Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi mới giành lại độc lập , thống nhất đất nước, với cơ sở vật chất hết
sức tồi tàn cộng với một nền kinh tế hầu như kiệt quệ sau chiến tranh , Việt Nam
lúc đó là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Nhưng dưới sự lãnh
đạo tàI tình của Đảng và Nhà nước với phương châm “ toàn Đảng , toàn dân
cùng nhau xây dựng đất nước “ cho dến nay đấ
t nước ta hiện đang vươn lên
mạnh mẽ và là một trong số nhiều nước có tốc độ phát triển cao trên thế giới. Để
có thể đạt đươc thành tựu to lớn đó, công tác huy động nguồn vốn chính là một
trong những nhiệm vụ bức thiết được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, nhưng chúng ta vẫn
không thể phủ nhậ
n rằng vẫn còn rất nhiều nguồn vốn mà chúng ta chưa khai
thác hết (đặc biệt là nguồn vốn trong dân cư và nguồn vốn ngoài nước) trong
khi nền kinh tế của đất nước lại đang rất cần vốn. Chính vì vậy , nhiệm vụ của
các trung gian tài chính đặc biệt là các Ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng.
Do đó các ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để tăng cường khả năng
huy động vốn nhằm đáp ứ
ng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế.
Xuất phát từ những nhận thức trên kết hợp với quá trình thực tập tại chi
nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển –Bắc Hà Nội nên em mạnh dạn chọn đề
tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội “ làm chuyên dề tốt nghiệp .
Đề tài tập trung vào nghiên c
ứu các nghiệp vụ huy động vốn NHTM trong
nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam -Bắc Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên để gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạ
ng huy động vốn tại chinh nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam –Băc’ Ha` Nội
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại
chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội trong thời gian tới.
Chuyên đề tốt nghiệp
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, em rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Đức Lữ đã hết sức tận tình
giúp đỡ em trong quá trình chọn và hoàn thiện đề tài này. Đồng thời em cũng xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh chị trong phòng kế hoạch nguồn vố
n nói
riêng và toàn thể cán bộ trong chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển -Bắc Hà
Nội nói chung đã hết sức giúp đỡ em trong quá trính thực tập tại đơn vị.
Em xin chân thánh cảm ơn !
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I- HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ( NHTM)
1- Khái niệm và đặc điểm hoạt động NHTM
1.1- Khái niệm
Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng
đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng
đến và những người cần tiền trong một khoảng thờ
i gian nhất định để kinh
doanh. Trước tình hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số
Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá
thành. Lúc này hoạt động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM
cững từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyể
n hoá dần theo hướng đa
năng.
ở
Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa
rằng “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.2- Đặc điểm của hoạt động NHTM
Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhậ
n dạng
thông qua một số đặc điểm sau:
* Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm
lời ( bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng).
Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động
vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu
về vốn với m
ục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được
Chuyên đề tốt nghiệp
biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và
chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong
một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách
hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
* Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều
kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn
đầy đủ những điều kiện khắt khe do
pháp luật quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được
phép hoạt động trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn
nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc,
mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong
hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt
động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM
phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và
trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất
định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là
sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì
vậy, hoạ
t động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được
điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm
đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế
thị trường.
2- Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát
triển theo đi
ều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong
phú và đa dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi
quốc gia mà các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về
phạm vi và công nghệ.
Chuyên đề tốt nghiệp
Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM
bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài
bảng tổng kết tài sản.
Bảng tổng kết tài sản của NHTM
Tài sản
( Tính lỏng giảm dần)
Nguồn vốn
- Dự trữ
- Các chứng khoán
- Cho vay
- Tài sản khác
- Tiền gửi
- Tiền vay
- Vốn của ngân hàng
- Nguồn vốn khác
2.1- Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản:
Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là:
Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian.
2.1.1- Huy động vốn
Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM.
Khi một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể
huy
động ở một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn
vay mượn và một số nguồn khác.
* Huy động từ chủ sở hữu:
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các
chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình
kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để
lại. Nguồn vốn này có tính ổn
định cao, NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ
cho các hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở
Chuyên đề tốt nghiệp
rộng mạng lưới,...). Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp
vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp
phát của Ngân sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào
là do tính chất sở hữu của NHTM quyết định.
* Huy động từ tiền gửi:
Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiề
n mà NHTM sử
dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ
nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền
sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những
người gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới
các hình thứ
c sau:
-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng.
Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM
có nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút
tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ
động sử
dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước
hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân
tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không
kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ y
ếu là tiết
kiệm và sinh lời.
* Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay
vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách
hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở
các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi
vay thông thường chi
ếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên,
Chuyên đề tốt nghiệp
nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động
kinh doanh một cách bình thường.
* Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM
có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục
vụ,... uy tín của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.
2.1.2 Sử dụng vốn:
Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hi
ệu quả hoá những
nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt
động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay
và Đầu tư.
* Dự trữ:
Sự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp
ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn ( bằng
tiền m
ặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc
vào qui mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản,
thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt.
Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được
hình thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gử
i tại Ngân hàng
trung ương, Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu.
* Cho vay:
Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ
hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân
hàng. Tuy nhhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất.Rủi ro tín
dụng có thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây d
ựng chiến lược sai,
Thẩm định hồ sơ không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng
có thể do nguyên nhân khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay
liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho
vay ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều
kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình thức cho vay chủ yếu như: Cho vay
ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn, Cho vay có đảm bảo,...
* Đầu tư:
Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư
khác:
- Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi
nhuận tương đối lớn ( sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng
đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách
hữu hiệu nhất cho NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM
cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư.
- Ngoài ra, NHTM có thể đầ
u tư nhằm mục đích sinh lợi bằng nhiều hình
thức khác như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,...
2.1.3-Hoạt động môi giới trung gian
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển
theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt
động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu
nhập khá quan trọng. Điều cầ
n lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM
phát triển toàn diện. ở các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng
con đường “ phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho
khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn
minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu
tư, cho vay, mà gần phần nửa ở các dịch vụ, nhưng lại là lĩnh vự
c ít rủi ro.
Nghiệp vụ trung gian của NHTM rất đa dạng và phong phú như : Dịch vụ
chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản,
Dịch vụ khấu trừ tự động, Thu chi hộ,... Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản
phí dịch vụ.
Chuyên đề tốt nghiệp
2.2- Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản:
Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng ( huy động vốn, sử dụng
vốn, môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được
thừa nhận là tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo
dõi ở các tài khoản ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo
lãnh công nợ, các hợ
p đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái
như giao dịch Swaps, Options, Futrues, các chứng từ có giá,... Mặc dù sự biến
động của các giao dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng
tổng kết tài sản, nhưng vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá
tình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của
NHTM.
Do đó, khi phân tích hoạt động củ
a NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các
hoạt động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ
và diễn biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng
làm ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM.
Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế
càng phát triển cao, hoạt
động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa,
các hoạt động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành
một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
II- CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình
thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và
sinh lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân
hàng hoạt động trong một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp v
ụ huy
động vốn n khác nhau. Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số
nghiệp vụ cơ bản sau:
Chuyên đề tốt nghiệp
1- Huy động từ chủ sở hữu:
Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ
mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính
phủ cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam).
Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thứ
c như: Vốn
pháp định, vốn điều lệ và các quỹ.
Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép
khai trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định.
ở
Việt Nam, để
thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của
NHNN. Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu
của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như
sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà
nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng
góp c
ủa cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh,
vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều
lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài
chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ
thuộc vào quy
mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp
định).
Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là
các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng)
như: Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,...
Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọ
ng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy
thực lực, quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn
này có tính ổn định cao, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các
tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng
mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt
động của ngân hàng.
Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia t
ăng về số lượng tuyệt đối
thông qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau:
- Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn
từ các cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,...
Các nghiệp vụ huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy
nhiên, việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành c
ổ phiếu
sẽ gây áp lực đối với các cổ đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ
kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông.
- Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm
vốn tự có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của
các bên liên doanh.
- Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ
kết quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và
một số quỹ khác.
Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một
số NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ
đầu tư phát triển để cho vay lại theo kế hoạch Nhà n
ước chỉ định. Nguồn này có
tính ổn định tương đối cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân
hàng trả gốc và lãi cho khoản tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để
bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín và hiệu quả trong kinh doanh của
Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này.
Chuyên đề tốt nghiệp
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền
tảng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không
lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình
thành và phát triển của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi,
phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh củ ngân hàng nhưng việ
c tăng cường
mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các
NHTM.
2- Huy động tiền gửi
ở
Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu
là số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi
là. Trên phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại:
Tiền gửi của các doanh nghi
ệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm
của dân cư.
2.1-Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)
Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền
gửi để thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải
thanh toán ngay lập tức một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ban,
được chỉ rõ là người thụ hưởng.
* Tiề
n gửi giao dịch hưởng lãi
Sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã
xuất hiện dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài
khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được
hưởng lãi, do đó nó cho phép ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo
trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít được thực hiện nên NOW được sử dụng
nh
ư một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. Tuy
nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi
Chuyên đề tốt nghiệp
lợi nhuận. Ngân hàng khi đó có nghiệp vụ là chuyển vốn tự động và khách hàng
uỷ quyền trước cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang
tài khoản phát séc để bù đắp thấu chi. Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng
lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết
kiệm.
Hiện nay có hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi
trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản
này được trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực
hiện thanh thoán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát
séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.
2.2- Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội
Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chứ
c kinh tế- xã hội và
được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này
tạm thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu
cầu sử dụng trong ngắn hạn.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như
là trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh
doanh của mình, các doanh nghiệp ít khi có m
ột lượng vốn nhàn rỗi trong một
thời gian dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội
có vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy
vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một
ngân hàng. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệ
p và các tổ
chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ
hạn của khoản tiền đó.
Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn
đã thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất,
Chuyên đề tốt nghiệp
các NHTM thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không
được hưởng lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam,
nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi
suất loại tiền gửi không kỳ hạn.
NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động
kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu c
ầu tín dụng của nền kinh tế.
2.3- Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng.
ở
các
nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi
tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người
ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ
quan trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động đượ
c nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng
trong các tầng lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông
nghiệp góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là
tiết kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền c
ũng
rất đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển
sổ tiết kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của
khoản tiền đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm
cao hơn lãi suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được
hưởng dịch v
ụ thanh toán quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM
đã và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở,
tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa
dạng và đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó,
Chuyên đề tốt nghiệp
NHTM cũng từng bước nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi
sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ
tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc
tài trợ cho các hoạ
t động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này
phụ thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi
suất của các loại hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của
khách hàng. Trong đó thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc
đưa ra chiến lược lãi suất như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút
được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả
năng kĩ trị của các NHTM.
3- Vốn đi vay
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ
tất nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn
khác chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM
có thể chia thành hai loạ
i chính: Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay
trực tiếp.
3.1- Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình
thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...
Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội
bằng việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh.
Thông thường việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiế
n hành nên cân đối
toàn hệ thống của NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay
đổi trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có
thể phát hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ
Chuyên đề tốt nghiệp
huy động thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết.
Mức lãi được trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM
và khách hàng hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có
thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghi
ệp vụ huy động vốn theo
sáng kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả
mãn tối đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm
hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu
ngân hàng.
* Kỳ phiếu:
-
ở
các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là
một công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành
một CD để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình.
CD là một chứng nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi
suất nhất định. Người sở hữu CD có th
ể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ
cấp hoặc được trả lại chứng chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số
tiền gốc chứng chỉ với lãi.
Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn
của các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn
chung không có quy định nào h
ạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân
hàng phát hành.
Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:
+ CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời
điểm phát hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi
CD đến hạn. Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thờ
i
điểm đến hạn.
Chuyên đề tốt nghiệp
+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một
lần. những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.
+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng
chuyển tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập
một hợp đồng mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi h
ợp
đồng hết hạn. CD loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.
Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi
điều chỉnh, chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát
hành CD, các NHTM Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách
có hiệu quả đối với nguồn vốn ngắn và trung hạn.
-
ở
Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220-
NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc
doanh phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới
được phép phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này.
Theo văn bản trên, kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc
doanh phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ
vào mục đích, nhu c
ầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng
VNĐ hay USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có
nguồn vốn đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục
vụ kịp thời cho đầu tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của
ngân hàng như: Đầu tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các
nguồ
n huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép
phát hành bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình “ Xin phép phát hành kỳ
phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau:
+ Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)
+ Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao,
hấp dẫn người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần
thiết.
Chuyên đề tốt nghiệp
* TRÁI PHIẾU:
-
ở
các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do
NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng.
Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng
trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,...
Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có
lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất c
ố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang
cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi
trái phiếu đó hết hạn.
ở
Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của
Thống đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị
trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn. Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua (
hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhấ
t định.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình
thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế
chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ,
ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và
được tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ
muốn
chuyển nhượng thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên,
thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn.
Trái phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán
vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu
Chuyên đề tốt nghiệp
lúc phát hành và có giá trị tối thiểu là 50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn
được xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu.
Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về
vốn trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn,
người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Phương thức trả lãi c
ũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi
trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ...
NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện
sau:
+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh
doanh của đơn vị được quản lý có hiệu quả
+ Có phương án kinh doanh cụ thể
+ Cần phải có vốn điều lệ
đủ lớn theo pháp định
+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép
NHNN về việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự
điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồ
n có tính ổn định
cao, đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài
hạn tại một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được
một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu
vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
3-2 - Vay vốn các tổ chức tín dụng
Khi cần vốn thì các NHTM có thể
đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng
khác, Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì
nhìn chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả
cho các hình thức huy động vốn khác.
Chuyên đề tốt nghiệp
ở
Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM
có thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC),
vay từ các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.
* Vay từ NHNN và BTC:
- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư
cách là Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các
NHTM. Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu
hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chi
ết khấu, tái cấp vốn. Tuy
nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại
nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng
khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ
quốc gia đang thắt chặt.
- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát tri
ển nhưng Bộ
tài chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm,
các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình
phục vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển
sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới
hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi.
Như
ng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM
sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để
tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn chênh lệch
giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM
không bị lỗ trong kinh doanh.
* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và B
ộ Tài chính thì các NHTM có thể vay
mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt
động kinh doanh dựa trên nguyên tắc:
Chuyên đề tốt nghiệp
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của
NHNN.
Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu,
phụ thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
* VAY TỪ NƯỚC NGOÀI:
Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM
có thể vay vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM
Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân
hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận
lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy
nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng
do nước ngoài quy định. Hạn m
ức này phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt
Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho
một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức
trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như
vậy muốn tận dụ
ng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam
phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.
Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do
NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan
NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ
nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
III- CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM.
* Nhân tố khách quan:
Chuyên đề tốt nghiệp
- Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế: Động thái của nền kinh tế chính
là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra quyết định nên gửi tiền vào Ngân hàng,
tích trữ vàng, USD hay mua sắm các tài sản khác. Trong điều kiện nền kinh tế
bất ổn định, giá cả và sức mua của đồng tiền biến động mạnh thì người dân có
xu hướng tích trữ vàng, USD hoặc các dạng tài sản khác thay vì đem s
ố tiền đó
gửi tại NHTM. Ngược lại, một nền kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát
hợp lý thì người dân sẽ có cái nhìn khả quan hơn và xu hướng tiền gửi ở các
NHTM tăng lên là một điều tất yếu.
- Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII
chỉ rõ “ Để tạo vốn cho
đầu tư phát triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là làm ăn
có hiệu quả, phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm kể cả trong chi tiêu của Nhà
nước, trong sản xuất kinh doanh và trong tiêu dùng của dân cư”. Thực tế cho
thấy, người dân có thu nhập càng cao thì lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể
càng lớn, đặc biệt là khi thu nhập bình quân đầu người đã đạt đến một mức độ
nhất định thì tỷ lệ ti
ết kiệm không phải tăng lên theo tương quan tỷ lệ với sự gia
tăng của thu nhập mà tăng với một tỷ lệ lớn hơn so với thu nhập do nhu cầu thiết
yếu lúc này được thoả mãn hoàn toàn và lượng tiền dư ra sẽ tăng nhanh. Tuy
nhiên, lượng tiền tiết kiệm có được gửi vào NHTM hay không còn phụ thuộc
vào tâm lý tiêu dùng các dân cư. Họ có thể đem gửi Ngân hàng, giữ tiền mặt,
vàng, ngoại t
ệ hoặc mua các tài sản khác.
Bên cạnh nguồn tiết kiệm từ dân cư thì nguồn tiết kiệm từ các tổ chức kinh
tế- xã hội cũng rất quan trọng. NHTM có thể huy động nguồn vốn này thông qua
nghiệp vụ phát hành trái phiếu. Do đó để NHTM thực hiện tổ chức năng trung
gian tài chính, phục vụ đầu tư phát triển thì đòi hỏi các tổ chức, cá nhân và cả
nhà nước phải có chính sách tiết kiệm h
ợp lý và coi tiết kiệm là quốc sách hàng
đầu.
- Chính sách của Nhà nước:
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động
vốn của các NHTM. Bởi vì khi Nhà nước khuyến khích việc mở rộng huy động
vốn thì sẽ có các chính sách văn bản hướng dẫn cụ thể. Từ đó, các NHTM sẽ có
các căn cứ pháp lý để thực hiện nghiệp vụ này một cách thuận lợi hơn. Ngược
lại, khi Nhà nước không khuyến khích thì tất yếu công tác này sẽ rấ
t khó có khả
năng tồn tại và phát triển.
Hiện nay, Nhà nước ta đã thấy được sự cần thiết của việc huy động vốn và
đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm khuyến khích các NHTM ngày
càng mở rộng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH,HĐH
đất nước.
- Nhu cầu vốn của nền kinh tế:
Nền kinh tế đ
òi hỏi nhiều vốn cho đầu tư phát triển, ngoài vốn ngắn hạn
còn rất nhiều vốn. Song tự bản thân nó không thể đáp ứng đủ lượng vốn cần
thiết, NHTM với vai trò là cầu nối giữa người thiếu vốn và người thừa vốn đã
góp phần cung cấp một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế.
ở
nước ta, thị
trường chứng khoán mở ở dạng sơ khai do đó việc đáp ứng nhu cầu tín dụng của
nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM vẫn chiếm vị trí quan trọng và cấp thiết.
- Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý:
ở
những địa điểm dân cư đông đúc, các thành phố lớn có nhiều doanh
nghiệp hoạt động và kinh tế phát triển thì NHTM có thể huy động được nhanh
hơn và nhiều hơn những nơi kém phát triển... Đặc biệt ở những thị trường sôi
động, có độ nhạy cảm cao với lãi suất và tiện ích khách do nghiệp vụ huy động
vốn của NHTM đem lại thì ở đó việc mở rộ
ng và bổ sung nguồn vốn của NHTM
sẽ thuận lợi hơn các vùng nông thôn hay miền núi.
* Nhân tố chủ quan:
- Uy tín của NHTM: khi xa rời vốn liếng một thời gian dài để gửi vào
NHTM, người gửi thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh
Chuyên đề tốt nghiệp
tế. Do đó họ thườg có sự cân nhắc và lựa chọn Ngân hàng nào được họ thừa
nhận là an toàn và thuận lợi nhất hay nói cách khác là có uy tín nhất đối với gười
gửi tiền. Thông thường, người gửi tiền đánh giá uy tín của NHTM qua các tiêu
thức cơ bản như: Sự hoạt động lâu năm, quy mô, trình độ quản lý, công nghệ,...
Do đó các NHTM cần nâng cao uy tín thông qua các nghiệp vụ của mình, từng
bước thoả mãn tối đ
a nhu cầu của người gửi tiền. Khi đã tin tưởng vào một
NHTM nào đó, tất yếu họ sẽ tạm xa rời vốn liếng của mình để gửi vào Ngân
hàng hưởng lãi. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân ta có câu tục ngữ “ Chọn
mặt gửi vàng”, và trong hoạt động ngân hàng chữ “Tín” và “Lòng tin” là rất
quan trọng.
- Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Bao gồm cả lãi suất huy động và cho vay. Đây là một chính sách quan
trọng của NHTM, nó đòi hỏi phải có sự
linh hoạt, vừa hấp dẫn người gửi , đồng
thời phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Thông thường, quy mô
của tiền gửi vào ngân hàng biến động tỷ lệ thuận đặc biệt thì quy luật này bị phá
vỡ. Chẳng hạn khi lãi suất huy động giảm nhưng người gửi vẫn thu được một
khoản lợi tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ trượt giá thì vốn huy
động của ngân hàng
vẫn có thể tăng lên. Như vậy có thể nói lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn đến
quy mô tiền gửi vào NHTM, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Vì người dân thường
quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và
khả năng sinh lời của các hình thức đầu tư khác như cổ phiếu, trái phiếu,... Từ
đ
ó dân chúng sẽ đưa ra quyết định có nên gửi tiền vào ngân hàng hay không?
Gửi bao nhiêu và dưới hình thức nào?...
Đối với các tổ chức kinh tế- xã hội thì ít nhạy cảm hơn đối với lãi suất mà
NHTM huy động mà họ quan tâm nhiều tới công nghệ ngân hàng, thái độ phục
vụ của nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất và tính tiện ích cũng như thanh
khoản của trái phiếu ngân hàng cũng được các tổ chức này đặc biệt quan tâm.
- Chính sách sản phẩm: