Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Địa đạo phú thọ hòa (sài gòn gia định) trong thời kỳ chiến tranh cách mạng (1945 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI
36 HỌC VINH

PHẠM VĂN CƯỜNG

ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA (SÀI GÒN – GIA ĐỊNH) TRONG
THỜI KỲ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG
(1945 – 1975)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

TP.HỒ CHÍ MINH - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM VĂN CƯỜNG

ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA (SÀI GÒN – GIA ĐỊNH) TRONG
THỜI KỲ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG
(1945 – 1975)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 602.203.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
TS TRẦN VŨ TÀI



TP.HỒ CHÍ MINH - 2016


LỜI CẢM ƠN

Để có được bản luận văn này, tơi xin bày tỏ lòng biết sâu sắc đến tập
thể cán bộ giảng viên trường đại học Vinh cũng như trường đại học Sài Gịn,
đặc biệt là đội ngũ thầy cơ giảng viên khoa lịch sử của trường đại học Vinh
đã cung cấp cho tơi những kiến thức trong q trình tham gia học tập cao học
tại nhà trường. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành đến TS Trần Vũ
Tài, người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ và động viên tơi trong
suốt q trình học tập cũng như quá trình triển khai nghiên cứu và thực hiện
đề tài: “Địa đạo Phú Thọ Hòa (Sài Gòn – Gia Định) trong thời kỳ chiến
tranh cách mạng (1945 - 1975)”. Xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị, cô chú
công tác ở Ban tuyên giáo quận ủy Tân Phú cũng như Ban quản lý khu di tích
lịch sử địa đạo Phú Thọ Hịa đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong q trình thu
thập và xử lý thông tin, tài liệu liên quan đến địa đạo Phú Thọ Hòa. Xin gửi
lời cảm ơn đến các anh chị học viên lớp cao học khóa 22, trường đại học
Vinh đã động viên chia sẻ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như
nghiên cứu. Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình ln bên cạnh tạo điều
kiện về vật chất và tinh thần để tôi tham gia học tập và hoàn thành đề tài tốt
nghiệp. Trong q trình nghiên cứu chắc chắn sẽ cịn những vấn đề thiếu sót,
rất mong nhận được sự đóng góp, phê bình của q thầy cơ, các nhà khoa
học và các bạn đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10, tháng 8 năm 2016
Tác giả

Phạm Văn Cường



MỤC LỤC
Trang
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................... ....................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................... 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 5
3.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 6
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................ 6
4.1. Nguồn tài liệu ........................................................................................ 6
4.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 7
5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 7
6. Bố cục luận văn ............................................................................................. 8
NỘI DỤNG …………………………………………………………………..8
CHƯƠNG 1...................................................................................................... 8
TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI PHÚ THỌ HỊA ............. 8
1.1. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT PHÚ THỌ HÒA .................. 8
1.2. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VÙNG ĐẤT
PHÚ THỌ HÒA........................................................................................... 12
1.3. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI ................................................................................... 14


1.4. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở PHÚ THỌ HÒA DƯỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG ....................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: ................................................................................................. 34
ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 – 1954) ........................................ 34
2.1. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐỊA ĐẠO .............................................. 34

2.1.1.Thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta ...................................... 34
2.1.2. Chủ trương và quá trình xây dựng địa đạo Phú Thọ Hòa .............. 40
2.2. VAI TRÒ CỦA ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 – 1954) ....................................................... 45
2.2.1. Quá trình chiến đấu của quân và dân ở địa đạo Phú Thọ Hòa ....... 45
2.2.2. Vai trò của địa đạo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 56
CHƯƠNG 3.................................................................................................... 59
ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA CUỘC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC ( 1954 – 1975)................................................ 59
3.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ 1954 ................ 59
3.1.1. Âm mưu của đế quốc Mỹ đối với miền Nam................................. 59
3.1.2. Chính quyền Ngơ Đình Diệm đàn áp các lực lượng đối lập và
phong trào cách mạng trên toàn miền Nam Việt Nam ............................. 63
3.1.3. Chủ trương của Đảng ta trong giai đoạn (1954-1975) ................... 67
3.2. VAI TRÒ CỦA ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ (1954 – 1975) ........................................................................ 69


3.2.1. Hoạt động chiến đấu của quân và dân ở địa đạo Phú Thọ Hòa (1954
– 1975) ...................................................................................................... 69
3.2.2. Vai trò của địa đạo Phú Thọ Hòa trong kháng chiến chống Mỹ ... 84
Kết luận ................................................................................................... 86
Tài liệu tham khảo.................................................................................. 89
Phụ lục: Một số hình ảnh về địa đạo Phú Thọ Hòa ................................ 93


PHẤN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước, trong đó q trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trước sự xâm lăng

và đô hộ của các thế lực ngoại bang chiếm phần lớn thời gian trong tiến
trình phát triển của dân tộc ta. Đặc biệt trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã anh dũng đấu tranh đánh đuổi
ách thống trị của thực dân, đế quốc, mở ra một trang sử mới của dân tộc,
trang sử độc lập dân tộc, dân chủ, tự do và tiến bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
Đảng ta đã xây dựng được đội ngũ cách mạng hùng hậu trong nhân dân, từ
Bắc chí Nam đâu đâu cũng một lịng son sắc theo Đảng, theo Bác Hồ làm
cách mạng. Một trong những vùng đất có truyền thống đấu tranh đó chính là
vùng đất Sài Gịn – Gia Định, nơi có nhiều cao trào đấu tranh sôi nổi trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Sài Gòn – Gia
Định được xem là trung tâm đầu não của kẻ thù, là nơi nghiên cứu và đề ra
nhiều chính sách càn quét dã man lực lượng cách mạng của nhân dân ta.
Nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân Sài Gòn – Gia Định đã bền bỉ
đấu tranh, bám trụ từng mét đất, ngôi làng để đánh giặc. Họ đã phát huy và
sáng tạo nghệ thuật chiến tranh du kích, chiến tranh trong lịng địch bằng
việc xây dựng hệ thống hầm địa đạo trong lòng đất để kháng chiến. Xây
dựng hệ thống địa đạo không phải là ý tưởng mới của nhân dân ta, xong với
một khu vực đặc biệt như Sài Gòn – Gia Định thì việc nhân dân ở các vùng
ven ngoại thành xây dựng và phát triển hệ thống địa đạo để đấu tranh với kẻ


thù là một sáng tạo độc đáo, thể hiện tài năng quân sự cũng như tinh thần
chiến đấu, bám trụ làng mạc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển hệ thống địa đạo Phú Thọ
Hòa ở Sài Gòn trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ khơng chỉ tìm
hiểu thêm về nghệ thuật quân sự sáng tạo của nhân dân ta nói chung và
nhân dân Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng mà qua đó hiểu hơn

về những mất mát, hi sinh mà nhân dân ta phải bỏ ra để đánh đổi hạnh phúc
như ngày hôm nay.
Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế cùng với đó là cơ chế thị
trường đã ít nhiều ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành động của thế hệ trẻ, vì
vậy nghiên cứu về hệ thống địa đạo cịn giúp cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu
biết hơn và tự hào hơn về lịch sử cha ơng, từ đó có ý thức gìn giữ, bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử để lại. Nghiên cứu về hệ thống
địa đạo ở Sài Gòn giúp các nhà trường trong trong thành phố Hồ Chí Minh
có thêm tư liệu để giảng dạy lịch sử địa phương một cách phong phú và ý
nghĩa hơn.
Hiện nay, ở thành phố Hồ Chí Minh khi nói đến địa đạo người ta nghĩ
ngay đến hệ thống địa đạo Củ Chi mà ít người biết về địa đạo khác ngay
trong lịng thành phố, đó là địa đạo Phú Thọ Hòa. Qua nghiên cứu sẽ giúp
mọi người hiểu và hình dung thêm những đóng góp của nhân dân Sài Gịn –
Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và nhân dân quận Tân Phú nói riêng cho
lịch sử dân tộc. Đây cũng là dịp để lãnh đạo Thành phố, lãnh đạo quận Tân
Phú tiến hành kế hoạch chỉnh trang và nâng cấp khu di tích địa đạo Phú Thọ
Hòa để biến nơi đây thành một trong những điểm đến tham quan của Thành
phố và là nơi giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ mai sau.


Là một giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường phổ thơng, bản thân tơi
hy vọng cơng trình này cũng sẽ giúp cho tơi và đồng nghiệp có thêm tư liệu,
dẫn chứng khi giảng dạy lịch sử dân tộc giai đoạn kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ của nhân dân Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh và góp phần
cho việc biên soạn, giảng dạy lịch sử địa phương một cách tốt hơn và phong
phú hơn.
Vì những lý do nêu trên, tôi chọn vấn đề: “Địa đạo Phú Thọ Hòa (Sài
Gòn – Gia Định) trong thời kỳ chiến tranh cách mạng (1945 - 1975)”, làm
đề tài luận văn Cao học Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Địa đạo Phú Thọ Hòa là một trong những địa đạo hình thành sớm
nhất ở Việt Nam, nằm ngay sát trung tâm Sài Gịn, có nhiều đóng góp nhất
định cho nhân dân và Đảng bộ xã Phú Thọ Hòa trong hai cuộc chiến tranh
chống Pháp và chống Mỹ. Nhưng khi nhắc đến hệ thống địa đạo người ta
thường đề cập đến hệ thống địa đạo Củ Chi vì đây là hệ thống địa đạo có
quy mơ và mang tính điển hình hơn. Các tài liệu và đề tài nghiên cứu về địa
đạo Phú Thọ Hịa chính vì thế cũng cịn hạn chế. Khi nói đến tài liệu chúng
tơi thấy một số tài liệu có nhắc đến địa đạo Phú Thọ Hịa. Về sách có Sách
“Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến” (1945- 1975) (Nhà
xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1994); sách Biên niên sự kiện lịch sử
Đảng bộ quận Tân Phú (2003 – 2010) (nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ,
2013); sách Lịch sử Đảng bộ phường Phú Thọ Hịa (nhà xuất bản Văn hóa –
Văn nghệ, 2013); sách lịch sử Đảng bộ quận Tân Bình (nhà xuất bản Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005). Các tài liệu trên đã phản ánh khá đầy
đủ, toàn diện về lịch sử đấu tranh của nhân dân Sài Gịn nói chung và nhân
dân xã Phú Thọ Hịa nói riêng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và


chống Mỹ. Đặc biệt khi nhắc tới hệ thống địa đạo Phú Thọ Hòa các tài liệu
đều nhấn mạnh đến sự đóng góp về mặt quân sự của hệ thống địa đạo này.
Một số tài liệu được sưu tầm trong nhân dân do các nhân chứng lịch
sử kể và ghi chép lại, đầu tiên phải kể đó là: Bản tự kể chuyện của các đồng
chí từng tham gia đào địa đạo, tiêu biểu có đồng chí thượng tá Lâm Quốc
Đăng, ngun Sư đồn phó phân khu I; Hồi ký của đồng chí Nguyễn Văn
Lự, nguyên bộ đội chi đội 12 tham gia đào địa đạo Phú Thọ Hòa năm 1947.
Tài liệu: Lý lịch di tích khu địa đạo Phú Thọ Hịa do Bảo tàng Cách mạng
thành phố Hồ Chí Minh, năm 1995 (Hồ sơ công nhận địa đạo Phú Thọ Hịa
là di tích lịch sử cấp quốc gia).
Nhìn chung các tài liệu nêu ở trên chỉ mới đề cập đến một cách sơ

lược và khái qt về cơng trình kiến trúc địa đạo Phú Thọ Hòa, chưa đi sâu
nghiên cứu và làm rõ quá trình hình thành phát triển của hệ thống địa đạo
này cũng như những giá trị của nó đối với lịch sử kháng chiến.
Ngồi ra trên một số báo và website của UBND quận Tân Phú cũng
có đề cập về khu di tích địa đạo Phú Thọ Hòa, những giá trị lịch sử và định
hướng cho sự tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử để bảo tồn nhằm giáo dục
truyền thống cho thế hệ trẻ mai sau, cụ thể: Địa đạo Phú Thọ Hòa, quận Tân
Phú cần được tôn tạo và quảng bá của Thanh Phú, Báo Sài Gịn Giải Phóng,
ngày 1 tháng 5 năm 2010; Địa đạo Phú Thọ Hòa trong lòng thành phố,
website UBND quận Tân Phú, tháng 1 năm 2015; có một địa đạo bị lãng
quên, Báo Hà nội mới, ngày 1 tháng 9 năm 2010; Địa đạo Phú Thọ Hòa: kỳ
1 – Di tích “trầm lặng”, Website dạy và học ngày nay, tác giả Phú Li, 21
tháng 8 năm 2015; Địa đạo Phú Thọ Hịa: kỳ 2 – Lãng phí một tiềm năng
du lịch, Website dạy và học ngày nay, tác giả Phú Li, 22 tháng 8 năm 2015.
Những bài viết vừa nêu mới chỉ dừng lại ở chỗ giới thiệu sơ lược về một di


tích lịch sử cần được gìn giữ và phát triển cho việc bảo tồn giá trị văn hóa
lịch sử. Chưa đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của địa
đạo Phú Thọ Hòa cũng như vai trò của nó trong cuộc chiến tranh cách mạng
1945 – 1975.
Qua việc tiếp cận một số nguồn sử liệu cũng như tổng hợp các bài
viết có liên quan, đặc biệt là việc nghiên cứu lịch sử Sài Gòn – Thành Phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ chiến tranh cách mạng cũng như qua q trình
khảo sát điền dã, chúng tơi cố gắng phác họa những năm tháng nhân dân
Sài Gòn, nhân dân Phú Thọ Hịa đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ cũng
như trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Qua đó nâng cao
tầm quan trọng và giá trị về mặt quân sự, kiến thức quốc phòng cũng như
phát huy và bảo tồn những giá trị lịch sử của dân tộc.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Địa đạo Phú Thọ Hòa (Sài Gòn – Gia Định) trong
thời kỳ chiến tranh cách mạng (1945 - 1975)”. Cụ thể trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, kể từ khi được xây dựng (1947) đến khi địa
đạo bị phá vỡ (1967).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Quá trình xây dựng và phát triển của Địa đạo Phú Thọ Hòa trong thời
kỳ chiến tranh cách mạng (1945 - 1975).
Vai trò của Địa đạo Phú Thọ Hòa trong thời kỳ chiến tranh cách mạng
(1945 - 1975).
Rút ra những nhận xét, đánh giá và nêu lên các bài học kinh nghiệm
về việc xây dựng địa đạo.


3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung phản ánh địa đạo Phú Thọ Hòa ở
Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ chiến tranh cách mạng (1945 - 1975), cụ
thể là trong hai 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Phạm vi không gian: Đề tài tập trung phản ánh những hoạt động xây
dựng và chiến đấu của lực lượng cách mạng ở xã Phú Thọ Hịa, nơi có địa
đạo Phú Thọ Hòa thuộc Sài Gòn – Gia Định (nay là quận Tân Phú – thành
phố Hồ Chí Minh).
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Đề tài sử dụng một số nguồn tài liệu như: Gia Định Thành Thơng
Chí của Trịnh Hồi Đức; Địa chí văn hóa Thành phố, tập 1; Địa chí tỉnh Gia
Định ấn hành năm 1902; Lịch sử Nam bộ kháng chiến, NXB CTQG – sự
thật, Hà Nội 2010, Những vấn đề chính yếu trong lịch sử Nam bộ kháng
chiến 1945 – 1975, NXB CTQG – sự thật, Hà Nội 2011; Địa danh Nam Bộ
kháng chiến – NXB Văn học, 2015; Lịch sử Sài Gòn – Gia Định kháng

chiến 1945- 1975, NXB CTQG – sự thật, Hà Nội 2015; Từ điển Sài Gòn –
Thành phố Hồ Chí Minh, NXB trẻ, 2008 …
Ngồi ra chúng tơi cịn sử dụng các tài liệu lịch sử địa phương do
Ban sưu tầm lịch sử Đảng bộ quận Tân Bình, quận Tân Phú và phường Phú
Thọ Hịa, phường Tân Sơn Nhì cung cấp. Chúng tơi cịn sử dụng các bài
viết, hồi ký của những người đã từng sống và tham gia đào địa đạo, trực
tiếp tham gia kháng chiến trong giai đoạn này. Ngồi ra chúng tơi con thực
hiện các hoạt động điền dã để có thêm nhiều tư liệu cho bài nghiên cứu của
mình.


Những bài viết của các chuyên gia, những người có tâm huyết với
việc bảo tồn và phát huy những giá trị của các cơng trình địa đạo như địa
đạo Phú Thọ Hòa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đã đặt ra, chúng tôi dựa vào chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận
cho việc nghiên cứu. Là một đề tài lịch sử nên phương pháp lịch sử và
phương pháp logic được đặc biệt coi trọng. Luận văn dựa trên cơ sở những
tài liệu, xem xét sự vận động của các sự kiện lịch sử trong mối liên quan
chặt chẽ với nhau, từ đó phân tích, xử lý, hệ thống hoá, khái quát hoá vấn
đề, rút ra những nhận xét, đánh giá. Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng các
phương pháp khác như: phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thống
kê ... nhằm hỗ trợ cho hai phương pháp chủ yếu trên.
5. Đóng góp của đề tài
Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi hi vọng làm sáng tỏ hơn về quá
trình đấu tranh của nhân dân xã Phú Thọ Hịa đối với cơng cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đặc biệt là những sáng tạo của nhân dân
trong việc xây dựng hệ thống địa đạo, những kinh nghiệm của việc phát
triển hệ thống địa đạo đối với các vùng khác trong chiến tranh chống Mỹ.

Nghiên cứu và làm rõ giá trị của địa đạo Phú Thọ Hòa còn giúp mọi
người hiểu hơn, biết rõ hơn về một di tích lịch sử quan trọng, tồn tại ngay
giữa lịng thành phố đơng dân và phát triển bậc nhất Việt Nam, qua đó góp
phần nâng cao cơng tác giáo dục thế hệ trẻ. Cung cấp thêm những tư liệu
cũng như gợi mở nhiều hướng nghiên cứu mới cho công tác giáo dục và
giảng dạy lịch sử địa phương.


6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội
dung chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về vùng đất, con người Phú Thọ Hòa
Chương 2: Địa đạo Phú Thọ Hòa trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 – 1954)
Chương 3: Địa đạo Phú Thọ Hòa trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ (1954 – 1975).
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI PHÚ THỌ HỊA
1.1.

LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT PHÚ THỌ HỊA
Vùng đất Phú Thọ Hòa vốn thuộc Bến Nghé (Sài Gòn xưa) đây là

vùng đất hoang vu, rừng rậm, đầm lầy nằm giữa lưu vực sơng Đồng Nai và
sơng Cửu Long, có nhiều sông rạch đổ ra biển Đông.
Từ cuối thế kỷ XVI, khi tình hình đất nước phân chia thành cục diện
Đàng trong, Đàng ngồi thì có một bộ phận lưu dân Việt từ miền Bắc và
miền Trung đã đi theo chúa Nguyễn vào vùng đất này sinh sống, lập nghiệp.
Thành phần lưu dân gồm nhiều tầng lớp, trong đó có người bị tù đày, số

đông là nông dân chân lấm tày bùn, có cả nho sỹ, họ mang theo trong mình
tinh thần chống đối quan lại tham ơ và cường hào gian ác.
Trên vùng đất mới, nhiều tầng lớp đi đầu mở cõi đã quy tụ ngày càng
đông các lưu dân lao động cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, chống
chọi lại với thiên nhiên như: cá sấu, hùm beo, thú dữ; chịu đựng nắng mưa,


muỗi mòng, vắt, đỉa … Họ cùng với cư dân bản địa biến vùng này thành
ruộng vườn, nương rẫy, dựng nên thôn ấp với tinh thần tự lập, tự quản, đồn
kết, hịa hợp, tương thân, tương ái.
Cuối thế kỷ XVII, vùng đất này càng có vị trí quan trọng khi Bến
Nghé – Sài Gịn đã trở thành bến sơng, phố chợ, một cửa ngõ giao dịch bên
ngồi, có trạm thu thuế, có đồn lũy bảo vệ rõ ràng. Mùa xuân Mậu Dần
(1698), chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kính)
làm quan kinh lược sứ Đồng Nai. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Đồng Nai đặt
làm phủ Gia Định; lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng Dinh
Trấn Biên; lập xứ Sài Gịn làm huyện Tân Bình; dựng dinh Phiên Trấn; mỗi
dinh đặt một chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị. Từ đó Sài Gịn trở
thành một trung tâm hành chính, có chế độ cai trị và sự quan lý lưu dân. Xã,
thôn, phường, ấp được phân định ranh giới rõ ràng. Nhà nước phong kiến
Đàng trong lập ra sổ bộ, thu thuế đinh, thuế điền… Lúc bấy giờ vùng đất
Phú Thọ Hòa thuộc huyện Tân Bình, phủ Gia Định.
Tháng 9 năm 1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà,
dưới sức kháng cự của quan quân triều đình và quần chúng nhân dân, Pháp
đã buộc phải để lại một số quân ở đây và cử 2000 quân tiến vào tấn cơng
Sài Gịn. Tháng 2 năm 1859, qn Pháp đánh thành Gia Định. Tại đây quân
Pháp phải đối đầu với một lực lượng nông dân Gia Định với gậy gộc, giáo
mác tập hợp cùng quân triều đình dưới sự chỉ huy của các sĩ phu yêu nước.
Với sức đấu tranh của lực lượng quan quân triều đình và nhân dân Gia
Định, quân Pháp rơi vào vào tình thế bị bao vây suốt một năm trời. Quân

Pháp phải trả một giá đắt mới chiếm được đại đồn Chí Hịa vào ngày 25
tháng 2 năm 1861. Sau khi chiếm được Gia Định, thực dân Pháp thiết lập hệ
thống cai trị trên vùng đất này, trong đó huyện Tân Bình được đổi thành
phủ Tân Bình thuộc tỉnh Gia Định. Đến năm 1900, vùng đất Tân Bình được


sáp nhập về quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định, địa bàn Phú Thọ Hòa thuộc
tổng Dương Hòa Thượng, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.
“Tháng 3 năm 1945, tổng Dương Hòa Thượng được tách ra khỏi
quận Gò Vấp và được nâng lên thành quận Tân Bình; xã Phú Thọ Hịa
thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến thời Ngơ Đình Diệm, ngày 22
tháng 4 năm 1959, Bộ trưởng bộ nội vụ chính phủ Việt Nam Cộng Hịa đã
ban hành Nghị định 138-BHV/HC/NĐ chia quận Tân Bình chính thức gồm
7 xã, trong đó có xã Phú Thọ Hịa. Phú Thọ Hịa năm phía Tây Nam của
quận Tân Bình; gồm có 9 ấp gồm: Lộc Hịa, Phú Thạnh, Hịa Thạnh, Bình
Long, Bình Đơng, Phú Trung 1, Phú Trung 2, Tân Thới Hịa và Tân Phước.
Ngày 11 tháng 12 năm 1965, Ủy viên nội vụ chính phủ Việt Nam Cộng Hịa
ra Nghị định số 1917-BNV/NC/13 chia đơi xã Phú Thọ Hịa ra thành 2 xã là
xã Phú Thọ Hòa và xã Tân Phú. Ấp Bình Long, địa bàn xã Phú Thọ Hịa
ngay nay được tách ra cùng với một số ấp khác của xã Phú Thọ Hòa cũ để
thành lập xã Tân Phú thuộc tổng Dương Hịa Thượng, quận Tân Bình, tỉnh
Gia Định” [2;13].
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng (30/4/1975), đơn vị hành
chính xã Tân Phú vẫn được giữ nguyên. Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976,
Quốc hội khóa IV nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức
đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với
sự sắp xếp lại địa giới hành chính thành phố, các quận, huyện cũng được
điều chỉnh. Theo sự điều chỉnh này, hai xã Bình Hưng Hịa và Vĩnh Lộc của
quận Tân Bình sáp nhập về huyện Bình Chánh, đồng thời bỏ cấp ấp và chia
bốn xã còn lại thành 26 phường, các phường mới mang tên từ 1 đến 26.

Phường 18 được thành lập trên cơ sở tách ấp II, ấp III của xã Tân Phú cũ.


Ngày 27 tháng 8 năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ra Quyết định số
136-HĐBT về việc phân vạch lại địa giới hành chính một số xã, phường của
huyện Hóc Mơn và các quận Bình Thạnh, Tân Bình thuộc thành phố Hồ Chí
Minh. Theo quyết định này, quận Tân Bình được điều chỉnh lại cịn 20
phường. Trong đó phường 18 mới được hình thành trên cơ sở phường 18 cũ
cộng thêm 19 tổ dân phố của phường 19 cũ chuyển sang. Lúc này địa bàn
phường Phú Thọ Hòa thuộc phường 18 mới. Đến tháng 12 năm 2003, thực
hiện Nghị định số 130/NĐ-CP, ngày 05 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ
về việc thành lập quận Tân Phú trên cơ sở được tách ra từ quận Tân Bình,
trong đó phường 18 được tách thành 2 phường là Phú Thọ Hòa và Phú
Thạnh, thuộc quận Tân Phú. Hiện nay, di tích địa đạo Phú Thọ Hịa thuộc
phường phường Phú Thọ Hịa.
Vị trí Phú Thọ Hòa nằm trong khu vực địa lý chung của vùng đất Nam
Bộ. Địa hình bằng phẳng tương đối cao, khơng có sơng rạch. Đất đai vùng
này thuộc loại đất pha cát; khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có tính nóng ẩm,
nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 28ºC, thời điểm thấp nhất là 19ºC và
cao nhất là 38ºC, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Thời tiết chia làm hai mùa rõ
rệt: mùa mưa bắt đầu vào tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vùng đất này là
một vùng ven thành phố Sài Gịn – Gia Định, có nhiều rừng cao su, nhiều
bụi tre, tầm vông, đường sá đi lại chủ yếu là đường đất. Từ trung tâm thành
Phố Sài Gòn về khu vực Củ Chi, Tây Ninh và hướng xuôi về các tỉnh miền
Tây phải đi qua khu vực Phú Thọ Hịa. Ở đây cũng là địa bàn có nhiều đồn
bót và căn cứ đóng quân của Pháp, Mỹ, trong đó phải kể đến sân bay Tân
Sơn Nhất, kho bom Phú Thọ Hòa.



1.2. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VÙNG ĐẤT
PHÚ THỌ HỊA
Cư dân vùng đất Sài Gịn – Gia Định nói chung và cư dân vùng đất
Phú Thọ Hịa nói riêng đa số là những nông dân cùng khổ, những kẻ bị tội
lưu đày, những binh lính sau những cuộc viễn chinh khơng cịn đường trở
lại … đã giã từ những mảnh đất quê hương, nơi đã gắn bó với cuộc sống
bao đời không chỉ để tha phương cầu thực mà cịn để tìm tự do. Miền đất
phương Nam rộng lớn vẫy gọi những con người có chí khí mạo hiểm.
Những con người đó đã bỏ lại đằng sau mình quá khứ nặng nề, những xiềng
xích, tập tục Nho giáo đã tồn tại hàng bao thế kỷ để vào vùng đất Sài Gòn Gia Định khai phá, mở cõi.
Cũng giống như bao người con đất Việt khác, trên vùng đất Phú Thọ
Hịa này những cư dân xa q đó đã coi vùng đất mới như là nhà và quê
hương của mình. Họ tự hào với truyền thống lịch sử dân tộc hàng nghìn
năm, dân tộc ấy đã từng thắng giặc Hán, Tống, Nguyên, Minh, từng chế
ngự sông Hồng, sông Mã. Niềm tự hào dân tộc trên vùng đất Sài Gòn - Gia
Định cũng là niềm tự hào của người dân Phú Thọ Hòa. Vùng đất mới, cuộc
sống mới và truyền thống dân tộc đã hình thành nét đặc sắc trong tính cách
người dân nơi đây, tâm lý năng động, hào hiệp, ít chuộng hình thức, tính khí
khảng khái, trung thực “trọng nghĩa, khinh tài”, sĩ khí hiên ngang.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược và cai trị vùng đất Sài Gòn - Gia
Định, vùng đất này đã ghi bao nhiêu chiến công chống xâm lược và chống
phong kiến: 4 lần quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ đánh tan quân Nguyễn Ánh
(từ năm 1777-1785).
Tháng 2 năm 1859, khi tấn công Sài Gòn, liên quân Pháp – Tây Ban
Nha đã phải đối đầu với một lực lượng lớn người dân Sài Gòn – Gia Định


trong đó có những con người trên mảnh đất Phú Thọ Hịa. Những người
nơng dân với gậy gộc, giáo mác tập hợp cùng quân triều đình để đánh trả

cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Nhân dân Phú Thọ Hòa cùng với nhân
dân lục tỉnh Nam kỳ vùng dậy đấu tranh.
Từ năm 1862, ngọn cờ kháng chiến của nhân dân Nam Bộ được phất
cao, hình thành nên những trung tâm chống giặc cứu nước với quy mơ và
khí thế mạnh mẽ. Nhân dân đã giương cao ngọn cờ kháng chiến “Thề
nguyền ra sức đánh Tây”, tự nguyện chiến đấu dưới lá cờ nghĩa của các sĩ
phu yêu nước chống lại thực dân Pháp. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của
Trương Định, ông đã mang quân do ông cai quản và chiêu tập thêm dân
binh, tiến thẳng lên vị trí Thuận Kiều, phối hợp với quân Nguyễn Tri
Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hịa. Khi đại đồn thất thủ, các tướng
lĩnh đem quân triều đình rút chạy về án binh bất động ở Biên Hịa thì
Trương Định đem qn về Gị Công tiếp tục tổ chức kháng chiến.
Sau khi Trương Định mất (1864), con trai ông là Trương Quyền đã
nối tiếp nghiệp cha tiếp tục dựng cờ kháng chiến ở vùng Mười tám thôn
vườn trầu, vùng đất giáp ranh với xã Tân Sơn Nhì cũng là vùng lận cận với
vùng đất Phú Thọ Hòa, những cư dân vùng đất này đã sát cánh bên cạnh
Trương Quyền kháng chiến chống Pháp cho đến năm 1870.
Tháng giêng năm 1871, nhân dân vùng Phú Thọ Hòa ngày ấy cũng
đứng lên theo Nguyễn Ảnh Thủ - một người sinh ra trong một gia đình giàu
có thuộc xã Tân Sơn Nhì, Bà Quẹo, huyện Tân Bình (nay là Tân Phú) xuất
thân từ gia đình truyền thống yêu nước. “Hưởng ứng phong trào Cần
Vương, ông đã tham gia nghĩa quân chống Pháp, bị địch bắt và kết án 5
năm tù (từ 1863 đến 1867). Sau khi ra tù, ơng về làng bí mật chiêu tập nghĩa
qn chờ thời cơ khởi nghĩa. Ngày 15 tháng giêng năm 1871, ông lãnh đạo


nghĩa quân tấn công đồn Thuận Kiều, giết một số lính Pháp và 2 lính cịn
trốn bên trong, Nguyễn Ảnh Thủ xông vào bắt và giết tên đồn trưởng nhưng
2 tên lính Pháp cịn lại đã bắn chết ơng”[2;16].
Trong những năm 1913, 1916, ở Nam Kỳ có phong trào “Thiên địa

hội” do Phan Xích Long lãnh đạo đã lan rộng và ảnh hưởng đến vùng đất
Phú Thọ Hòa. Người dân Phú Thọ Hịa đã cùng với nhân dân vùng Tân
Bình gia nhập nghĩa quân đánh khám lớn Sài Gòn vào đêm 14 rạng ngày 15
tháng 4 năm 1916.
Năm 1925, phong trào Hội kín của Nguyễn An Ninh, một tổ chức
yêu nước phát triển mạnh mẽ ở Sài Gòn – Gia Định đã thu hút nhiều người
dân ngoại thành tham gia, trong đó có những người yêu nước ở các xã Tân
Sơn Nhì, Phú Thọ Hịa, Bình Hưng Hịa.
Có thể nói rằng, mặc dù phong trào yêu nước, khởi nghĩa chống thực
dân xâm lược của vùng đất Nam bộ nói chung, của Sài Gịn – Gia Định nói
riêng, trong đó có nhân dân vùng đất Phú Thọ Hòa, tuy chưa giành được
thắng lợi bởi thiếu sự lãnh đạo của một chính đảng của giai cấp vơ sản,
nhưng đã nói lên tinh thần đấu tranh yêu nước, truyền thống bất khuất,
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã được nung nấu và hun đúc qua
nhiều thế hệ, ở khắp mọi miền của đất nước mà một trong những điểm son
lịch sử đó là vùng đất và nhân dân vùng Tân Bình – Tân Phú, trong đó có
nhân dân Phú Thọ Hịa.
1.3. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN PHÚ THỌ HÒA
TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
Bước sang những năm 20 của thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp ở Sài Gòn – Gia Định cũng như nhân dân vùng đất Phú Thọ
Hòa chịu nhiều tác động tích cực từ bên ngồi nhất là cuộc cách mạng Tân


Hợi (1911) ở Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiếp đó là cuộc cách
mạng tháng Mười Nga (1917) và các phong trào đòi độc lập của nhân dân
Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Găngđi.
Những luồng tư tưởng dân quyền, dân chủ tư sản từ các “Tân thư”,
“Tân văn” của Trung Quốc du nhập vào vùng đất này với những tên tuổi
quen thuộc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đã tác động đến nhân dân,

nhất là tầng lớp nho sĩ thức thời. Đặc biệt sau khi người Nhật dành thắng lợi
trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật (năm 1905) thì những nhà Nho tiến bộ
đó đã nồng nhiệt đón nhận những luồng tư tưởng tiến bộ từ Nhật Bản, tiêu
biểu là nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, ông đã phát động và tổ chức
phong trào Đông Du, đưa thanh niên Việt Nam qua học ở Nhật trong những
năm 1904 -1908, điều đó đã mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc
theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Ngồi Phan Bội Châu cịn có nhà chí sĩ
yêu nước Phan Chu Trinh đã vận động phong trào Duy Tân (1906 -1908),
tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, nêu cao “khai dân trí, chấn hưng
dân khí, hậu dân sinh” kích thích phong trào yêu nước ở Trung Kỳ và có
tiếng vang mạnh mẽ trong cả nước, ảnh hưởng đến nhân dân vùng đất Sài
Gòn – Gia Định này.
Sau khi cơ bản dập tắt các cuộc đấu tranh của nhân dân ta, thực dân
Pháp đã tăng cường các chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam, đặc biệt
là sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), Pháp đẩy mạnh khai
thác, bóc lột thuộc địa làm cho tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam
ta lúc bấy giờ bị phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân
Pháp tăng cường bóc lột áp bức nơng dân.Tuy nhiên trong nội bộ địa chủ
Việt Nam lúc này có sự phân hố, một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có lịng
u nước căm thù giặc tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức
và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân chiếm 90% dân số. Họ phải chịu 2


tầng áp bức bóc lột của Thực dân và phong kiến. Tình cảnh khốn khổ, bần
cùng của giai cấp nơng dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh
giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, có đầy đủ đặc điểm của
giai cấp cơng nhân quốc tế (là lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có tinh

thần cách mạng triệt để). Giai cấp tư sản bao gồm tư sản công nghiệp, tư
sản thương nghiệp, tư sản nông nghiệp. Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm học
sinh, tri thức, thợ thủ cơng, những người làm nghề tự do…trong đó giới tri
thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống
của tiểu tư sản bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành người vơ sản. Họ là
những người có lịng u nước căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh
hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào, vì vậy đây là lực
lượng có tinh thần cách mạng cao.
Có thể nói rằng chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động
mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của các giai cấp, tầng lớp mới, mâu thuẫn
dân tộc, mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc. Mỗi tầng lớp, giai cấp tùy đặc
điểm chính trị của mình đều thẻ hiện khả năng khác nhau. Trong đó phải kể
đến hai giai cấp mới là tiểu tư sản và giai cấp công nhân, họ cũng như giai cấp
nông dân, cũng chịu cảnh áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, song với
trình độ và tính kỷ luật của mình trong lao động, giai cấp tiểu tư sản và giai
cấp công nhân đã sớm tiếp thu các trào lưu tư tưởng cách mạng mới, tổ chức
và phát động nhiều phong trào đấu tranh sơi nổi ở Sài Gịn - Gia Định có ảnh
hưởng đến nhân dân cụ thể nhất là hai giai cấp công nhân và tiểu tư sản, họ
đều mang thân phận người dân mất nước, đều bị thực dân bóc lột.


Năm 1920, người công nhân Tôn Đức Thắng thành lập Cơng hội bí
mật, đánh dấu một bước trưởng thành của giai cấp công nhân trên con
đường đấu tranh cách mạng từ tự phát lên tự giác, thúc đẩy phong trào đấu
tranh dân tộc, dân chủ, dân sinh của tầng lớp nhân dân ta. Đến năm 1923,
bùng nổ cuộc đấu tranh chống độc quyền Cảng Sài Gịn khi một cơng ty tư
bản Pháp được nhà cầm quyền thực dân ủng hộ, định giành lấy độc quyền
xuất nhập khẩu ở Sài Gòn. Được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng, cuộc
đấu tranh chống độc quyền Cảng Sài Gịn đã có tiếng vang tới các chính

giới bên Pháp.
Đến năm 1925-1926, phong trào đấu tranh của nhân dân Sài Gòn Gia Định lại bùng lên, bắt đầu là phong trào đấu tranh đòi thả nhà yêu nước
Phan Bội Châu. Sau đó là cuộc biểu dương lực lượng của nhân dân Sài Gòn
– Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ chiều ngày 24-3-1926 có đến sáu vạn người
tham gia đón Bùi Quang Chiêu do Đảng Thanh niên vận động. Trong khi
cuộc biểu dương lực lượng diễn ra trên thành phố thì thực dân Pháp bắt giữ
Nguyễn An Ninh, một người con của vùng đất Hóc Mơn, Gia Định, giáp
ranh với vùng đất Phú Thọ Hòa. Việc bắt giữ này dẫn tới sự bùng phát
phong trào đấu tranh đòi thả Nguyễn An Ninh. Cuộc đấu tranh này đã khởi
động mạnh thêm tinh thần đòi dân chủ của các tầng lớp nhân dân Phú Thọ
Hòa cũng như nhân dân Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ. Cùng với hai cuộc
đấu tranh nói trên, một cuộc biểu dương lực lượng nữa nổ ra trong dịp tổ
chức đám tang cụ Phan Chu Trinh. Sự qua đời đột ngột của cụ ngày 24-31926 tại Sài Gòn đã gây xáo động lớn và dẫn đến một phong trào quần
chúng trên toàn quốc tổ chức lễ tang cụ Phan Chu Trinh
Các cuộc đấu tranh nói trên là sự nối tiếp, phát huy truyền thống yêu
nước nồng nàn chống thực dân Pháp những thập niên đầu thế kỷ XX của
nhân dân ta nói chung và nhân dân vùng đất Phú Thọ Hịa trước khi có


Đảng nói riêng. Trong các cuộc đấu tranh đó, nhân dân Phú Thọ Hịa đã
đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào mục đích giành độc lập và
tự do cho dân tộc.
Giữa lúc phong trào của các tầng lớp nhân dân diễn ra trong sự bế tắc
về đường lối thì ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành từ Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước với một ý chí
quyết tâm và lịng u nước vơ bờ bến. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở
các quốc gia và châu lục khác nhau đến năm 1917 Người trở lại và hoạt
động ở Pháp. Tại đây, tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân Đạo, Nguyễn Ái
Quốc đọc được Luận cương của V.I Lê - nin về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa. Từ đó Người đã tìm thấy con đường đúng đắn cho cách mạng

Việt Nam. Tháng 12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc
đã bỏ phiếu tán thành Quốc Tế Cộng Sản và trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau này như Người nói “Từng bước
một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công
tác thực tế dần dần tơi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cơng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.[26;469,470] Tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc
hăng hái hoạt động trong Ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; lập ra tờ
báo Le Paria (Người cùng khổ) - cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp
thuộc địa do Người sáng lập năm 1921 và tìm mọi cách đưa tờ báo đó cùng
với những tờ báo tiến bộ như L’Humanite (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản
Pháp và những tài liệu tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin đến tay
những người yêu nước tiến bộ ở trong nước
Sau một thời gian hoạt động ở Pháp, sau đó là Liên Xô, đến cuối năm
1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chăm lo
công việc vận động cách mạng trong nước. Tháng 6-1925, trên cơ sở của tổ


chức Cộng sản đoàn, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên nhằm tập hợp những người yêu nước Việt Nam; huấn luyện đào
tạo cán bộ theo xu hướng cộng sản để đưa về nước hoạt động, gây cơ sở
trong công nhân lao động ở ba kỳ chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng
Công sản ở Việt Nam.
Cuối năm 1926, các cở sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
được hình thành ở Sài Gịn – Gia Định. Sau khi tiếp nhận tổ chức Công hội
bí mật của Tơn Đức Thắng, tổ chức thanh niên này phát triển nhanh chóng
tại đây và lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Kỳ. Tại vùng đất Sài Gòn – Gia
Định này có nhiều thanh niên yêu nước được chọn cử sang học ở Quảng
Châu, được kết nạp vào Hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, một số
hội viên đủ tiêu chuẩn thì được tuyển vào Thanh niên Cộng sản Đồn rồi

được cử về nhận cơng tác ở trong nước.
Đầu năm 1927, tập đề cương bài giảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc
biên soạn làm tài liệu huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được
Bộ Tuyên truyền của hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông do Người
sáng lập, được xuất bản thành sách với nhan đề Đường cách mệnh. Đường
cách mệnh nói cho đồng bào ta biết rõ “Vì sao chúng ta muốn sống thì phải
cách mệnh. Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải
của một hai người. Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng
ta soi. Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. Ai là bạn ta? Ai là
thù ta? Cách mệnh thì phải làm như thế nào?”[27;283]
Trong những năm 1928-1929, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
thực hiện chủ trương “vơ sản hóa” cho hội viên vào trong các nhà máy, xí
nghiệp, bến cảng, cùng ăn, cùng ở và làm việc với công nhân để tiếp xúc,


×