Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Yếu tố phồn thực trong ca dao và trong thơ nôm hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.45 KB, 36 trang )

Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Văn học dân gian được ví như dịng văn học Mẹ bởi khơng chỉ phong phú
trong đề tài, sâu sắc về nội dung mà điều quan trọng hơn hết – chính từ nơi đây
đã ni dưỡng và hình thành nên linh hồn thơ mang tâm thức của ca dân tộc.
Là bộ phận văn học có lịch sử ra đời sớm nhất nên văn học dân gian mang
trong mình những nét đẹp nguyên sơ đầy ý vị. Nếu như VHDG được ví như bầu
sữa ngọt ngào , như những bông hoa đồng nội chứa đầy hương sắc thì ca dao
được ví như những bơng hoa đầy quyến rũ có sức hấp dẫn thật khó có thể chối
từ.Và dường như tất cả mọi âm thanh từ cuộc sống kia vọng lại đều được lưu lại
trong ca dao một cách dung di tự nhiên xong vẫn thấm nhuần triết lý nhân sinh
đầy sâu sắc. Và không đâu khác, bộ phận ca dao mang ý nghĩa phồn thực được
xem như một minh chứng sống động , đầy sức thuyết phục.
Trong Văn hóa Việt Nam, phồn thực là một tín ngưỡng tồn tại lâu dài
trong đời sống dân tộc. Tín ngưỡng này dễ dàng nhận thấy khi xuất hiện bằng
những hình ảnh vật chất, những biểu tượng văn hóa Linga-Yoni. Đặc biệt, những
yếu tố mang đậm tính chất phồn thực của yếu tố này còn được thể hiện một cách
sinh động, độc đáo trong kho tàng ca dao của cộng đồng dân tộc.
Không chỉ cá tác giả dân gian mới khai thác yếu tố phồn thực làm chất
liệu nghệ thuật của chính mình mà ngay các nhà thơ Trung đại cũng xem đây
như một “trái cấm” khiếm ai ai cũng có phần như sợ hãi xong thay vì tránh xa ,
trốn chạy, họ lai tìm đến với nó với biết bao điều bí hiểm, lý thú.Với đặc điểm
xa hội phong kiến Nho giáo ln cho đó là sự dâm, tục và đi ngược lại với đạo
đức Nho giaó bởi thế mà gia sức cấm đốn .
Ngược dịng thời gian trở về với dòng Văn học Trung đại Việt Nam, biết
bao vì tinh tú đã đã tỏa sáng tên mình dưới bầu trời đầy u ám của xã hội Phong
kiến. Nhắc đến thơ ca Trung đại sao có thể khơng nhắc đến nữ sĩ họ Hồ -người
được xem “một hiện tượng văn học độc đáo của Việt Nam và có lẽ của cả thế
giới”( Đỗ Lai Thúy ). Đặc điểm ấy thể hiện ở chỗ Xuân Hương không chọn cho
1



mình một nét văn phong trang nhã, cổ kính và phảng phất phong vị quý tộc như
một số các tác giả cùng thời (Đoàn Thị Điểm, bà Huyện Thanh Quan) hay
những đề tài thiên nhiên đúng với xu thế thời đại mà gị mình theo sự khắc
“khắc kỷ phục lễ” nơi “cửa Khổng sân Trình” mà Xn Hương đã hịa mình vào
cộng đồng, vào lời ăn, tiếng nói của nhân dân và cũng giống như nhân dân bà
lấy tín ngưỡng phồn thực làm tơn giáo của riêng mình –tơn giáo của sự sống gắn
iền với sinh sôi nảy nỏ một cách tự nhiên như những gì nó vốn tồn tại.
Với đề tài “ Yếu tố phồn thực trong Ca dao và trong thơ Nôm Hồ
Xuân Hương” không chỉ thỏa lý do yêu nếm ca dao dân ca, ngưỡng mộ tài
năng tuyệt bút Xuân Hương mà điều quan trong hơn hết một lần nữa giúp chúng
ta nhìn nhận lại cái gọi là dâm và tục trong thơ Xuân Hương thực chất là gì? và
nét văn nhóa tín ngưỡng phồn thực của dân gian được gửi gắm qua những bài ca
dao trữ tình đằm thắm.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Việc nghiên cứu về tín ngưỡng phồn thực và những biểu hiện cụ thể của
nó ở Việt Nam từ trước đến nay được chia thành những mảng sau:
2.1Nói về yếu tố phồn thực trong các sáng tác nghệ thuật đã khơng ít học
giả phải ‘lao tâm khổ tứ” và cũng tốn không biết bao nhiêu “giấy mực” về vấn
đề này.Các Giáo sư đầu ngành của văn học Việt Nam như: Chu Xuân Diên, Trần
Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm, Đỗ Đức Hiểu, Đinh Gia Khánh ….Trong các
trang viết về văn hóa đều giành cho tín ngưỡng phồn thực một sự quan tâm, ưu
ái đặc biệt. Chẳng thế mà giáo sư Trần Ngọc Thêm tùng đưa ra nhận xét: “những
trí tuệ bình dân nhìn thấy ở thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà
bái nó như thần thánh, kết quả là sự xuất hiện của tín ngưỡng phồn thực - tín
ngưỡng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người .....và có hai
dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh dục và thờ bản thân hành vi giao phối ”.Điều
đó có vai trị định hướng xun suốt và được xem như kim chỉ nam trong quá
trình xác định yếu tố phồn thực trong ca dao và trong thơ Hồ Xuân Hương.


2


2.2. Hồ Xuân Hương xuất hiện trên thi đàn văn học Việt nam với một
phong cách riêng độc đáo. Những năm cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 của
thế kỷ XX, giới nghiên cứu rộn lên với đề tài Hồ Xuân Hương. Nhưng do những
mục đích khác nhau, đối tượng khám phá và hướng tiếp cận cũng không giống
nhau nên mỗi một tác giả có một cách nhìn nhậm riêng và đánh giá khác nhau.
Bài viết của tác giả Nguyễn Hồng Phong (Theo lích sử văn hóa sơ giản, Nxb
Khoa học-1963).
Ở bài viết này tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa văn hoc dân gian với
thơ Nôm Đường luật Hồ Xuân Hương. Từ đó khẳng định Hồ Xn Hương là
“nữ sĩ bình dân ” có được điều đó là do Xuân Hương đã tiếp thu những tinh hoa
của nền Văn học dân gian.ở bài viết này tác giả đã nói một cách khái quát về
nội dung và nghệ thuật trong thơ Nôm Đường luật Hồ Xuân Hương.
2.3 Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thúy, 2010
Một phương diện rất quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến thơ Xuân Hương,
xét ở góc độ văn hóa được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến đó là văn hóa tín
ngưỡng phồn thực dân gian. Tác giả đã đi sâu tìm hiểu thơ Nơm Xn Hương ở
góc độ văn hóa học và thấy rằng thơ bà chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa, tín
ngưỡng phồn thực dân gian. Tác giả khẳng định : “thơ Xuân Hương chỉ có thể
và chỉ nảy nở trên cơ sở một nền văn hóa dâm và tuc của Việt nam và đến lượt
nó, lại bắt nguồn từ một tín ngưỡng phổ quát từ xa xưa được bảo lưu trên đất
Việt và in đậm vào tâm linh Việt – đó là tín ngưỡng phồn thực”. Tác giả cũng đã
tìm ra “đường dây lịch sử ” của văn hóa tín ngưỡng phồn thực là cơ sở sâu sa
của tâm linh người Việt, là nguồn gốc của văn hóa dâm tục và trên cái nền xã
hội ấy đã mọc ra một Hồ Xuân Hương.Trên cơ sở tìm ra nguồn gốc sâu xa ảnh
hưởng đến thơ Nơm Hồ Xn Hương là “ văn hóa, tín ngưỡng phồn thực” của
người Việt, Đỗ Lai Thúy đã đi vào nghiên cứu các ảnh hưởng của yếu tố phồn
thực trong thơ Nơm Hồ Xn Hương. Từ đó khái qt các vấn đề như : Hồ Xuân

Hương chịu ảnh hưởng của ‘tín ngưỡng phồn thực, văn hóa phồn thực, triết lý
phồn thực, mỹ học phồn thực đồng thời tác giả khẳng định “ bà là người phát
ngôn phồn thực ” , “ là nhà thơ của tín ngưỡng phồn thực ”.

3


2.4 Lại Nguyên Ân trong “ Tinh thần phục hưng thơ Xuân Hương” in
trong tập “ đọc lại người trước, đọc lại người xưa ” – Nxb hội nhà văn -1998
nhận xét rằng : “Xuân Hương đã làm sống lại trong văn học tiếng Việt - văn học
thành văn trong giai đoạn Cổ điển của nó cả một truyền thống văn hóa phồn
thực hùng hậu. Văn hóa đã hình thành từ lâu và sống bền vững trong đời sống
dân gian”. Bà đã đem đến cả phương tiện, chất liệu và tinh thần của văn hóa
phồn thực vào văn học, giải phóng văn học ra khỏi xu hướng khắc dục, “bà đem
vào văn học cả tinh thần thế giới quan của văn hóa dân gian lẫn phương tiện
nghệ thuật đặc thù của nó”.
2.5

“Lạm bàn về thơ Xuân Hương” của Trần Khải Thanh Thủy có viết:

“Phải chăng trong huyết quản Xuân Hương có một dịng văn học dân gian mang
đậm tính phồn thực, ngày đêm tha thiết chảy nhờ tiếp cận với những ý niệm
phồn thực” , cách nói lái, chơi chữ của các bậc tiền bối trong “Kho tang văn hóa
dân tộc” mà bằng tài năng xuất chúng bà đã nhìn thấy và vận dụng được ngay.
Chất liệu thô mộc, đặc sắc trong câu đố cổ nói riêng, văn học dân gian nói
chung, nhờ cái nhìn nghịch ngợm, độc đáo, tinh quái của bà liền được khai thac,
pha chế, nâng cấp, trở lại thành biến hóa, tung hứng khơi gợi hơn.
Như vậy, từ những cơng trình nghiên cứu của các học giả hàng đầu tôi
nhận thấy rằng: các nhà nghiên cứu từ xưa đến nay, dù ít hay nhiều, dù trực tiếp
hay gián tiếp đều thừ nhận sự ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực trong ca dao

và trong thơ Hồ Xuân Hương. Trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm và kết quả
nghiên cứu của những người đi trước, ở đề tài này tơi sẽ cố gắng trình bày một
cách cụ thể , đầy đủ và có hệ thống sự ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực
trong ca dao và trong thơ Xuân Hương. Đồng thời một lần nữa nhằm khẳng định
những sáng tác của Xuân Hương đã kế thừa và tiếp thu vốn văn hóa , văn học
dân gian trên một phong cách nghệ sĩ đầy cá tính của cái tơi cá nhân Xn
Hương.
3.Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu “Yếu tố phồn thưc trong Ca dao và trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương” nhằm làm rõ sự tồn tại của yếu tố này trong ca dao và ý nghĩa của nó
đối với văn học và cuộc sống .Đồng thời thấy được sự ảnh hưởng của yếu tố dân
gian mà cụ thể hơn nữa chính là yếu tố phồn thực trong thơ Nôm Xuân Hương.
4


Qua đây, khơng chỉ góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ một số khía cạnh
khá thú vị trong văn hóa, văn học dân gian nói chung mà hơn thế nữa, chúng ta
một lần nữa được nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí và tài năng của “bà Chúa
thơ Nôm - Hồ Xuân Hương” trong nền thi ca dân tộc.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Để tìm hiểu “Yếu tố phồn thực trong Ca dao và trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương ” người thực hiện đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Khảo sát, phân loại.
 Phân tích, tổng hợp.
 So sánh, đối chiếu.
 Khảo sát, đánh giá.
5.Phạm vi nghiên cứu.
Để giải quyết yêu cầu dặt ra, việc nghiên cứu được tập trung chủ yếu vào
khảo sát những lời ca dao chứa nội dung phồn thực đươc tập hợp trong “Kho
tang ca dao người Việt”(2 tập) do Giáo sư Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Nxb

Văn hóa thơng tin Hà Nội, 2001. Và “Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực”
của tác giả Đỗ Lai Thúy (Nxb Văn học, 2010)
Ngoài ra, các bài thơ bài thơ của những tác giả Trung đại mang sắc thái
phồn thực cũng không nằm ngoài sự quan tâm của đề tài.
6. Bố cục của khóa luận.
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được bố cục trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2 : Biểu hiện của yếu tố phồn thực trong ca dao và trong thơ Hồ
Xuân Hương.
Chương 3: Ý nghĩa của yếu tố phồn thực trong ca dao và trong thơ Hồ
Xuân Hương.

5


CHƯƠNG 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa Việt Nam.
Tín ngưỡng phồn thực là một hiện tượng tơn giáo phổ biến trong đời sống
nhân loại.Nó ra đời từ rất sớm và có mặt ở hầu hết mọi nơi trên trái đất và
thường phát triển mạnh mẽ hơn trong các nền Văn minh nơng nghiệp.Thực chất
của tín ngưỡng phồn thực (Phồn = nhiều, thực = nảy nở ) đó chính là khát vọng
của sự sinh sơi nảy nở , mùa màng bội thu, gia đình đơng đúc . Hạt nhân của tín
ngưỡng phồn thực là các biểu tượng về sinh thực khí và hành vi giao phối làm
đối tượng biểu hiện.
Ở khắp nơi trên thế giới , tín ngưỡng phồn thực đều có mặt tồn tại như
một dạng thức văn hóa của cộng đồng.
Ở những “chiếc nơi văn minh ” lớn của thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ,
tín ngưỡng thực được hình thành và phát triển thành vũ trụ luận hoặc thành một
nền văn hóa mang ý nghĩa tính dục nhờ có một tầng lớp thị dân lao động đơng

đảo hoặc nhờ có một tầng lớp q tộc cha tryền con nối.
Ở Việt Nam,tín ngưỡng phồn thực cũng gắn mình trong chiếc nơi của nền
văn hóa Phương Đơng.Theo các tư liệu nghiên cứu tiền sử học thì tín ngưỡng
phồn thực đã tồn tại và phát triển từ rất xa xưa.Tuy vây, cũng khơng phải ngẫu
nhiên mà nó tồn tại được cho đến ngày nay như một thực thể đầy sống động mà
thứ tôn giáo ấy đã ăn sâu vào đời sống tâm linh người Việt và được bảo tồn
trong cái nôi của làng xã cổ truyền qua các biểu tượng mang tính chất tượng
trưng, trong các tập tục văn hóa mang đậm nét tâm linh: tục thờ cúng , sinh hoạt
lễ hội, điêu khắc, kiến trúc, hội họa….
Như vậy, tín ngưỡng phồn thực khơng chỉ mang trong mình vị trí quan
trọng mà nó cịn để lại đấu ấn đăc biêt trong đời sống văn hóa tâm linh người
Việt. Tuy nhiên, trong q trình phát triển tín ngưỡng này ít nhiều chịu sự tiết
chế do những quy phạm đạo đức của Nho giáo chi phối.Do vậy, nó đã bị vùi sâu
, lấp kín vào sâu trong tiềm thức của mỗi người nhưng khi gặp điều kiện thuận
lợi tất yếu nó sẽ “đâm chồi nảy lộc” và mang trong mình một sức sống mới. Và
một thực tế cho thấy ở nước ta các nghệ sỹ đã nhìn nó bằng cặp mắt xanh non
với vẻ đẹp lung linh của ngôn ngữ.

6


CHƯƠNG 2
BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ PHỒN THỰC TRONG CA DAO VÀ TRONG
THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG.
2.1 Những lời ca dao đề cập đến sinh thực khí.
Từ thời Hy Lạp cổ đại và thời kỳ phục hưng đã xuất hiện rất nhiều những
bức tranh khỏa thân – sự sùng bái ấy có ý nghĩa hồn thiện con người, có khía
cạnh đạo đức chứ khơng phải là thân xác. Đó là ý thức sâu sắc về những gì tiềm
ẩn trong vẻ đẹp của con người và là nguồn cảm hứng để tạo nên những xúc cảm
thẩm mỹ.

Sự trở về với những biểu tượng phồn thực thời cổ xưa, trong dân gian và
ca ngay trong thơ Xuân Hương của ngày hôm nay đươc chiếu rọi bằng ánh sáng
mới của thời đại. Chính vì thế mà các biểu tượng phồn thực không đơn thuần tồn
tại ở trình độ dân gian nữa mà nó đã được nâng lên trình độ bác học, đi vào Cổ
điển.
Linga và Yoni _sinh thực khí là cơ quan sản sinh mà bà mẹ của tạo hóa đã
ban tặng cho thế giới lồi người nhằm duy trì giống nịi, ổn định trật tự xã hội.
Văn hóa phục hưng được ra đời từ thời cổ xưa và như một quy luật tự nhiên,nó
đã ăn sâu vào tiềm thức của lồi người và cho đến ngày hơm nay, nét văn hóa
ấy vẫn cịn tồn tại và được bảo lưu không chỉ trong các tác phẩm nghệ thuật như
hội họa, kiến trúc, điêu khắc...mà nó cịn được bảo lưu trong các lễ hội văn hóa
và trị chơi dân gian.
Khơng chỉ với những người bình dân , sự giản dị trong cuộc sống đã khéo
léo đưa những hình ảnh “tế nhị” trên cơ thể con người vào sáng tác thơ ca và đặc
biệt trong ca dao mà ngay cả trong thế giới thơ ca bác học ta cũng bắt gặp khơng
ít những hình ảnh ngồn ngộn sinh thực khí nữ mà điển hình nhất có lẽ phải nhắc
đến bậc thiên tài kỳ nữ của nền thi ca dân tộc “nữ sĩ Xuân Hương”.
2.1.1 Những lời ca đề cập đến sinh thực khí nam.
Từ xa xưa vị trí của người nam giới đã được khẳng định và đề cao trong
gia đình và ngồi xã hội.Văn chương nghệ thuật chính sự phản ánh thế giới
7


khách quan thông qua ý muốn chủ quan của tác gỉa nghệ thuật. Từ hiện thực đời
sống nên phần lớn hình ảnh của các đấng mày râu ít được xem là tâm điểm của
các cuộc họp bàn trong nghệ thuật.Nói thế để biết rằng sự xuất hiện hình ảnh
“sinh thực khí nam ” trong tho ca nõi chung là khong nhiều xong khơng phải vì
lý do ấy mà nó lại xuất hiện một cách “vụng về” mài trái lại, nó được xuất hiện
dưới những ca từ hết sức độc đáo chứa đầy ý nghĩa nhân sinh quan sâu sắc.
Trở lại với kho tàng ca dao dan ca, một lần nữa ta lại được dịp đắm mình

trong hơi thở của hương đồng gió nội gọi cho ta đày những mộc mạc, gần gũi,
thân thương. Bên cạnh những lời ru mượt mà êm ả chúng ta cịn được nhìn nhận
ca dao dưới một góc độ mới cũng khơng kém phần lý thú- đó chính là những lời
ca ngồn ngộn sinh thực khí, ngồn ngộn sức sống.
- Em đừng khinh anh quân tử nhỏ nhoi,
Con Lươn bao lớn nó soi lủng bờ.
-Em đừng thấy nhỏ mà rầu,
Con Ong bao lớn đốt cái bầu cù queo.
-Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh,
Con Thằn Lằn bao lớn ơm cột đình tổ cha.
Tác gải dân gian đã rất ý tứ , tế nhị khi đề cập đến “cái ấy” của đáng mày
râu. Bằng việc mượn hình ảnh của một số con vật gần gũi trong đời sống như:
con Lươn, con Thằn Lằn, con Ong, cái Kiến...tác giả đã khéo léo truyền tải được
cái thông điệp đầy ý nghĩa đến với đọc giả qua lối miêu tả đầy độc đáo.
Khơng chỉ mượn hình ảnh lồi vật để gián tiếp đề cập đến sinh thực khí
nam mà tác giả dân gian cịn đưa cả những vật dụng thơng thường trong đời
sống hàng ngày thay lời miêu tả trục tiếp đén bộ phận kín của người nam giới.
Dù cho béo tốt đến già,
Cho dù béo tốt cũng là toi cơng.
Bây giịi pháo đã tịt ngịi,
Gia tài cịn lại một vòi nước trong.

8


Bằng cách nhìn đầy hóm hỉnh, thơng qua các hình ảnh của pháo, của vòi
nước để gợi tả “cái ấy” của người Nam giới và không chỉ là sự miêu tả một cách
đơn thuần tác giả còn muốn gủi gắm một ý nghĩa mang tính quy luật mang ý
nghĩa thời gian khi xuân qua đi chỉ để lại cho đời những xào xạc của lá khô rơi
và cành trơ trụi lá. Những mặn nồng của hạnh phúc ái ân qua đi để lại biết bao

nhiêu ngậm ngùi tiếc nuối. Sâu xa hơn nữa tác giả dân gian còn đưa đến cho
chúng ta một quan niệm nhân sinh về cuộc sống vợ chồng : hãy biết quý trọng
giá trị của tuổi xuân, của hạnh phúc một cách trọn vẹn.
Bên cạnh những từ ngữ mang ý nghĩa biểu trưng đầy ý tứ ca dao cũng
không kém phần táo bạo khi thẳng thắn miêu tả:
Yếm thắm anh ngỡ là cị,
Anh quỳ gối xng, anh thị hỏa mai.
Hay như:
Thương em đút cặc qua rào,
Khơng thương rút lại gai cào rách da.
Cũng có khi lại là sự miêu tả một cách thuần túy:
Chẳng thà nó nhỏ mà cong,
Cịn hơn tổ bố nửa trong nửa ngồi.
Chẳng thà nó nhỏ mà dài
Cịn hơn tổ bố nửa ngồi nửa trong.
Nói về sinh thực khí, bên cạch chức năng “thiên bẩm ” – duy trì sự tồn tại
và phát triển của giống nịi thì nó cịn như ngọn lửa tình để sưởi ấm hạnh phúc
gia đình.Chẳng thế mà dân gian có câu:
Mù u ba lá mù u,
Vợ chồng cãi lộn con cu giải hòa.
Ca dao đâu chỉ là những lời hát ru dịu êm của mẹ, của bà mà ca dao còn là
kho tàng của kinh nghiệm quý báu của đời sống xã hội.
Hình ảnh và ý nghĩa của biểu tượng sinh thực khí nam trong ca dao là thế
còn đối với thơ Xuân Hương những biểu tượng ấy khơng đơn thuần cịn là
9


những định ước nghệ thuật nữa mà nó đã mang trong mình một sức sống đầy
mới lạ.
Qua khảo sát 50 bài thơ Nôm của Xuân Hương chúng ta bắt gặp có tới

19 từ ngữ nói về sinh thực khí nam.Đó cũng là điều tương đối dễ hiểu bởi thơ
Xuân Hương chính là thơ của phồn thực, thơ của cc sống trần thế với biết bao
khát khao của sự sinh sôi nảy nở của con người và vạn vật trong trái đất này.
Với đủ mọi cung bậc khác nhau của cảm xúc, những hình ảnh sinh thực
khó ấy cũng dần dần được hiện lên khi thì nhẹ nhàng kín đáo kiều như:
- Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này cuả Xuân Hương mới quệt rồi.
- Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Cũng giống với ca dao dân ca, thơ Xuân hương rất gần gũi, thân quen với
cuộc sống dân giã thường ngày bởi thế những sự vật vốn nhỏ bé, đời thường
(quả cau, con cò) cũng được đưa vào thơ ca như một chất liệu khơng thể thiếu để
tạo nên cơng trình nghệ thuật. Sự bất bình đẳng trong xã hội là nghuyên nhân
của những lời ca phản kháng, và Xuân Hương cũng đã mượn cái ấy của người
đàn ông mà quăng vào xã hội ấy để vừa như một thách thức, vừa như phản
kháng lại những luật lệ hà khắc của xã hội “ nam tơn nữ ti” đầy phi lí kia.
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây chị dạy cho làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa r,ữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
Hay như:
Chơi xuân có biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.
Miêu tả một cách gián tiếp hình ảnh bề ngồi sinh thực khí xong điều
quan trọng hơn nữa là tác giả muốn phê phán sự thờ ơ vô trách nhiệm của người

10


đàn ơng đằng sau mỗi cuộc tình nồng đậm thì người phụ nữ là nơi tiếp nhận

những lạnh lùng và đôi khi là sự hụt hẫng, ám ảnh họ đến suốt cuộc đời.
Dưới sự quan sát đầy tinh tế, Xuân Hương đã để cho những hình ảnh sinh
khí xuất hiện một cách tự nhiên trên nhiều sự vật và hoàn cảnh khác nhau.
- Chày kình tiểu để sng khơng đấm.
- Trống thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
- Hai chân đạp xuống năng năng nhấc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Tất cả những hình ảnh như: nọc, sừng, chày,dùi, suốt…đều có ý nghĩa thị
phạm ma thuật gián tiếp nói đến sinh thực khí nam giới.và cũng giống với ca
dao, những yếu tố chỉ sinh thực khí nam trong thơ xuan hương có vai trị quan
trọng trong việc làm nên một phong cách thơ độc đáo – phong cách thơ Xuân
Hương.
2.1.2. Những lời ca đề cập đến sinh thực khí nữ.
Khơng giống với nam giới, hình ảnh người phụ nữ được xem như nguồn
cảm hứng bất diệt trong nghệ thuật đặc biệt trong thi ca với đủ mọi cung bậc
cảm xúc khác nhau, ca dao dân ca và thơ Xuân Hương đã đưa hình ảnh người
phụ nữ hiện lên dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong ca dao, sự xuất hiện của
người phụ nữ thường gắn liền với sự tần tảo đảm đang xong vẫn khơng kém
phần tội nghiệp :
Cái cị lặn lội bờ sơng,
Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non.
Những cảnh “bếp bênh” về thân phận và cuộc đời của người phụ nữ đã
được ca dao xưa gửi gắm vào những bài ca dao than thân trách phận của người
phụ nữ với biết bao nghẹn ngào sâu cay.
Thân em như chổi đầu hè,
Phịng khi mưa gió đi về chùi chân.
Chùi rồi lại vứt ra sân,
Gọi ơng hàng xóm có chân thì chùi.
11



Nói đến người phụ nữ xưa tác giả dân gian cũng đâu có tiếc lời để ngợi ca
vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho họ:
Cổ tay em trắng như ngà,
Đôi mắt em sắc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen.
Vẻ đẹp của người phụ nữ được ví như dịng suối mát lành cho ngọn nguồn
cảm xúc nghệ thuật. Phụ nữ Phương Đơng nói chung và phụ nữ Việt Nam nói
riêng đều mang trong mình nét tính cách nổi bật đó chính là sự e dè, tế nhị. Đặc
biệt trong chế độ Phong Kiến thì người phụ nữ ln bị đặt dưới sự kiềm tảo đầy
hà khắc của đạo đức Nho gia “nam nữ thụ thụ bất tương thân”, họ dường như bị
biệt lập với thế giới bên ngồi, ln phải ép mình trong cái khn của “tam
tịng, tứ đức” vì thế ca dao ln được xem như một người bạn tâm giao,là nơi để
bày tỏ những nỗi niềm sâu kín khơng biết chia sẻ cùng ai và đơi khi cịn là
những nỗi ấm ức, hờn tủi khơn ngi.
Sáng tháng năm em tưởng tối trời,
Em ngồi em để cái sự đời em ra.
Sự đời như cái lá đa,
Đen như mõn chó chém cha sự đời.
Cái sự đời hay chính là sự bất mãn đối với cuộc đời, không dám chửi
thẳng vào xã hội phong kiến – nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất của những trái
ngang đàng đè nặng trên đôi vai họ . Muốn văng ra một câu thật tục mà chửi cho
hả lòng hả dạ ,”cho sướng cái lỗ mồn” nhưng cùng lắm họ cũng chỉ dám mượn
những hình ảnh của chiếc lá đa để thay cho “cái ấy” của mình mà quăng vào chế
độ xã hội.
Khơng chỉ dùng “cái ấy “ của mình để đả phá vào xã hội mà ca dao xưa
cịn muốn thơng qua đó để nói lên cái khát vọng, ước ao có được những hạnh
phúc chính đáng mà tạo hóa dành cho mỗi con người.


12


Trèo lên cây khế nửa ngày,
Váy thì trụt mất lưỡi cày thị ra.
Lưỡi cày ba góc che ba,
Muốn đem địn gánh mà tra lưỡi cày.
Mượn hình ảnh thực của chiếc lưỡi cày – sự vật hết sức quen thuộc trong
đời sống thường ngày nhằm phác họa một cách sinh động đầy tinh tế cái “Khuôn
vàng” của người phụ nữ.Và không chỉ có thế khi người bình dân xưa cịn ước
ao:
- Ước chi em hóa ra xơi,
Anh như gà cộc lại ngồi lên trên.
Ước chi em hóa ra bừa,
Anh hóa ra chạc kéo trưa sáng chiều.
- Ước chi anh hóa ra chày,
Em hóa ra cối giã ngày giã đêm.

13


Nhu cầu hạnh phúc ái ân là một như cầu chính đáng mang tính bản năng
của mỗi con người “thịt da ai cũng là người” (Nguyễn Du) thế thì tại sao lại chỉ
có nam giới mới được quyền khát khao, mới được quyền đòi hỏi mà người phụ
nữ họ cũng có quyền lắm chứ. Những ước muốn nghe có phần hơi ngộ nghĩnh
ấy thực chất là những ước ao những nhu cầu mang tính bản năng, tự nhiên vốn
có ấy bên trong mỗi con người.
Xã hội Phong Kiến luôn đặt ra một khuôn khổ để ép con người ta phải
sống theo khn mẫu chứ khơng được phép sống với chính mình.
Trai thời Trung Hiếu làm đầu

Gái thời Tiết Hạnh làm câu chau mình.
(Nguyễn Đình Chiểu)
Xét về một phương diện nào đó của đạo đức thì vấn đề trên khơng có gì
đáng nói xong sự việc nào cũng có những ranh giới và giới hạn nhất định , sự gò
ép lắm rồi cũng đến lúc phải “tức nước vỡ bờ”
Một mai trống thủng còn vành ,
Lấy da trâu bịt lại cũng lành như xưa.
Chơi cho thủng trống long bồng,
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiên.
Chơi cho thủng trống long chiêng,
Rồi ra ta sẽ lập nghiên lấy chồng.
Như lời thách thức lại xã hôi, cô gái trong bài ca dao trên tạo cho mình
một chữ “ngơng” như là sự thể hiện mọt cá tinh xong cũng chính là sự cười phỉ
báng vào cái gọi là “Trai năm thê bảy thiếp.Gái chính chuyên một chồng”của xã
hội Phong kiến.
Miêu tả vẻ đẹp của người phụ nư văn chương bác học thường mượn
những hình ảnh của “trăng, hoa tuyết, nguyệt” – những vẻ đẹp có tính vĩnh
hằng và cũng là những gì tinh khơi nhất nhằm miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ.
Ấy thế mà ta thử nhìn lại xem tác giả dân gian đã miêu tả vẻ đẹp ấy ra sao.
14


- Vú em như quả mướp hương,
Tay anh Phật thủ đôi đường gặp nhau.
- Vú em như cái chụm cau,
Cho anh bóp với có đau anh đền.
- Con gái chơi với con trai,
Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa.
Cuộc sống dân dã đã tạo cho các tác giả văn học dân gian thú văn phong
rất đỗi giản dị, gần gũi. Chẳng thế mà vẻ đẹp của các cô tấm nơi thôn dã cũng

không thể tách bạch với nét mộc mạc, chân chất, nơi hương đồng gió nội. Sự
tinh tế của các tác giả văn học dân gian một lần nữa lại được khẳng định bởi:
Chị em tắm mát ngọn sơng đào,
Của em thì trắng của chị sao tham thế này.
Chị thâm tại bởi anh mày,
Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm.
Chỉ bằng một chi riết rất nhỏ trên cơ thể người phụ nữ mà cho chúng ta
biết về cuộc sống riêng tư của mỗi người.Thế mới biết ca dao sấu sắc biết
nhường nào.
Văn học dân gian nói chung và ca dao dân ca nói riêng e de là vậy xong
cũng không kém phần táo bạo, chẳng thế mà ta co cơ hội để bắt gặp lời phát
ngôn trong dân gian:
Đẻ con khôn mát L rười rượi,
Đẻ con dại thảm hại cái L.
Cha ơng ta có câu “có ni con mới biết lòng cha mẹ ” thấu hiểu được
điều đó ta mới có thể hiểu và cảm thơng cũng như sẻ chia một cách chân thành
vói lịi ca có phần “ tục ” này.
Sự xuất hiện “cái ấy” của người phụ nữ trong ca dao trên bề mặt ngôn từ
có phần “trần trụi” đơi khi cịn vì mục đích để tạo ra tiếng cười nhằm mục đích
quên đi những nhọc nhằn, vất vả khi phải suốt ngày quần quyật với công việc.

15


Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trịn,
Hai cái lơng cái dài cái ngắn.
Hỡi nàng má đỏ hồng hồng
Cổ cao, miệng rộng, lông L vắt vai.
Mười lăm, mười sáu lông quăn mép L
Và đôi khi lại là “cười khi trước mặt rơi châu vắng người ” khi người phụ

nữ ấy rơi v tình cảnh đầy trớ trêu:
Tiếc thay cây mía ngọt sâu,
Tiếc thay con gái tốt à cái bím bầu không lông
Sự tế nhị ấy của người phụ nữ đã được người bình dân đưa vào ca dao
một cách thẳng thắn pha với nỗi niềm tiếc thay và nỗi niềm chia sẻ, cảm thông
đầy chân thành, chất phác.
Viết về “cái ấy ” của người phụ nữ bằng tất cả những gì quan sát từ
những bất nãm trong xã hội, bất mãn với những cuộc đời và đơi khi với chính
bản thân mình của người phụ nữ . Cũng có biết bao cung bậc cảm xúc của người
phụ nữ được tác gỉa dân gian gửu gắm vào những bài ca dao nhằm nói lên
những ước ao thầm kín về những điều khó nói khơng biết chia sẻ cùng ai đã
được gửi gắm vào gười bạn tâm giao - ca dao dân ca một cách hồn nhiên đầy dí
dỏm xong khơng kém phần tinh tế, tài tình.
Thơ ca chính là tiếng lịng của tác giả,xn Hương ln sống với tâm thức
được hịa mình vào cuộc sống của nhân dân đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội
Phong kiến đang bước vào độ suy vi , tác giả phải tận mắt chứng kiến biết bao
cảnh đời ngang trái từ những luật lệ hà khắc của chế độ phong kiến chà đạp lên
cuộc sống của con người có lẽ bất hạnh hơn cả vẫn là những người phụ nữ
Thơ Xn Hương chính là lời nói tâm tình của người phụ nữ xưa, đứng
hẳn về phái họ mà ngượi ca, cảm thông và bênh vực họ.
Thân em vừa trắng lại vừa trịn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
16


Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lịng son.
Khơng chir ngợi ca vẻ đẹp hình thể cua người phụ nữ mà Xuân Hương
còn ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong con người họ. Vẻ đẹp dung dị, của người
phụ nữ thật dễ khiến cho người ta phải say lịng mà Xn Hương cịn dùng

những ngơn từ đầy tế nhị ý tứ với những hình ảnh của miếng trầu hay cái quạt.
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
(Mởi trầu)
Hay như:
Mười bảy hay mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc ,
Rộng hẹp dường bào cắm một cay.
(Vịnh Quạt)
Dưới chế độ phong kiến vai trị của họ dường như khơng được tồn tai nói
gì đến việc lấy vẻ đẹp của họ mà ngợi ca, mà nâng nưu chân trọng. Xuân Hương
không chỉ đề cao, ngợi ca vẻ đẹp của họ mà bà còn đả phá những Vua quan
Phong kiến luôn miệng cấm kỵ và đả phá, xong thực chất bên trong thì:
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày,
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.
Chúa dấu vua yêu một cái này.
(Vịnh cái quạt)
Và không ai khác ,mà chính các bậc hiền nhân quân tử cũng mắc phải
điều cấm kị do chính mình đặt ra khi bắt gặp cảnh “thiếu nữ ngủ ngày”,người
quân tử ấy đã phải “dung dằng đi chẳng dứt, đi thì cũng dở ở khơng xong”.
Tạo hóa đã ban phát cái đẹp cho người phụ nữ và như một quy luật của
cuôc đời cái đẹp ấy cũng có thể sinh ra và mất đi bời thế mà cái đẹp của họ một

17


lần nữa như được bà mẹ của tạo vật tạc vào với dáng hình của sơng núi như một
ước mong của sự trường tồn vĩnh cửu không bao giờ mất đi.
Bầy đặt kìa ai khéo khóe phịm,

Nứt ra một lỗ hổm hồm hom.
( Động Hương Tích)
Trời đất sinh ra đá một chịm,
Nứt làm đơi mảnh hỏm hịm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thơng reo vỗ phập phịm.
(Hang Cắc Cớ)
Khen ai con tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương gian biết mấy ngồm.
(Hang Thanh Hóa)
Thậm trí tác giả cịn mượn cả hình ảnh của vầng trăng - tượng trưng cho
cái đẹp thuần khiết đến vĩnh hằng để miểu tả vẻ đẹp của người phụ nữ.
Một trái trăng thu chin mõm mòn
Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom
Giữa in chiếc bách khn cịn méo
Ngồi khép đơi cung cách vẫn khịm.
(Trăng thu)
Bên cạnh những hình ảnh thiên nhiên tác giả cịn mượn cả cảnh của cuộc
sống sinh hoạt thường nhật gắn bó với con người đầy mật thiết nhằm một lần
nữa khẳng định, đề cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội,
đi ngược lại với những gì mà xã hội Phong kiến phủ nhận.
Bác mẹ sinh em phận ốc nhồi,
Ngày đêm lăn lốc đám cỏ hơi.
Qn tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngốy lỗ trôn tôi.
(Ốc Nhồi)
18


Hay như:

Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó xù xì múi nó dày.
Qn tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
Thậm trí ngay cả cơng việc tát nước tưởng chừng như rất đỗi bình thường
kia cũng được tác giả đưa vào thơ bằng những hình ảnh hết sức độc đáo.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Một cá tính xuân Hương sống trong xã hội Phong kiến , nàng đã khơng
tiếc lời khen về cái đẹp của tạo hóa khi dày công taọ nên cảnh vật và cũng
không ngớt lời để ngợi ca cái đẹp trần thế mà tạo háo đã ban phát cho người phụ
nữ. Khát khao được tự do, khát khao được sỗng với chính mình là ước ao đầy
cháy bỏng của biết bao phụ nữ thời bấy giờ và hơn ai hết, cùng với tài năng và
cá tính của mình Xn Hương đã cất lên lời ca của sự sống, sự phồn thực như
những gì vốn tồn tại trong tâm thức văn hóa người Việt.

Thiếu nữ ngủ ngày

19


2.2. Những lời ca đề cập đến hành vi giao phối
Giao phối là mọt như cầu mang tính bản năng của mn lồi trên trái đất.
Với con người thì hành động tính giao cịn là một hành vi nhằm duy trì nịi
giống, đảm bảo sự tồn tại, ổn định của xã hội.Trong xã hội Phong Kiến thì
dường như khơng có chỗ dành cho cái gọi là tiếng nói cá nhân mà chỉ có tiếng
nói một chiều – “bề trên” đối với “bề dưới” nhằm hướng các cá nhân trong cộng
đồng ấy nhất nhất phải hành động vì lợi ích của Vua quan Phong Kiến.Chính vì
sự triệt tiêu một cách triệt để cái “bản ngã” nên cái gọi là ” hành vi tính giao”
của con người bị xem là dâm dục và bị “bưng bít” một cách triệt để.

Hoạt động tính giao là một hành động mang tính tự nhiên , bản năng của
lồi người:
Trai nằm xấp, gái thở dài
Đó là việc rất

bình thường đối với con người ở độ tuổi trưởng

thành.Người bình dân thấu hiểu một cách sâu sắc vấn đề này bởi thế mà người ta
bắt gặp trong kho tàng ca dao người Việt khơng ít những bài ca dao đề cập đến
nhu cầu hành phúc ái ân của con người trên nhiều bình diện khác nhau của cuộc
sống :
Đang khi lửa tắt cơm sơi,
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem.
Bây giờ lủa đã cháy lên,
Lợn no con nín tịm tem thì tịm.
Khơng chỉ đơn thuần nói lên vai trị của ngon lửa tình trong đời sống vợ
chồng mà qua đây bài ca dao còn ngợi ca vai trị của người phụ nữ đối với hạnh
phúc gia đình. Dẫu cuộc sống với bao vất vả , lo toan chuyện cơm áo gạo tiền thì
người phụ nữ vẫn ln giữ một thiên chức của một người mẹ, người vợ, ln
biết lo toan, thu xếp mọi bề để giữ gìn được tổ ấm của mình.
Thượng đế đã ban tặng cho thế giới loài người cái gọi là hạnh phúc ái ân
vậy mà một số kẻ chỉ muốn chiếm đoạt cho riêng mình, dẫm đạp lên tất cả để

20


đoạt được sự hả hê thú tính, người phụ nữ chỉ như một thứ đồ chơi, một cơng cụ
tình dục.
Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng,
Mất tiền mua thúng thì đựng cho đầy.

Mất tiền mua chúng em đây,
Thì anh hành hạ ….bõ ngày cưới xin.
Gần sáng mới đươc chồng yêu,
Hắn vật, hắn lộn như diều tha ga( gà ).
Khái niệm bình dẳng dường như khơng tồn tại trong xã hội Phong Kiến và
đặc biệt đối với người phụ nữ thì điều đó dường như là một sự sa xỉ. Chính vì lẽ
đó nên ngay cả việc thầm kín nơi phịng the thì người phụ nữ cũng bị “lép vế“
và lẽ đương nhiên, cái nhu cầu rất nguồi ấy cũng bị đấng mày râu tước đoạt như
một điều tất yếu.
Sự tinh tế của tác giả bình dân khi ẩn mình đằng sau bức rèm của “ái ân”
càng được bọc lộ rõ qua cách miêu tả đầy sinh động về chốn phòng the:
Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Rày hờn, mai tủi cịn gì là xn.
Ra tay mở khóa động đào,
Thục tiên thời được bước vào chơi tiên.
Qua những lời ca dao mượt mà đầy nhẹ nhàng ý tứ ấy ta có thể thấy
được sự khát khao của tuổi xuân cũng như việc thấy rõ đấy không phải thuộc về
nhu cầu bản năng mà nioa còn hàm chứa sự thanh tao nơi “bồng lai tiên cảnh ”.
Ái ân nam – nữ là chuyện vô cùng tế nhị ai cũng biết mà không mấy ai dễ
nói và dám nói ra được.
Cơ Tú kẽo kẹt cậu cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông.

21


Tuy chỉ đơn thuần miêu tả âm thanh xong cũng đủ làm cho người ta hiểu
được điều gì đang diễn ra, gần gũi mà không thấp hèn, dễ hiểu nhưng không
buông tuồng, suồng sã, thử hỏi không tinh tế, tài hoa sao được?
Ca dao luôn gắn với cuộc sống của người dân lao động , dường như mội

lời ăn, tiếng nói mọi hành đơng, việc Làm của họ đều nhất cử nhất động được
phản ánh vào ca dao.
Ca dao luôn gắn với cuộc sống của người dân lao động và dường như
mọi lời ăn, tiếng nói, mọi hành động, việc làm đều được thâu tóm vào “bức
tranh” mn màu của ca dao dân ca:
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường gãy một còn ba.
Hết đồng anh lại pha chì,
Anh hàn chín tháng cơ mình thụ thai.
Sinh được thằng bé con trai,
Về sau giống bố gặp ai nó cũng hàn.
Vừa là chuyện công viêc xong cũng đồng thời là chuyện chốn phòng the
đã được lồng ghép, đan cài tạo nên một mạch truyện liên tiếp những tình tiết và
khép lại câu chuyện có hậu ấy cịn đem lại tiếng cười đầy hóm hỉnh, và dường
như chuyện thợ hàn kia chẳng lấy gì làm nặng nhọc, vất vả.
Sự thỏa nãm cá nhân không đơn thuần là phép cộng giản đơn giữa hai cá
thể nam và nữ bởi lẽ nếu thiếu đi sự hịa hợp về tâm hồn thì thì hịa hợp sẽ trỏ
thành một bi kịch đầy đau đớn, xót xa.
- Tham giầu lấy phải thằng Ngô,
Đêm nằm như thể cành khô đâm vào.
- Hỡi cô đi đỏn , làm đe
Lấy chồng thợ cối nó đè cả đêm.
Đơi khi sự bất hạnh ấy còn là sự bất hạnh cho những ai chiụ cảnh lẽ mọn
hay ” vớ ” phải chồng già

22


Thân em làm lẽ chẳng nề,
Có như chính thất nằm lê giữa giường.

Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm khơng chuồng bị
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà đã o …..o ….gáy dồn
Cha con gà kia sao mày vội gáy dồn
Mày làm cho tao thất vía kinh hồn về nỗi chồng con.
Hay như:
Gái tơ xào với mướp già
Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi
Đêm nằm tưởng cái gối bơng
Giật mình gối phải dâu chồng nằm bên.
Muôn phần bất hạnh đã dành cho người phụ nữ và có thể nào người phụ
nữ lại nhận được sự thỏa nãm nhu cầu ái ân hay có cơ hội đươc bình đẳng những
nhu cầu của bản năng con người vốn sinh ra đã là của họ.
Viết về hành vi hoạt đọng tính giao thơ Xuân Hương cũng ảnh hưởng một
cách sắc nét khi vay mượn những yếu tố của tự nhiên hay trong những công việc
thường nhật của nhà nơng để nói lên hành vi ấy:đánh đu, dệt cửi, tát nức, đánh
trống, cái quạt.
- Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
(Đánh đu)
- Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
(Dệt cửi)

23


- Nâng nưu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa.

(Vịnh Cái quạt)
Đặc biệt hơn nữa Xuân Hương cịn mượn cả hình ảnh con ốc, quả mít hay
“trống thủng ” ra nhằm gợi sự liên tưởng đến “chuyện ấy “ của con người.
- Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngốy lỗ trơn tơi.
- Qn tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
Và có lẽ hình ảnh độc đáo thu hút nhiều sự chú ý hơn cả chính là hình ảnh
“trống thủng”, là biểu tượng của “chuyện ấy “bởi các yếu tố “tục “hiện rõ đằng
sau câu chữ :
Của em bưng bít vẫn bù nhùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
Ngày vắng đập tung năm bảy chiếc,
Đêm thanh tùng cắc một đôi hồi
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da ai cũng thế mà thôi.
“Của em” xưa lành lặn bưng bít , nay đến thủng ra như thế này cũng vì kẻ
đánh quá nặng dùi.
Thơ Xuân Hương là thơ của sự sống,mà sự sống có biết bao điều phải nói,
phải bàn.tuy khơng đi sâu ,nói hết những vấn đề xã hội nhưng nữ sĩ

Xuân

Hương cũng đã thể hiện một cách khá sâu sắc triết lý phồn thực trong văn hóa
dân gian .Đó là quan điểm đề cao cái đẹp,đề cao sự sống,sức sống, đề cao nhu
cầu hạnh phúc bản năng của con người.

24



3. Ý NGHĨA CỦA YẾU TỐ PHỒN THỰC TRONG CA DAO VÀ
TRONG THƠ NƠM HỒ XN HƯƠNG.
Sự có mặt của yếu tố phồn thực trong ca dao và trong thơ Xuân Hương
không chỉ là sự biểu hiện của sự lưu giữ các dạng thức tín ngưỡng cầu mong sự
sinh sơi nảy nở của hoa màu và con người mà hơn thế nưa có cịn hàm chứa
nhiều ý nghĩa quan trọng thể hiện nhân sinh quan sâu sắc của đời sống con
người.
3.1. Phê phán xã hội phong kiến
Như chúng ta đều biết, dưới triều đại Phong Kiến, mọi quyền hành đều
tập trung trong tay tầng lớp thống trị .Tầng lớp những người bình dân “thấp cổ
bé họng” chịu mọi nỗi thống khổ .Mượn văn chương nghệ thuật để cất lên tiếng
nói của chính mình, phản ánh và phơi bày những hiện thực đầy rẫy xấu xa, đen
tối của xã hội .Cũng chính vì thế mà yếu tố dâm và tục được xem như một thứ
cơng cụ nhằm “xỉa xói ” vào xã hội.
3.1.1. Phê phán tầng lớp vua chúa Phong Kiến.
Xã hội phong kiến tự xây dựng cho mình một thư luật lệ mang tính khn
mẫu của đạo “Tam tịng tứ đức” xong nhìn lại thuc tế xã hội đó ta thấy ra sao?
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đem quan lớn tần mần như ma
Ban ngày quan lớn như cha
Ban đêm quan lớn ngầy ngà hơn con.
Hình ảnh của “cán cân công lý” trong xã hội ,những bậc “phụ mẫu” người
đạp bằng mọi bát cơng ngang trái đẻ địi lại cái gọi là công lý cho mọi người ngờ
đâu lại được gói gọn trong bức tranh tuy dơn giản xong cũng đủ để thấy được
bản chát mục ruỗng, rởm đời của tầng lớp quan lại trong xã hôi thời bấy giờ.
Thơ Xuân hương không chỉ là nỗi niềm đau đớn xót xa về thân phận phụ
nữ mà nó cịn là tiếng nói của sự đấu tranh phản kháng đầy mạnh mẽ và quyết
liệt.Sự cá tính trong thơ ca Xuân Hương còn được thể hiện một cách sâu sắc

trong việc miêu tả bộ mặt thật của đám vua quan phong kiến thời bấy giờ.
25


×