Đoạn trích “Thề nguyền” gồm 11 cặp câu lục bát xuất hiện năm điển cố
là những điển cố trong sử truyện:

11


“ Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu”
“Tiếng sen khẽ động giấc hịe”
“ Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”
“Bâng khuâng đỉnh giáp non thần”
- Đoạn trích “Trao Duyên” có năm điển cố trong sử truyện như: Keo loan,
Lời nước non, Trúc mai, vừa có điển cố trong thơ: Trâm gãy gương tan, lời nước
non
- Đoạn trích “ Nỗi thương mình” cũng xuất hiện nhiều điển cố trong sử
truyện.

“ Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”
“Mặc người mưa sở mây tần”
-“Chí khí anh hung” xuất hiện những ddienr cố:
“ Nửa năm hương lửa đương nồng”
“Nàng rằng: phận gái chữ tòng”
“Từ rằng: tâm phúc tương tri”
“Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
“Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Tiểu kết chương 1
“Truyện Kiều” là tác phẩm tự sự nên điển cố có nguồn gốc từ kinh, sử,
truyện là chủ yếu và nó có nhiều trong lời tác giả, cách hành văn của tác giả. Vì
vậy điển cố là một biện pháp tu từ mà Nguyễn Du sử dụng rất nhiều trong lời kể
của mình.
Qua tổng quan về việc sử dụng điển cố trong “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du chúng ta đã thu được một kết quả đáng kể về số lượng điển cố cũng như tính
chất và nguồn gốc cùng một số vấn đề về việc sử dụng điển cố ở bên trong từng
phần của nó.Đây là cơ sở thuận lợi để ta tìm hiểu cái hay của nghệ thuật dùng
điển cố của Nguyễn Du trong bốn đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 10.

12


CHƯƠNG 2
CÁI HAY CỦA CÁC ĐIỂN TÍCH TRONG BỐN ĐOẠN TRÍCH:
THỀ NGUYỀN:TRAO DUN: NỖI THƯƠNG MÌNH: CHÍ KHÍ ANH
HÙNG
2.1 Đoạn trich: “Thề nguyền”
2.1.1 Vị trí và nội dung đoạn trích
Một hơm khi cả gia đình sang chơi bên ngoại, Kiều đã tìm gặp Kim

Trọng. Chiều tà nàng mới trở về, được tin cả nhà vẫn chưa về, Kiều quay lại gặp
Kim Trọng. Hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng
vặc.
2.1.2 Cái hay của các điển tích trong : “Thề nguyền”
2.1.2.1

“ Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trơng lọt trướng huỳnh hắt hiu”.

Điển tích “ trướng huỳnh” gợi câu chuyện xưa có người nhà nghèo khơng
có đèn để đọc sách phải bắt đom đóm làm đèn học. Do đó “trướng huỳnh” được
dùng để chỉ phòng học của nho sinh, đồng thời gợi ý hiếu học. Và Kim Trọng
chính là người nho sinh : “Văn chương nết đất thơng minh tính trời”
“Vào trong phong nhã ra ngồi hào hoa”
2.1.2.2
“Tiếng sen khẽ động giấc hịe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”
Nguyễn Du chuyển dịch các điển cố Hán Việt sang thuần Việt “tiếng sen,
giấc hòe, hoa lê” rất linh động. Vì vậy mà trong một cặp câu lục bát tồn tại ba
điển cố nhưng vẫn thật dễ hiểu. Nguyễn Du chọn lựa lấy ý chính hay hiện tượng
nổi bật nhất từ câu chuyện hoặc lời thơ của điển cố rồi chuyển sang Tiếng Việt
như :sen vàng, gót sen, tiếng sen…để miêu tả bước đi của người con gái đẹp (từ
chuyện Đông Đôn Hầu rất yêu quý nàng quý phi họ Phan, đã cho đúc sen bằng
vàng lát xuống nền nhà để cho nàng đi rồi khen “bộ bộ sinh lien hoa”-bước bước
nở hoa sen :
13


“Sen vàng lãng đãng như gần như xa”
“Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường”

Điển “hoa lê” chỉ người con gái đẹp
Điển “Giấc hòe” :
“Giấc hòe” do chữ “hòe an mộng” là giấc mộng về nước Hòe An. Truyện
“Nam Kha thái thú” của nhà văn Lý Công Tá đời Đường kể về chàng Hưởng Vu
Phần đã từng đảm chức sĩ quan nhưng vì nát rượu nên bị cách chức. Câu chuyện
được nhà văn Lâm Ngữ Đường trùng biên trong “Trung Quốc truyền kì tiểu
thuyết như sau: Vu Phần sống ở cố hương gần miền Quảng Lăng…Khoảng đất
trồng ở mé nam nhà chàng có một cây hịe rất to lớn, lão thụ. Dưới táng lá xum
xuê như cái lộng chàng thường cùng đám bạn vui say chè chén. Hưởng Vu Phần
thiêm thiếp ngủ say, vừa nhắm mắt thì thấy hai sứ giả áo tím đến chào y và nói:
Quốc vương Hịe An đương đợi tiên sinh đã phái xe ngựa ra đón mời tiên sinh
vào triều ngay cho… Vu Phần đến Hịe An quốc và được kết dun tần tấn với
cơng chúa Dao Phương đươc phong làm Nam Kha thái thú. Công chúa nhân
hậu, thương dân nên được nhân dân yêu q. Có cơng chúa ở bên nên Vu Phần
đả xử lí tơt nhiều cơng việc để làm gương cho nhan dân trăm họ. Với chàng đó
là cuộc sống thập tồn thập mĩ. Nhưng một năm qua vợ chàng bỗng cảm rồi lâm
bệnh qua đời. Chàng bỏ bê cơng việc tìm đến rượu giải sấu. Một hơm, hồng
hậu bảo Vu Phần hãy trở về nhà cho ngày tháng nguôi ngoai, sứ giả đưa chàng
trở về Quảng Lăng. Hưởng Vu Phần giật mình tỉnh dậy rồi thốt lên: Đời người
như giấc mộng à !. Chàng cầm dìu đào dộng dưới cây hịe thì phát hiện ra Hịe
An Quốc. Từ đó về sau Hưởng Vu Phần khác hẳn, chàng xuất gia làm sư, lại
ng rượu, ba năm sau thì chết. Trong “Cung ốn ngâm khúc”- Nguyễn Ga
Thiều điển này được viết là : “Giấc Nam Kha” :
“Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay khơng”
Điển này nói đến giấc mộng đẹp của chàng Kim, bước đi nhẹ nhàng
“tiếng sen” của nàng Kiều làm chàng tỉnh giấc.
14



2.1.2.3
“Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”
“Đỉnh Giáp non Thần” là đỉnh núi Vu Giáp có thần nữ ở. Chuyện về vua
nước Sở và bài phú “Cao đường” như sau: Đất Cao Đường bên cạnh đầm Vân
Mộng có ngọn Vu Sơn của dãy núi Vu Giáp ở tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc. Đời
Xuân Thu (722-480 tcn) vua Sở Tương Vương thường đến du ngoạn. Một hơm
vua đến đó say sưa ngắm cảnh ngủ dưới núi Vu Sơn. Trong lúc say ngủ vua thấy
một thiếu nữ nhan sắc thướt tha đến bên mình cùng chung chăn gối. Nàng nói
với vua nàng là tiên nữ của núi này. Từ điển tích này người ta dùng hai chữ
“mây mưa” chỉ việc ái ân, hạnh phúc.
2.1.3 Ý nghĩa của các điển cố mà Nguyễn Du sử dụng trong đoạn trích
“Truyện Kiều” là câu chuyện về cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của
nàng Kiều và cũng là câu chuyện về tình yêu. Với Thúc Sinh Kiều được hanh
phúc trong một gia đình, Từ Hải giúp nàng báo ân, báo ốn thì với Kim Trọng
nàng thật sự hạnh phúc trong tình yêu- một tình yêu với chất diễm tình lãng
mạn. Đêm “Thề nguyền” là kỉ niệm sâu sắc không bao giờ phai mờ trong suốt
mười lăm năm với bao lần chết đi sống lại của Kiều. Và để thể hiện tình yêu của
“người quốc sắc, kẻ thiên tài” những điển cố mà Nguyễn Du sử dụng thật đẹp,
thật lãng mạn. Những điển cố như: tiếng sen, giấc hòe, đỉnh Giáp non Thần…
gợi một tình yêu trong sáng, thủy chung, vị tha, cao thượng thể hiện khát vọng
tự do trong tình yêu.

15


2.2 Đoan trích: “TRAO DUYÊN”
2.2.1 Vị trí đoạn trích
Bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Kiều, nàng buộc phải
hi sinh ối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho chúng để cứu cha và

em khỏi đòn tra khảo dã man. Việc bán mình đã thu xếp xong xi Kiều ngồi
trắng đêm nghĩ đến than phận và tình yêu, rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay
mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích : “trao duyên” từ câu 723-756 là lời
Thúy Kiều nói cùng Thúy Vân và để diễn đạt câu chuyện tế nhị này Kiều đã sử
dụng nhiều điển tích, điển cố hàm súc, cơ đọng.
2.2.2 Các điển tích, điển cố
2.2.2.1 Điển :

“Keo loan” trong câu:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

“Keo loan” là một loại keo chế tạo bằng máu con chim loan. Loại keo này
nối dây rất chắc, tương truyền nói được cả dây cương. Sách “Bắc vật chi” chép :
Thời Hán Vũ đế có sứ nước Tây \Hải đem dâng vua năm lạng rưỡi keo bảo là
loại keo quý hiếm. Vũ đế cho cất vào kho năm lạng chẵn, còn nửa lạng nhà vua
bảo sứ thần cất giữ trong người vì nhà vua có ý cùng sứ thần đi săn.Hán Vũ đế
tổ chúc săn bắn ở Cam Tuyền. Dây cung bị đứt sứ thần dùng nửa lạng keo còn
lại gắn dây cung. Hán Vũ đế cho hai lực sĩ mỗi người nắm một đầu dây kéo thử
quả nhiên không đứt.
2.2.2 Điển

“nước non”
“ Ngày xn em hãy cịn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

“Nước non” theo “Lã thị Xuân Thu” : Bá Nha thời Xuân Thu thời xưa là
người giỏi đàn gặp và chơi thân với Chung Tử Kì là người sành nghe đàn. Một
hôm , Bá Nha đánh đàn cho Tử Kì nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến chốn non cao Tử
Kì bảo : “Thiện tai hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược thái sơn” (Đánh đàn giỏi

16


làm sao !Vòi vọi cao thay như núi Thái). Một lát, Bá Nha nghĩ đến chốn nước
chảy Chung Tử Kì nói : “Thiện tai hồ cổ cầm, đãng đãng hồ nhược lưu
thương”(Đánh đàn sành biết mấy! mênh mông thay như nước chảy). Khi Tử Kì
chết Bá Nha đập đàn khơng gảy nữa vì cho đời khơng cịn ai hiểu tiếng đàn của
mình. Rút từ điển này mà có chữ “tri âm” để nói người tri kỉ. Chữ “nước non” là
bởi chữ “cao sơn lưu thủy” người tri kỉ, tri âm.
2.2.2.3
“ Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chin suối hãy cịn thơm lây”
Điển tích “chin suối’ hay cịn được gọi bằng một tên khác là”suối
vàng’như là trong câu:
“ Gọi là gặp gỡ giữa đường
Họa là người dưới suối vàng biết chăng”
“Chin suối “ hay “suối vàng” là do chữ “ hoàng tuyền” là chi cõi âm
phủ,nơi linh hồn nghười đã chết cư ngụ. Các từ đồng nghĩa khác : cửu tuyền ,dạ
đài, tuyền đài.
Sau khi bán mình, trong đêm “trao duyên “ cho Thúy Vân ,Kiều than thở:
“ Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”
“ Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nươc cho người thác oan”
Khi nói đến tài đốn quẻ của thầy phù thủy Nguyễn Du viết:
“Trên Tam Đảo, dưới cửu tuyền
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng”
Sở dĩ gọi là “ suối vàng” hay “chin suối” vì con suối ở trong long đất mà
đất nói về màu sắc theo hệ thơng quy luật của ngũ hành thì thuộc màu vàng.
Liên quan đến diển tích này trong “Đơng chu liệt qc” hồi thứ tư có kể như

sau:
17


Vào đời Xuân Thu (722-479 tcn) ở nước Trịnh có Trịnh Vũ Công. Nhân
lúc nhà Chu suy yếu chiếm lấy cả đất Quắc, Khóa. Trịnh trở thành một nước lớn.
Vợ Trịnh Vũ Công là con gái thân hầu tên gọi Khương Thị, sinh được hái con:
con trưởng là Ngộ Sinh, con thứ hai là Đoạn
Khi Khương Thị đẻ Ngộ Sinh phải chịu nhiều đau đớn nên đặt tên là Ngộ
Sinh, ý khơng có người u mến. Bà u Đoạn, muốn cho Đoạn làm chủ nước
Trịnh nhưng Trịnh Vũ Cơng nói : “ Khơng nên làm dối loạn đạo lí” nên lập Ngộ
Sinh lamg thế tử, khi nối ngôi gọi là Trịnh Trang Công. Khương Thị ép Trịnh
Trang Công phải phong cho Đoạn đất kinh thành và muốn Đoạn chuẩn bị lực
lương để chiếm nước Trịnh. Lã công tử bàn kế với Trịnh Trang Công làm lật tẩy
âm mưu của Khương Thị. Đoạn xấu hổ tự tử, Trịnh Trang Công đau đớn lập một
lời thề : trừ khi nào xuống đến suối vàng mẹ con mới gặp mặt nhau. Khương Thị
dọn ra ở ấp Dĩnh. Quan phong hầu ở ấp Dĩnh là Dĩnh Khảo Phúc vốn là người
nhân hậu đã giải lời thề cho Trịnh Trang Công: sai đào đất sâu đến tận chin con
suối dưới lòng đất, làm một cái nhà cho quốc mẫu ở và mời Trịnh Trang Công
xuống gặp mẹ. Trịnh Trang Công cảm ơn Dĩnh Khảo Phúc làm cho tình nghĩa
mẹ con lại được trọn vẹn.
2.2.2.5
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
2.2.3 Ý nghĩa của các điển cố mà Nguyễn Du sử dụng trong “Truyện Kiều”.
Là một trong những đoạn thơ bi thiết nhất trong “Truyện Kiều”, “Trao
duyên” trở thành ví dụ minh họa rất điển hình cho luận điểm nói về lịng thương
người vơ hạn cũng như nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc biệt xuất sắc của Nguyễn
Du. Xét theo mạch tự sự của tác phẩm đoạn thơ thể hiện lời đáp của Thúy Kiều
đối với những câu hỏi thăm ân cần từ cô em Thúy Vân và sau đó là lời đề nghị

nhẹ nhàng của nàng mong Vân thay mình chắp tơ duyên cùng Kim Trọng.
Nhưng xét độ dài và tính liên tục của những lời Thúy Kiều nói ta lại có cảm
tưởng như đây là đoạn độc thoại nội tâm của người con gái đang trải qua một
18


cơn chấn động dữ dội về tâm lí, khi phải tự đau đớn lìa bỏ mối tình đầu nồng
thắm để làm tròn chữ hiếu. Những điển cố được Nguyễn Du dùng góp phần thể
hiện nỗi đau của kiếp người hay là bi kịch của con người cá nhân quá giàu nội
tâm và tràn đầy ý thức.
2.3 Đoạn trích : “ NỖI THƯƠNG MÌNH”
2.3.1 Vị trí và nội dung đoạn trích
Khi Mã Giám Sinh đưa Thúy Kiều đến nhà chứa của Tú Bà, Kiều đã
quyết liệt chống lại âm mưu biến nàng thành kĩ nữ nhưng cuối cùng nàng bị rơi
vào bẫy của Tú Bà buộc phải ra tiếp khách. Đoạn trích tả tình cảnh trớ true mà
Kiều đã gặp phải và nỗi niềm thương thân xót phận của Kiều (từ câu 12291248).
2.3.2 Các điển tích
2.3.2.1 Điển tích : “Lá gió cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh” trong
câu thơ:
“Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc , tối tìm Trường Khanh”
“Lá gió cành chim” có nghĩa là việc đón đưa khách làng chơi, như gió
đưa những ngọn gió qua lại , như cành đón những con chim nam bắc đi về. Sự
tích như sau: Đời nhà Đường(Trung Quốc) ở Thành Đơ tỉnh Tứ Xun nhà nho
Tiết Trịnh có người con gái tên Tiết Đào. Nàng đã đẹp lại thông minh. Cha đọc
hai câu thơ tả cây ngô đồng vươn lên trời cao, Tiết Đào đọc hai câu thơ ý nói :
“Cành đón chim nam bắc
Lá đưa gió qua lại”
Ơng giật mình lo buồn nhìn con gái xót xa, ơng nghĩ bụng đời con sau
không hiểu sẽ thế nào. Mấy năm trôi qua Tiết Trịnh chết, Tiết Đào phải bán cả

cửa nhà và cuối cùng phải bán mình lam kĩ nữ nuôi mẹ. Nàng rất tài hoa: làm
thơ, đàn hay, hát giỏi. Nàng gặp danh thơ Nguyên Chấn, hai người yêu nhau
thắm thiết. Rồi chàng phải vội ra đi vì việc triều đình, bao nước mắt nhớ thương
Nguyên Chấn hẹn ngày trở lại. Nhưng giặc kéo đến vây Thành Đô nơi nàng ở.
19


Nguyên Chấn long như lửa đốt vội tìm người đến tìm nàng nhưng khơng thấy.
Nàng rời bỏ ca lâu lui về nơi vắng vẻ rịi qua đời trong cơ đơn.
2.3.2.2
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xn là gì”
“Mưa Sở” :mưa ở Vu Sơn nước Sở chỉ quan hệ thân xác. Điển này cũng
được Nguyễn Du diễn đạt thành : “Đỉnh Giáp non Thần” trong đoạn trích “Trao
duyên”.
2.3.2.3
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai”
Điển tích “tri âm” cũng có nội dung tương tự như điển “lời nước non” ở
đoạn “Trao duyên” phía trên.
2.3.3 Cái hay của các điển tích trong đoạn trích: “Nỗi thương mình”
Với “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã là người thứ nhất trong văn học Việt
Nam làm nên một chuyện lạ lung, bắt độc giả nhiều thế hệ phải mê, phải bênh,
phải bảo vệ một người con gái giang hồ từng “ thanh lâu hai lượt, thanh y hai
lần”, từng thốt lên lời đoạn tuyệt với chữ trinh ngàn vàng : “chút long trinh bạch
từ sau xin chừa”. Có thể xem đây là một nghịch lí, một nghịch lí chỉ có nghệ
thuật thực sự mới thực hiện nổi khiến đọc giả từ đó nhận ra chân lí cuộc đời.
Nguyễn Du nói về những chuyện khơng hay ở chốn lầu xanh nhưng lại
được thể hiện bằng những câu điển tích rất hay, rất trang trọng. Điển “Tống
Ngọc_Trường Thanh” những văn nhân tài tử là sự đánh giá cao Thúy Kiều của

nhà văn: nàng là người phong lưu nên khách của nàng phải là người tài tử
Giữa các điển tích và hình ảnh ước lệ tác giả chen vào rất nhiều yếu tố
ngôn ngữ chỉ mức độ trong hoạt động như lả lơi,say,cười,sớm đưa,tối tìm,biết
bao, đầy, suốt, dập dìu. Với kiểu xử lí nghệ thuật đó, điển tích và hình ảnh ước lệ
không bị đông cứng lại thành những khái niệm khô khan mà vẫn mang dáng vẻ
cụ thể sinh động vẫn gợi được nhiều cảm giác nhàm chán gớm ghét.
20


Điển cố “tri âm” cho ta thấy Kiêù cô đơn biết bao giữa chốn phồn hoa ố
tạp ,là sự tự phẩm giá con người.Biết bao người hưởng thụ tài hoa ,sắc đẹp của
nàng.Sự tự đã vạch giữa ranh giới giữa nàng với môi trường phong trần để nàng
vẫn tiếp tục là một con người mang những nét lý tưởng mà Nguyễn Du cũng
như nhiều đọc giả trung thành với những giá trị nghệ thuật đạo đức truyền thống
mong muốn.
2.4

Đoạn trích:

CHÍ KHÍ ANH HÙNG

2.4.1 Vị trí và nội dung đoạn trích
Cuộc đời Kiều tưởng như bế tăc khi lần thứ hai rơi vào lầu xanh thì Từ
Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thốt khỏi cảnh ơ nhục. Hai người sống hạnh
phúc : “Trai anh hùng gái thuyền quyên- Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên
cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh
nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên nửa năm đã từ biệt Kiều ra
đi. Đoạn trích từ câu 2213 dến câu 2230 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngơn ngữ
Từ Hải cho thấy chí khí của chàng.
2.4.2 Các điển tích, điển cố.trong trích đoạn: “Chí khí anh hùng”.

2.4.2.1
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”
Điển tích “hương lửa” xuất hiện trong câu thơ. Thời xưa nam nữ khi thề
nguyền tình yêu chung thủy thường thắp đèn châm hương để cáo cùng trời đất,
thần linh. Do đo, “hương lửa” dùng để chỉ tình yêu.
2.4.2.2
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường”
“Tinh binh” xuất hiện trong câu thơ điển cố, “ tiếng chiêng” là biểu tượng
của chiến tranh

21


2.4.2.3
“Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia’
Bài “Địa u”(Kinh Thi) có câu: “Chi tử vu quy- Nghi kì thất gia”
( Người con gái về nhà chồng- Nên cửa nên nhà). Nghi gia ở đây có nghĩa là
người chồng đón người vợ về nhà.
2.4.2.5
“Quyết lời dứt áo ra đi
Giờ mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Thiên “Tiêu dao du” trong sách Trang Tử ( Nam Hoa kinh ) có truyện ngụ
. ngơn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước
trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chin ngàn dặm. Chim bằng trong thơ
văn thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hung có bản lĩnh
phi thường, có khát vọng làm nên sự nghiệp lớn. Nó tượng trưng cho khí phách
của người trượng phu.

2.4.3 Ý nghĩa của các điển cố
Trong các đoạn thơ kể về cuộc chia tay giữa : Thúy Kiều với Kim Trọng,
Thúy Kiều với Thúc Sinh Nguyễn Du luôn để nàng Kiều nói Lời sau hết. Điều
đó thật thuận tình và hợp lí. Nhưng trong đoạn thơ này Từ Hải là người chấm
dứt cuộc đối thoại thì Kiều cịn biết nói gì hơn. Nàng hiểu Từ Hải và tin chàng
một cách tuyệt đối ít nhất là trong thời điểm này. Đúng như nhan đề của đoạn
trích, những điển cố mà Nguyễn Du sử dụng chủ yếu làm nổi bật chí khí anh
hung của Từ Hải. Ai bảo khí phách anh hung của một kẻ nam nhi chỉ được thể
hiện rõ nét khi anh ta đứng giữa “ vòng tên đạn bời bời”. Nguyễn Du khơng
hồn tồn nghĩ thế. Ơng dụng tâm miêu tả cách sâu cách ứng xử của Từ Hải với
mĩ nhân, với hạnh phúc được sống cùng người mình thương yêu, qua đó làm nổi
bật cốt cách hơn đời có ở chàng.

22


Tiểu kết chương 2
Nguyễn Du sử dụng điển cố dưới hình thức từ Hán Việt, đồng thời “Việt
hóa” điển cố vay mượn nước ngoài đêtr nâng cao vốn từ dân tộc. Do đó, việc
dùng điển cố trong “Truyện Kiêu” của Nguyễn Du đạt thành tựu:
- Từ Hán Việt tạo nên sự cổ kính, trang trọng trong lời thơ, tạo nên màu
sắc văn học bác học đậm đà.
-Điển cố Nguyễn Du vay mượn của văn học thế giới (Trung Quốc) để
“Việt hóa” làm cho điển cố trở thành ngơn ngữ văn học dân tộc.

23


KẾT LUẬN
1 “Truyện Kiều” là tập đại thành của văn học Việt Nam thời trung đại và

việc dùng điển cố vào trong sáng tác “Truyện Kiều” là một phép tu từ mà
Nguyễn Du sử dụng rất thành cơng.
Điển cố đóng một vai trò quan trọng và chiếm một số lượng khá lớn trong
tác phẩm: “Truyện Kiều” nói chung, bốn đoạn trích trong SGK Ngữ văn 10 tập
2 nói riêng. Những điển cố được sử dụng rất nhiều lần mà vẫn linh hoạt, khơng
sáo rỗng để nói lên những điều cần nói. Ơng đã sử dụng điển cố theo hướng dân
tộc hóa, hiện đại hóa, làm cho câu thơ “Truyện Kiều” trở nên gần gũi hơn với
mọi người, câu thơ càng độc đáo lại càng quen thuộc với người đọc Việt Nam dễ
nhớ, dễ thuộc.
Viết “Truyện Kiều” Nguyễn Du sử dụng điển cố một cách linh hoạt
bằng những phương pháp khác nhau, rất ít khi Nguyễn Du dùng ngun điển mà
ơng chuyển hóa thành lời thơ làm cho “Truyện Kiều’ thêm phần uyên bác, cổ
kính, trang trọng, mà vẫn dễ hiểu, quen thuộc.
1 Số lượng điển cố mà Nguyễn Du sử dụng trong bốn đoạn trích là
phong phú và được ơng khai thác từ rất nhiều nguồn kinh, sử,truyện thơ.
Điển cố được ông khai thác từ nguồn kinh, sử, truyện thơ được xem là
những bài học giáo hấn về cách cư xử được truyền dạy từ đời này sang đời khác.
Các cốt truyện tạo sự hấp dẫn, thú vị cho người đọc. Điển cố mà không khai
thác ở nguồn kinh, sử, truyện có số lượng nhiều hơn ở thơ. Điển cố được
Nguyễn Du khai thác ở thơ hầu như là ở văn thơ Trung Quốc. Ông đã vận dụng
sáng tạo nguồn văn liệu nước ngoài làm giàu tiếng mẹ đẻ, mỗi một tình tiết tâm
lý, lời nói , tư tưởng, hiện tượng trong “Truyện Kiều” mang điển cố đều được
thể hiện qua những câu thơ giàu nhạc điệu, trữ tình, thâm thúy, chan thành bằng
nghệ thuật biến hóa những yếu tố vay mượn trên cơ sở hòa hợp xuất sắc giữa
truyền thống và sáng tạo cá nhân vafv dân tộc.
Điển cố có nguồn gốc từ thơ ca cũng được Nguyễn Du vận dụng vào
trong tác phẩm của mình. Tác giả sử dụng điển cô từ những câu thơ, những bài
thơ.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Đào Duy Anh (1974), Từ điển Truyện Kiều, Nxb KHXH, HN.
2 Đào Duy Anh (2003) , Từ điển Hán Việt, Nxb VHTT,HN.
3 Đào Duy Anh (2007), Khảo luận về Truyện Kiều, Nxb VHTT,HN.
4 Trần Hồ Phương (1996), Điển tích Truyện Kiều, Nxb Đồng Nai
5 Đặng Thanh Lê (2001), Giảng văn Truyện Kiều, Nxb GD, HN
6 Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 18 đến hết thế kỉ
20, Nxb GDHN
7 Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb
ĐHQG TPHCM.
8 Hà Nhi Chi (2000), Việt Nam thi văn giảng luận, NxbVHTT, HN.
9 Phan Ngọc (2003), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Nxb Thanh Niên, HN.
10 Đinh Gia Khánh (1975), Điển cố văn học, NxbGDHN.
11 Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, (1994), Nguyễn Du Truyện Kiều,NxbGDHN.
12 Nguyễn Tử Quang (1997), Điển tích Truyên Kiều,Nxb Đồng Tháp.
13 Phạm Đan Quế (2001) Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều, NxbVHHN.
14 Phạm Đan Quế (2002), Về thủ pháp nghệ thuật trong văn chương
Truyện Kiều, Nxb GDHN.
15 Phạm Đan Qué (2007), Những điển tích hay trong Truyện Kiều,
NxbGDHN.
16 Lê Quế (2004), Tìm hiểu Truyện Kiều, Nxb Nghệ An.
17 Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ điển điển cố văn học
trong nhà trường, NxbGDHN.
18 Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb GDHN.
19 Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu (1997), Điển cố văn học một trăm truyện hay
Đông Tây kim cổ, NxbGDHN.


25


×