Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Từ vựng và biện pháp tu từ trong thơ hàn mặc tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.33 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN VĂN BỘ

TỪ NGỮ VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN VĂN BỘ

TỪ NGỮ VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐẶNG LƢU

NGHỆ AN - 2014



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
5. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 4
Chƣơng 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ................................................. 5

1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ............................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm thơ ................................................................................... 5
1.1.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ ................................................................... 8
1.2. Hàn Mặc Tử trong bối cảnh Thơ mới 1932 - 1945 .............................. 11
1.2.1. Hàn Mặc Tử - cuộc đời và sự nghiệp ............................................. 11
1.2.2. Vị trí của Hàn Mặc Tử trong Thơ mới 1932 - 1945 ...................... 14
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 18
Chƣơng 2. TỪ NGỮ TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ ....................................... 19

2.1. Từ ngữ trong thơ và các hướng tiếp cận ............................................... 19
2.1.1. Từ ngữ trong thơ ............................................................................ 19
2.1.2. Các hướng tiếp cận từ ngữ trong thơ.............................................. 21
2.2. Các trường từ vựng - ngữ nghĩa tiêu biểu trong thơ Hàn Mặc Tử ....... 23
2.2.1. Trường tình yêu .............................................................................. 23
2.2.2. Trường thân xác ............................................................................. 26
2.2.3. Trường tôn giáo .............................................................................. 30
2.2.4. Trường màu sắc .............................................................................. 39



2.3. Những lớp từ ngữ nổi bật nhìn từ phong cách...................................... 42
2.3.1. Lớp từ ngữ thi ca ............................................................................ 42
2.3.2. Lớp từ ngữ địa phương ................................................................... 45
2.3.3. Điển tích, điển cố ........................................................................... 48
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 54
Chƣơng 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ ..... 55

3.1. Khái niệm biện pháp tu từ .................................................................... 55
3.2. Một số biện pháp tu từ tiêu biểu trong thơ Hàn Mặc Tử ...................... 56
3.2.1. So sánh ........................................................................................... 56
3.2.2. Ẩn dụ .............................................................................................. 59
3.2.3. Nhân hóa......................................................................................... 66
3.2.4. Tượng trưng.................................................................................... 69
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngơn ngữ thơ ca nói
riêng là một trong những hoạt động đặc thù; hoạt động nghệ thuật. Việc
nghiên cứu ngơn ngữ thơ ca, trong đó tìm hiểu ngơn ngữ của các tác giả là
một trong những hướng đi cần thiết của việc nghiên cứu ngôn ngữ văn
chương, góp phần xác định phong cách ngơn ngữ thơ của mỗi tác giả trong
nền thơ ca Việt Nam.
1.2. Phong trào Thơ mới xuất hiện năm 1932 là cả một cuộc cách mạng
trong thi ca gắn với những tên tuổi của Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,
Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hồng Chương… Hàn Mặc Tử

cùng với những tập thơ của mình đã góp phần đưa thơ ca Việt Nam lên đến
đỉnh cao mới của sự hiện đại hóa văn học. Hàn Mặc Tử là một gương mặt tiêu
biểu, đã xuất sắc hoàn thành sứ mệnh thi nhân của mình để góp phần làm nên
“Một thời đại trong thi ca” (lời Hoài Thanh).
Hàn Mặc Tử là ngôi sao lạ của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Nếu Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, là những nhà thơ theo lãng mạn thuần khiết
; Huy Cận, Xuân Diệu lãng mạn pha chút tượng trưng… thì Hàn Mặc Tử là sự
hòa sắc của lãng mạn, tượng trưng, thậm chí cả siêu thực nữa. Do vậy, để hiểu
sâu sắc những đặc trưng thi pháp Thơ mới 1932 - 1945, không thể không chú
ý di sản thơ Hàn Mặc Tử.
1.3. Không những là bộ phận quan trọng trong chương trình Lịch sử
văn học ở đại học, hiện nay, tác phẩm của Hàn Mặc Tử cịn có mặt trong
chương trình Ngữ văn trung học cơ sở và trung học phổ thơng. Đó là những
bài thơ đặc sắc vào bậc nhất của Thơ mới, vì thế, chúng có sức hấp dẫn đối
với người dạy và người học, đồng thời cũng là những thách đố không nhỏ.


2
Việc tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử một cách tồn diện, để từ đó có điều kiện
khám phá sâu hơn những bài thơ trong chương trình Ngữ văn trung học là
công việc hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Từ ngữ và biện
pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, triển khai nghiên cứu nhằm góp thêm
tiếng nói khẳng định những giá trị nghệ thuật của một trong những nhà thơ
tiêu biểu của Thơ mới 1930 - 1945.
2. Lịch sử vấn đề
Hơn ba phần tư thế kỉ kể từ khi Hàn Mặc Tử xuất hiện trên văn đàn đến
nay, không biết bao nhiêu vài viết cũng như cơng trình nghiên cứu về thơ ơng.
Ban đầu, cịn có sự phân lập khen chê, nhưng càng gần đây, các ý kiến khẳng
định vị trí danh dự của Hàn Mặc Tử trong nền Thơ mới 1932 - 1945 càng tập

trung. Phần lớn cơng trình đánh giá thơ Hàn Mặc Tử thuộc về lĩnh vực nghiên
cứu, phê bình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có khơng ít cơng trình khám phá
những nét đặc sắc của nhà thơ về phương diện ngơn ngữ.
Hồi Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “Tôi đã nghe người
ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với thẩn
thẩn! Tồn nói nhảm. Có người nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối thế!
Mình tưởng có ý nghĩa gì khuất khóc, cứ đọc đi đọc lại hồi, thì ra nó lừa
mình... nhưng ta cũng đã nghe rất nhiều người ca tụng Hàn Mặc Tử. Trong ý
họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mặc Tử làm ra họ
đều chép và thuộc hết”… [55, tr. 219].
Chế Lan Viên - một người trong nhóm thơ Bình Định với Hàn Mặc Tử
thì quả quyết: “Mai sau, tất cả những cái tầm thường mực thước kia sẽ qua đi,
nếu còn lại một cái gì, thì cái đó là Hàn Mặc Tử” [64].
Trong cơng trình Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đánh giá: “Hàn Mặc
Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhưng thơ ông nhiều phần khúc mắc, nhạc


3
điệu trong thơ ơng hình như khơng phải là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi
rất thô... bên những bài tầm thường, người ta thấy dưới ngòi bút của ông
những bài tuyệt tác” [45, tr. 145].
Trong những năm đất nước cịn chia cắt, ở miền Nam, việc tìm hiểu thơ
Hàn Mặc Tử diễn ra rất sôi nổi. Bên cạnh những bài có tính tưởng niệm, rất
đáng chú ý là bài Đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử của Đặng Tiến. Có thể nói
đây là một bài viết sâu sắc, cắt nghĩa khá thuyết phục ảnh hưởng của đức tin
Thiên Chúa giáo đối với sáng tác của một nhà thơ đồng thời là một tín đồ
thành kính [58].
Sau năm 1975, đặc biệt là từ khi Đổi mới, văn học lãng mạn 1932 1945 được nhìn nhận lại thỏa đáng hơn. Trong khơng khí đó, di sản của Hàn
Mặc Tử được nghiên cứu tồn diện hơn. Ở đây, chúng tơi xin khơng đề cập
đến những bài viết, những cơng trình văn học sử, phê bình, mà chỉ điểm qua

tình hình nghiên cứu Hàn Mặc Tử ở bình diện ngơn ngữ nghệ thuật.
Trong cuốn Con mắt thơ, đổi thành Mắt thơ trong lần tái bản sau đó,
với lối phê bình phong cách học Thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã chú ý đến một số
yếu tố đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Ông cho rằng, trong thơ Hàn
Mặc Tử, Trăng, Hồn, Máu là những “mắt thơ”, hơn thế, là những biểu tượng
hàm chứa những ý nghĩa sâu xa, đồng thời là dấu ấn riêng, góp phần tạo nên
phong cách thơ Hàn Mặc Tử [56, tr. 209-233].
Trên Ngôn ngữ và Đời sống, Phan Huy Dũng có bài nghiên cứu cách
dùng từ địa phương trong thơ Hàn Mặc Tử. Tác giả có sự nhận thức khá sâu
và lý giải thuyết phục “cơ chế” hoạt động của từ địa phương trong thơ của nhà
thơ này [8].
Nếu trong mắt của Chu Văn Sơn, Hàn Mặc Tử là một trong “ba đỉnh
cao Thơ mới” (hai “đỉnh” cịn lại là Xn Diệu và Nguyễn Bính), thì Nguyễn
Đăng Điệp lại xem ông là một trong “tứ bất tử” (bên cạnh Xuân Diệu,


4
Nguyễn Bính, Huy Cận). Ở trong hai cơng trình của hai tác giả này, vấn đề
ngôn ngữ thơ của Hàn Mặc Tử cũng đã được quan tâm [12], [48].
Bên cạnh những cơng trình nêu trên, cịn có một số luận văn Thạc sĩ
bàn về ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử ở những bình diện khác nhau. Tuy nhiên,
chưa có cơng trình nào khảo sát kỹ lưỡng và nghiên cứu sâu về vấn đề từ ngữ
và biện pháp tu từ trong thơ ông - điều mà luận văn này sẽ tập trung tìm hiểu.
3. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử (tuyển tập Thơ lãng mạn Việt Nam).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp một số vấn đề lý thuyết về thể loại thơ, ngôn ngữ thơ, từ ngữ
và biện pháp tu từ trong thơ, từ đó đi vào khảo sát, đánh giá những thành cơng
ở hai bình diện: từ ngữ và biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu: phương pháp thống kê - phân loại, phương pháp miêu tả, phương pháp
phân tích diễn ngơn, phương pháp so sánh.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
triển khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài
Chương 2: Từ ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử
Chương 3: Một số biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử


5
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ
1.1.1. Khái niệm thơ
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, thơ là thể loại ra đời sớm hơn cả
và liên tục cho đến ngày nay. Ở nhiều dân tộc trong một thời gian khá dài, các
tác phẩm văn học đều viết bằng thơ. Vì thế, trong lịch sử văn học nhiều dân
tộc thế kỉ XVII trở về trước, nói đến văn học là nói đến thi ca.
Vậy thơ là gì ? Đã có rất nhiều định nghĩa bàn về vấn đề này nhưng
chưa đi đến thống nhất và chưa có tiếng nói chung. Điều này do tính phức tạp
của thơ và mỗi nhà thơ, mỗi nhà nghiên cứu, nhà phê bình về thơ đều có một
cách định nghĩa riêng.
Cơng trình lí luận thi ca sớm nhất của phương Đông ra đời cách 1500
năm là Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp đã chỉ ra phương diện cơ bản cấu
thành tác phẩm thơ là: hình văn, hành văn và tình văn. Ngơn ngữ trong thơ
có họa (hình văn). Đến đời Đường, quan niệm về thơ của Bạch Cư Dị đã cụ
thể hơn một bước: cái cảm hóa được lịng u người chẳng có gì trọng yếu

bằng tình cảm, chẳng gì bằng ngơn ngữ, chẳng gì bằng âm thanh, chẳng gì
sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, mầm là ngơn ngữ, hoa là âm
thanh, quả là ý nghĩa. Trong quan niêm của Bạch Cư Dị các bình diện của
ngơn ngữ thơ được đề cập và làm sáng rõ. Trong bài Tựa Kinh thi, Chu Hi
cũng cho rằng: Thơ là cái dư âm của lời nói, trong khi lịng cảm xúc với sự
vật bên ngồi.
Ở Việt Nam, lí luận thơ đã nhấn mạnh Thi dĩ ngơn chí như một đặc
điểm của thể loại này. Phan Chu Tiên trong Việt âm thi tập thi san đã viết:
trong lịng có điều gì tất hình thành cho nên thơ để nói nội dung như vậy.


6
Nguyễn Bỉnh Khiêm khi viết tập thơ Bạch Vân Am đã nói rõ hơn nội
dung của chữ: có kẻ chỉ đạo đức, có kẻ chỉ để ở cơng danh, có kẻ chỉ để sự ẩn
dật. Nguyễn Trãi trong thời kì tham gia kháng chiến chống qn Minh lại nói
đến chí của mình ở trong sự nghiệp cứu nước… Có thể nói ngun tắc thi
ngơn chí (thơ nói chí) là ngun tắc mĩ học cổ đại mang chức năng giáo hóa.
Nhưng ở mỗi hoàn cảnh lịch sử, mỗi giai đoạn mà chức năng này có thể thay
đổi, thơ có thể mang chức năng phản ánh nhận thức, thơ phản ánh chí hướng
tình cảm con người, cuộc sống.
Đến đầu thế kỉ XX, xã hội nước ta có nhiều biến đổi sâu sắc. Từ đây
xuất hiện một lớp người mới, suy nghĩ mới và tình cảm mới. Bắt đầu từ Tản
Đà rồi đến các nhà Thơ mới (1932 - 1945), họ đã đem đến một luồng sinh khí
mới, với những đổi mới, những cách tân táo bạo làm thay đổi diện mạo và
làm nên thành công rực rỡ của nền thi ca nước nhà, hồn tất q trình hiện đại
hóa thơ ca về nội dung. Từ đó, nhiều định nghĩa về thơ cũng xuất hiện.
Thế Lữ nêu quan điểm: Thơ riêng nó phải có sức gợi cả bất kể trường
hợp nào. Lưu Trọng Lư thì cho rằng: Thơ sở dĩ là thơ, vì nó súc tích, gọn
gàng, lời ít mà ý nhiều và nếu cần phải tối nghĩa chỉ vì thi nhân khơng xuất
hiện một cách trực tiếp, lời nói của thi nhân phải là hình ảnh. Cực đoan hơn

là ý kiến của Hàn Mặc Tử: Làm thơ tức là điên. Với Chế Lan Viên, làm thơ
là làm sự phi thường. Thi sĩ khơng phải là người. Nó là Người Mơ, Người
Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Quỷ, là Tình, là u. Nó thốt hiện tại, xáo
trộn dĩ vãng, nó ơm trùm tương lai. Người ta khơng thể hiểu được nó vì nó
nói những cái vơ nghĩa hợp lí. Có thể thấy ở thời kì này các định nghĩa thơ
phần nào có những yếu tố rất cơ bản ảnh hưởng từ những quan niệm thơ của
trường phái thơ tượng trưng và siêu thực ở Pháp vào thế kỉ XIX và đầu thế
kỉ XX. Họ thường lí tưởng hóa hoặc đối lập một cách cực đoan giữa thơ ca
và hiện thực cuộc sống, kiểu như: Thơ là ở sự hiện thân những gì thầm kín


7
nhất và cho những hình ảnh tươi nhất, âm thanh huyền diệu nhất trong thiên
nhiên (La Mactin).
Sau cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta lại có điều kiện tiếp xúc với
nhiều ý kiến về thơ. Trước hết, thơ là tiếng nói tâm hồn, là sợi dậy tình cảm
ràng buộc con người với con người, là hành trình ngắn nhất đi tới con tim.
Quan niệm này được thể hiện rõ trong định nghĩa sau: Thơ là một tâm hồn đi
từ những tâm hồn đồng điệu, “Thơ là tiếng nói tri âm” (Tố Hữu) hoặc quan
niệm “Thơ cải thiện cuộc sống, hoàn thiện con người”. “Thơ biểu hiện cuộc
sống một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). “Thơ là sự sống tập trung cao độ là cốt
lõi của cuộc sống” (Lưu Trọng Lư).
Phan Ngọc trong bài viết Thơ là gì? đã đưa ra định nghĩa về thơ, trong
đó chú ý nhấn mạnh về ngơn ngữ. Ơng cho rằng, thơ là một cách tổ chức
ngơn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc do
hình thức ngơn ngữ này [41, tr. 25]. Đây là cách định nghĩa khá lạ, một định
nghĩa theo hướng cấu trúc ngôn ngữ. Ý kiến này đã đối lập hẳn ngôn ngữ thơ
với cuộc sống hằng ngày và với cả văn xuôi.
Một tác giả khác cũng đi theo hướng này là Nguyễn Phan Cảnh. Ông đã
tiếp xúc các luận thuyết về thơ ca trong và ngoài nước để đưa ra một vấn đề

rất thiết thực song không kém phần nan giải (các nhà thơ tư duy nên chất liệu
ngơn ngữ như thế nào). Lí thuyết liên hệ của Nguyễn Phan Cảnh đưa ra không
mới, song một lần nữa nên xem xét từ phương thức lựa chọn ngơn từ trong
các hệ hình để tạo ra có hiệu quả cao nhất được khẳng định là đúng và có sức
thuyết phục cao. Nguyễn Phan Cảnh khơng dừng lại ở đó mà mở rộng vấn đề
sang cấu trúc phổ biến trong ngơn ngữ thơ để giải thích nguồn gốc các biện
pháp tu từ [5, tr. 70,71].
Định nghĩa của nhóm các nhà nghiên cứu phê bình văn học gồm: Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Thuật ngữ nghiên cứu văn


8
học lại cho rằng: “Thơ là hình thức sáng tạo văn hoc phản ánh cuộc sống thể
hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình
ảnh nhất và nhất là có nhịp điệu” [18, tr. 262].
Từ một số định nghĩa trên đây, chúng tôi rút ra những đặc đểm cơ bản
về thơ:
- Chiếm lĩnh và thể hiện đời sống bằng phương thức trữ tình.
- Có cách tổ chức ngơn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, thơng qua các
phương tiện ngữ âm.
- Có tính hàm súc, đa nghĩa.
1.1.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ
1.1.2.1. Về ngữ âm
Đặc đểm nổi bật về ngữ âm của thơ (so với văn xi) là ở tính nhạc. Sở
dĩ chúng ta thường nhấn mạnh tính nhạc trong thơ vì ngơn ngữ thơ ca giàu
nhịp điệu, ngữ điệu, quãng cách và hòa âm so với văn xi. Ngơn ngữ thơ
Việt Nam có một nét riêng, độc đáo là nhờ vào đặc tính cấu trúc âm tiết tiếng
Việt, sự giàu có về thanh điệu. Bởi vậy, nghiên cứu đặc điểm tính nhạc trong
ngơn ngữ thơ không thể không chú ý những ý quan trọng đó.
Ngồi ra, hai yếu tố góp phần quan trọng, góp phần tạo tính nhạc cho

ngơn ngữ thơ ca là vần và nhịp. Những yếu tố ngữ âm này là cơ sở và cũng
là chất liệu cho sự hòa âm của ngơn ngữ thơ ca tạo nên âm hưởng trầm bổng,
kì diệu.
Nhạc thơ được tạo thành từ các yếu tố: vần điệu, nhịp điệu và thanh điệu.
a) Vần điệu
Vần trong thơ là một yếu tố quan trọng, nó có quan hệ chặt chẽ với
nhịp điệu. Vần là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ
âm nhất định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong dòng hay cuối dòng thơ, gợi
tả, nhấn mạnh sự ngừng nhịp [11, tr. 12].


9
Trong thơ, vần có vai trị gắn kết các dịng thơ lại thành từng đoạn,
từng khổ và từng bài hoàn chỉnh: Ở các khổ thơ, bài có vần, với chức năng tổ
chức vần như sợi dây ràng buộc các dòng thơ lại với nhau do đó giúp cho việc
đọc thuận miệng, nghe được đọc thuận tai và làm cho người đọc, người nghe
dễ thuộc, dễ nhớ [11, tr. 22].
Vần trong thơ là một kiểu gặp lại theo một quy định ngữ âm nhất định.
Hình thức này là dấu hiệu của sự hô ứng, liên kết gọi nhau của những yếu tố
từ ngữ, tạo nên kết cấu đặc biệt trong thơ. Tính nhạc của thơ cũng bắt đầu từ
đó và nó đã tạo nên khả năng mĩ cảm đặc biệt.
b) Nhịp điệu
Vần tuy là yếu tố quan trọng nhưng không bắt buộc phải có trong một
bài thơ, nhất là thơ tự do. Ngược lại, sự tồn tại của nhịp - một yếu tố có mối
quan hệ khăng khít với vần - lại mang tính tất yếu phổ quát. “Một cách khái
quát, có thể nói, nhịp thơ là cái được nhận thức thơng qua sự lặp lại có tính
chất chu kì cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng,
chỗ ngắt và những đơn vị văn bản như câu thơ (dịng thơ), khổ thơ, thậm chí
đoạn thơ” [11, tr. 64].
Trong thơ, nhịp điệu là kết quả hòa phối âm thanh được tạo ra từ ngắt

nhịp. Nhịp điệu liên kết với các yếu tố ngữ âm lại với nhau để tạo ra tính
nhạc. Nhịp điệu ngừng nghỉ theo cách thức nhất định khi phát âm hay còn gọi
là sự ngắt nhịp.
Vần và nhịp là hai yếu tố quan trọng về mặt hình thức trong thơ ca, vần
và nhịp nếu ngắt đúng chỗ thì mang ý nghĩa. Vần và nhịp tương hợp và giao
hòa với nhau. Nhịp là yếu tố cơ bản, là xương sống của bài thơ, là tiền đề cho
hiện tượng gieo vần.
c) Thanh điệu
Tiếng Việt có sáu thanh. Trong đó, bốn thanh (sắc, nặng, hỏi, ngã) là
thanh trắc; hai thanh (huyền, không dấu) là thanh bằng. Hệ thống thanh điệu


10
tạo nên các âm vực cao thấp khác nhau. Trong ngơn ngữ thơ, hịa phối thanh
điệu có tác dụng tạo nên âm hưởng trầm bổng - một yếu tố của nhạc tính
trong thơ.
Các thể thơ cách luật có sự quy định khá chặt chẽ về thanh điệu. Tuy
nhiên, nhiều nhà thơ có sự phá cách, tạo nên những âm hưởng độc đáo trong
thơ (chẳng hạn, có những câu thơ tồn thanh bằng, hoặc dồn các thanh trắc
thành môt hợp âm đặc biệt).
1.1.2.2. Về ngữ nghĩa
Thơ là loại hình nghệ thuật có ngơn ngữ cơ đọng. Mỗi từ ngữ khi được
đưa vào thơ đều phải trải qua sự lựa chọn của tác giả. Chúng hoạt động đa
dạng, linh hoạt và biến hóa. Nếu như trong văn xi, số lượng âm tiết, từ ngữ,
câu khơng hạn chế, thì ngược lại, thơ thường theo từng thể, có cấu trúc nhất
định. Khi đi vào thơ, do áp lực của cấu trúc và ngữ nghĩa, ngôn từ nhiều khi
không chỉ được dùng ở nghĩa đen, nghĩa ban đầu của nó, mà cịn có những ý
nghĩa mới, tinh tế, phong phú hơn. Chính vì vậy, ngữ nghĩa của ngôn từ trong
thơ lắm sắc màu hơn so với ngữ nghĩa ngôn từ trong giao tiếp đời thường và
văn xuôi.

Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ khơi gợi và để thực hiện chức năng gợi, các
đơn vị trong văn bản nghệ thuật phải được chọn lựa xây dựng và sắp xếp theo
cách thức nhất định. Hiệu quả biểu đạt ý ở ngồi lời là mục tiêu mn đời của
thi ca. Đặc trưng ngữ nghĩa này tạo cho ngôn ngữ một ức cuốn hút kì lạ với
người đọc, người nghe.
1.1.2.3. Về ngữ pháp
Về phương diện ngữ pháp, câu thơ, dòng thơ khơng hồn tồn trùng
nhau. Có những câu thơ bao gồm nhiều dịng thơ và cũng có nhiều dịng thơ
gồm nhiều câu thơ. Các thành phần trong dòng, trong câu hay bị đảo lộn trật
tự, các từ nhiều lúc không sắp xếp theo thứ tự bình thường như ở văn xuôi.


11
Đặc điểm này thể hiện rất rõ qua hiện tượng vắt dòng trong thơ ca Việt Nam
hiện đại.
Trong thơ, các dịng, các vế câu, các ý nhiều khi trơng qua hình như
khơng có mối quan hệ logic gì với nhau, lập luận, thậm chí có khi thật “phi
lí”, nhưng người đọc vẫn có thể hiểu được mạch ngầm các ý trong câu thơ,
hiểu được sự ẩn náu ngữ nghĩa đằng sau cấu trúc ngữ pháp bất thường.
Những kết hợp không bình thường trong cấu trúc dịng thơ diễn ra rất
đa dạng và phức tạp. Có khi một dịng chứa nhiều câu thơ, có khi một dịng
chỉ có một vế câu… Do vậy, nhà thơ có thể sử dụng nhiều kiểu câu bất
thường như đảo ngữ, câu tách biệt, câu vắt dịng, câu trùng điệp nhưng khơng
làm ảnh hưởng đến quy trình tiếp nhận nghĩa ngữ của văn bản, trái lại chính
nó mở ra những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca.
1.2. Hàn Mặc Tử trong bối cảnh Thơ mới 1932 - 1945
1.2.1. Hàn Mặc Tử - cuộc đời và sự nghiệp
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Phero Phanxico,
sinh ngày 22 - 9 - 1912, tại Lệ Mĩ - Đồng Hới. Tổ tiên của Hàn Mặc Tử vốn
họ Phạm, gốc ở Thanh Hóa. Ơng cố của Hàn Mặc Tử tên Phạm Chương, do

liên quan về quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con là Phạm Bồi phải trốn
vào Thừa Thiên Huế rồi đổi sang họ mẹ là họ Nguyễn. Bố của Hàn Mặc Tử là
ông Nguyễn Văn Toản, con trai trưởng của cụ Phạm Bồi. Hàn Mặc Tử là con
thứ tư trong một gia đình có sáu người con.
Bố của thi sĩ làm ở sở Thương chánh Nhật Lệ ở Đồng Hới. Lớn lên,
Hàn Mặc Tử theo bố đi nhiều nơi và theo học ở các trường tiểu học Sa Kỳ
(1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921 - 1923), Sa Kỳ (1924)… Năm 1926, bố
Hàn Mặc Tử qua đời, Hàn Mặc Tử theo mẹ vào Quy Nhơn và sau đó học ở
trường Pelerin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử thôi học về Quy Nhơn cùng
mẹ, học ở đây 3 năm, làm thơ và lấy bút hiệu Phong Trần, vào làm ở Sở đạc


12
điền một thời gian. Năm 1935, Hàn Mặc Tử bị đau rồi thơi việc. Và cũng vì
thất vọng về mối tình với Hồng Cúc, Hàn Mặc Tử vào Sài Gịn làm báo. Ở
đây, Hàn Mặc Tử gặp rất nhiều bạn thơ, rồi đổi bút danh là Lệ Thanh và sau
đó thành Hàn Mặc Tử. Năm 1936, Hàn Mặc Tử gặp Mộng Cầm và giữa họ
tình cảm ngày càng thắm thiết. Nhưng đến cuối năm khi bệnh nặng thêm, Hàn
Mặc Tử chia tay Mộng Cầm, trở về Quy Nhơn.
Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử sống trong sự đau đớn của thể xác,
cô đơn tuyệt vọng về tinh thần, Mộng Cầm đi lấy chồng, nữ sĩ Mai Đình ra
thăm nhưng do mặc cảm bệnh tật Hàn Mặc Tử trốn không gặp, Thương
Thương tuy là một bóng dáng khuynh thi, nhưng ngồi đời cũng hết sức mơ
hồ và xa xăm. Tuyệt vọng về tinh thần, mặc cảm về bệnh tật, Hàn Mặc Tử rơi
vào trạng thái cuồng vọng khủng khiếp. Trước số phận bi đát đó thì tình cảm
bạn bè dành cho thi sĩ, và tinh cảm của thi sĩ với cuộc đời với thơ ca đã xoa
dịu cõi lòng tan nát của nhà thơ. Các tập thơ, kịch thơ, thơ và văn xi lần
lượt ra đời, đó cũng chính là cách mà nhà thơ vượt ra khỏi sự đau thương và
cái chết. Trước khi chết Hàn Mặc Tử đã gác lại chuyện văn chương, lấy lại
trạng thái tĩnh tại trong tâm hồn để đi vào cõi vĩnh hằng một cách nhẹ nhàng

vào ngày 11 tháng 11 năm 1940.
Tài năng thơ ca của Hàn Mặc Tử được bộ lộ rất sớm. Tài năng đó trước
hết được bộc lộ ở thơ Đường luật. Khi mới 15 tuổi với bút danh là Minh Duệ
Thị, Hàn Mặc Tử đã làm nhiều bài thơ xướng họa với anh trai của mình là
Mộng Châu (tức Nguyễn Bá Nhân), Mộng Châu là một nhà thơ Đường luật
sành nghề. Chính nhờ anh trai mà sự nghiệp học hành và sáng tác của thi sĩ
vẫn được tạo đà và phát triển sau khi bố qua đời.
Với hi vọng phát triển một tài năng, mẹ Hàn Mặc Tử đã gửi Hàn Mặc
Tử ra Huế học. Ở đây, thi sĩ đã nhanh chóng hịa nhập và thích nghi với xứ
Huế n ả, thanh bình, phong cảnh nên thơ. Những yếu tố này in dấu khá rõ
trong các bài thơ của ông.


13
Khi Phan Bội Châu mở Mộng du thi xã và tổ chức thi thơ, Hàn Mặc Tử
đã gửi mấy bài thơ dự thi (kí tên là Phong Trần) và đạt giải nhất, Phan Bội
Châu đã hết lời ca ngợi: Từ khi về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm
cũng khá nhiều, song chưa gặp được bài nào hay đến thế… Ơi hồng Nam
nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là
thả hồn thơ vào đó. Từ đó, tên tuổi của Hàn Mặc Tử ngày càng được khẳng
định và tơn vinh.
Năm 1931, Hàn Mặc Tử có đăng các báo: Phụ nữ tân văn, Lời thăm,
Tiếng dân với một phong vị Đường luật làm xôn xao làng thơ.
Tháng 6 năm 1934, Lưu Trọng Lư vào Huế diễn thuyết tại hội học Quy
Nhơn để bênh vực để bênh vực cho hội Thơ mới với thì đúng lúc đó Hàn Mặc
Tử mới thực sự chọn Thơ mới làm phương tiện để thể hiện thế giới tình cảm
của mình và anh bắt đầu gửi các bài thơ đăng ở các báo Sài Gòn.
Năm 1936, Hàn Mặc Tử phát hiện mình mắc bệnh, đành thơi làm báo
rồi cùng Yến Lan, Hồng Diệp, Nguyễn Viết Lâm, Nguyễn Minh Vĩ, Chế Lan
Viên lập nên trường thơ loạn, cho ra đời tập Nắng xuân. Từ đó, các tập Gái

quê, Thơ Điên (sau gọi là Đau thương) lần lượt ra đời. Thơ Hàn Mặc Tử có 6
tập, ngồi ra cịn có vở kịch là: Dun kì ngộ và Quần tiên hội, một tập văn
xuôi: Chơi giữa mùa trăng và trên dưới 24 bài thơ chưa in.
Lệ Thanh thi tập với phần lớn là những bài thơ Đường luật được sáng
tác trong thời gian Hàn Mặc Tử theo học tại Huế. Ở giai đoạn này, thơ Hàn
Mặc Tử chủ yếu nghiêng về khoái cảm, tức cảnh, ngâm vịnh, thể hiện nỗi
niểm ưu thời mẫn thế.
Gái quê xuất bản 1936, lúc bấy giờ Hàn Mặc Tử đã chuyển sang làm
Thơ mới. Đây là tập thơ khẳng định thiên tài thơ ca Hàn Mặc Tử. Lời thơ nhẹ
nhàng duyên dáng, cánh quê, tình quê gắn với những sự vật quen thuộc.
Các tập thơ: Thơ Điên (Đau thương), Xuân như ý, Thượng thanh khí lại
tập trung tất cả những rung động cảm xusc, yêu thương, đau khổ, vui buồn,


14
hờn giận… càng làm cho thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử trở thành
một hồn thơ dị biệt. Những hình tượng độc đáo, trí tưởng tượng phong phú,
những cảm giác siêu thực… tạo nên sự lôi cuốn hấp dẫn của thơ Hàn Mặc Tử.
Duyên kì ngộ và Quần tiên hội là những vở kịch thơ viết chưa hoàn
thành. Lúc bấy giờ Hàn Mặc Tử đang ở trên ranh dưới giữa sự sống và cái
chết, thế nhưng lời thơ vẫn rất trong sáng, thiết tha, khao khát một sức sống
mãnh liệt. Trong hai vở kịch này, không gian trần tục được thay thế bằng
không gian thơ mộng, của cõi tiên với tiếng chim hót, bóng trăng, tiếng kêu
ngân… với một giai nhân tuyệt sắc Thương Thương cùng thi sĩ làm nên một
vẻ đẹp và tình yêu làm nên một thế giới riêng.
Chơi giữa mùa trăng và những bài thơ chưa in vào tập cùng khẳng định
tài năng, tình yêu cuộc sống, một nghị lực và một bản lĩnh hiếm có của Hàn
Mặc Tử. Thế giới trong tập thơ văn xuôi là cả một thế giới Hàn Mặc Tử ngất
ngây trong cõi tiên, cõi mơ mộng khơng cùng. Ở đó có nước nhược, non
bồng, nhà thơ tự do chơi trong đó, để chiêm bao, để hát khúc li tao.

Điểm trung tâm để làm cho thơ Hàn Mặc Tử trở thành một nguồn thơ
dị biệt đó là trong thơ Hàn Mặc Tử tình yêu cuộc sống, tình yêu thơ ca và chất
Đạo (cả đạo Phật và đạo Thiên Chúa) hòa quyện vào nhau cộng với những
rung cảm và trí tưởng tượng độc đáo đã làm nên một hồn thơ bí ẩn, hấp dẫn.
1.2.2. Vị trí của Hàn Mặc Tử trong Thơ mới 1932 - 1945
Hàn Mặc Tử là một trong những nhân vật bí ẩn và kỳ lạ nhất của văn
học Việt Nam hiện đại. Như “một ngôi sao chổi xẹt qua bầu trời văn học”, với
mười năm sáng tác, Hàn Mặc Tử đã kiến trúc một ngôi nhà thơ của riêng
mình vừa khn thước, mẫu mực vừa phiêu bồng, biến ảo và vượt thoát khiến
những nhà nghiên cứu văn học từ trước tới nay vừa hứng thú, vừa bối rối
trong những phỏng đoán “Hàn Mặc Tử, anh là ai”? Cổ điển hay là tân kỳ,
huyền thoại hay là hiện thực, thiên tài hay là kẻ mê hoặc, điên loạn. Nhưng dù


15
Hàn Mặc Tử là như thế nào, có một điều không thể phủ nhận: ông đã để lại
dấu ấn không nhịa phai trong lịch sử văn chương dân tộc.
Có lẽ khơng có một người thơ nào trong phong trào Thơ mới nói riêng
và thi ca Việt Nam nói chung lại mang trong mình một nỗi đau thương quằn
quại về thân xác cũng như về tinh thần, bị dồn ép, tàn phá khốc liệt về mọi
phương diện của cuộc sống vì một trong “tứ chứng nan y” - bệnh phong như
Hàn Mặc Tử. Dù đồng cảm hoặc chia sẻ đến bao nhiêu với số phận cay nghiệt
của Hàn Mặc Tử, người đồng thời hay chúng ta hôm nay đều không bù đắp
được nỗi tổn thương, sự tuyệt vọng, nỗi buồn và sự cô đơn mà thi nhân phải
chịu đựng từ lúc mang bệnh (1936) cho đến khi giã biệt cõi trần (1940), với
tuổi đời 28. Mọi người trên trái đất này đều có thể bị bệnh, đều có thể ra đi
nhưng là thứ bệnh khác, không bị xa lánh, bị biệt lập với thế giới con người
như căn bệnh của Hàn Mặc Tử.
Như có một sự bù trừ của tạo hóa, sự bất hạnh về tinh thần, nỗi đau
thân xác, cộng với bản năng sáng tạo đã chắp cánh cho thiên tài và thi ca Hàn

Mặc Tử, đưa thi sĩ lên đỉnh cao của văn chương, nghệ thuật hiện đại. Từ
những năm ba mươi của thế kỷ, trong tư duy nghệ thuật của mình, Hàn Mặc
Tử đã có ý thức đi tìm cái lạ và nung nấu thi hứng sáng tạo ở một cường độ
cao: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ - sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu,
bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình u. Tơi đã vui
buồn hờn giận đến gần đứt sự sống”. Thơ với Hàn Mặc Tử là sự nới rộng
biên độ và khám phá chiều sâu tâm linh “vườn tôi rộng rinh không bờ bến,
càng đi xa càng ớn lạnh”. Nói như Vũ Ngọc Phan: “Về sự thành thật, có lẽ
Hàn Mặc Tử hơn hết cả các nhà thơ hiện đại” [44, tr. 389]. Trong bản chất
sáng tạo thơ ca của mình, Hàn Mặc Tử dường như bao giờ cũng muốn khai
thác đến tận cùng chất liệu cái tơi của mình. Trong thế giới nghệ thuật của thơ
mình, Hàn Mặc Tử đã từ trạng thái đau thương bên trong chuyển hóa thành


16
trạng thái sáng tạo thi ca. Nếu không mắc bệnh phong thì Hàn Mặc Tử đã
khơng để ý đến những biểu lộ khác thường: Người trăng ăn vận toàn trăng
cả/ Gị má riêng thơi lại đỏ hườm. Hoặc cái cảm giác chỉ người “đồng bệnh”
mới phát hiện ra: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút / Mỗi lời thơ đều dính
não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như mê man chết điếng cả
làn da (Rướm máu).
Một nét đặc biệt làm nên sự đa dạng trong thi hứng Hàn Mặc Tử là
nguồn thơ về đạo, về tơn giáo. Nếu Nguyễn Trọng Trí là một tín đồ Thiên
Chúa, thì Hàn Mặc Tử là một thi nhân. Vị tín đồ, con chiên ngoan đạo và
chàng thi sĩ họ Hàn lại là một. Với nhà thơ thì sáng tạo nghệ thuật, thiên chức
nghệ sĩ là tối cao, duy nhất. Hàn Mặc Tử không thể không kết hợp giữa yêu
cầu về đức tin, tín ngưỡng của tơn giáo với những địi hỏi khơng thể cưỡng lại
của sự sáng tạo. Trong một chừng mực nào đó, sự cám dỗ của một Hàn Mặc
Tử nhà thơ đã lấn át một Nguyễn Trọng Trí tín đồ. Thơ tơn giáo ra đời với
Hàn Mặc Tử, như quan niệm của thi sĩ: “Tơi dung hồ cả hai thể văn chương

tôn giáo: Thiên chúa và nhà Phật. Đó chỉ là muốn làm giàu cho nền văn
chương chung”.
Nhưng với tư cách là một nhà nghệ sĩ, Hàn Mặc Tử không giới hạn đề
tài trong một phạm vi sáng tạo, kể cả khi nói về Đạo. Hàn Mặc Tử “trong khi
ơm một lý tưởng thơ, đi tìm cảm hứng đã gặp đạo và tìm được đạo trong
nhiều đề tài, nhiều thanh sắc, tư tưởng để làm giàu cho thơ mình”. Tơn giáo
trong thơ Hàn Mặc Tử là những gì thanh khiết, thiêng liêng đã được lãng
mạn, thi vị hoá mất dần đi vẻ trang nghiêm tuyệt đối của tín điều, kinh điển.
Dù thơ Hàn Mặc Tử có tỏ lịng mộ đạo, sùng kính Chúa, với Thánh nữ
Maria, cũng không thể gọi ông là nhà thơ tôn giáo. Theo Quách Tấn: “Tử là
một nhà thơ đi vào vườn hoa tơn giáo chỉ để tìm hương phấn về ướp cùng
hương thơ đó mà thơi. Bởi vậy khơng thể gọi Hàn Mặc Tử là nhà thơ tôn giáo.
Tử là một nhà thơ thuần tuý”.


17
Trong gia tài thi ca của Hàn Mặc Tử, người ta còn biết đến những bài
thơ trong sáng như ca dao, ngọt lành như trái chín với cái nhìn trẻ trung, lãng
mạn mà bí ẩn của thi nhân.
Hàn Mặc Tử đã gắn bó tâm hồn mình với thiên nhiên đất nước, với
những không gian đã từng chứng kiến bao kỷ niệm vui buồn, được mất trong
cuộc đời và tình duyên của thi nhân. Lạ lùng thay với Hàn Mặc Tử, “những
địa danh cụ thể cũng trở thành huyền ảo”, cũng nên thơ với Đà Lạt trăng mờ,
Đây thôn Vĩ Dạ, Phan Thiết! Phan Thiết. Tình quê hương trong cách cảm,
cách nghĩ của thi sĩ khơng chỉ là tình người, tình đời như thơ Nguyễn Bính
hay là bức tranh quê như trong thơ Bàng Bá Lân, Anh Thơ mà là tiếng vọng
của tâm linh, với những hình ảnh gợi cảm, giàu nhạc điệu.
Trong số những nhà thơ làm nên “một cuộc cách mạng trong thi ca”
1932-1945, với một phong cách đa dạng, độc đáo, đầy bản lĩnh sáng tạo, Hàn
Mặc Tử đã làm một cuộc vượt ngưỡng với thi ca, đạt đến đỉnh cao thành tựu.

Chỉ trong vòng hơn chục năm xuất hiện trên thi đàn, từ Lệ Thanh thi
tập đến Gái quê, qua Đau thương đến Xuân như ý, Thượng Thanh khí, rồi Cẩm
Châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội, thơ Hàn Mặc Tử đã trải qua một
hành trình từ cổ điển đến lãng mạn, từ lãng mạn đến tượng trưng và cập bờ siêu
thực, góp một phần quan trọng trong tiến trình hiện đại hố thi ca dân tộc. Là
người cùng thời với thi tài Hàn Mặc Tử, ngay từ những năm bốn mươi của thế
kỷ, nhà văn Trần Thanh Mại đã khẳng định: “Hàn Mặc Tử là người đầu tiên
trong thế kỷ XX mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam và
thành công một cách vinh quang rực rỡ” (Hàn Mặc Tử thân thế và thi văn,
Huế, 1941). Còn Chế Lan Viên, là người của nhóm thơ Bình Định, cùng Hàn
Mặc Tử lập ra Trường thơ Loạn đã tiên đoán ngay từ khi Hàn Mặc Tử qua đời:
“Những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ
này, chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” (Người mới, 23/11/1940).


18
Có lẽ trong số các thi sĩ của Thơ mới, chỉ có Hàn Mặc Tử là “người tình
cũ” của thơ Đường luật, đã nổi danh với thể thơ ấy từ 1931 với các bút hiệu
Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh. Ba bài thơ Thức khuya, Chùa hoang,
Gái ở chùa trong Lệ Thanh thi tập của Hàn Mặc Tử đã được cụ Phan Bội Châu
hoạ vận với những lời ca tụng: “Từ về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn
quốc âm song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam, nhạn Bắc, ước
ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau, cười to một tiếng, ấy là thoả hồn thơ đó”.
Với Bài thơ cửa sổ đêm khuya, Hàn Mặc Tử tỏ ra am hiểu nghệ thuật Đường
thi và đã điều khiển các con chữ như một nhà ảo thuật ngơn từ.
Hàn Mặc Tử là như vậy, có lẽ đó là con người đặc biệt nhất của thi ca
Việt Nam hiện đại. Cả cuộc đời mình ơng đã tạo nên như một huyền thoại và
trải qua nó với tất cả sức mạnh của trái tim, của niềm đam mê trong sáng tạo.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, trải qua bao thử thách của thời gian, thơ Hàn
Mặc Tử vẫn hấp dẫn hậu thế với những tầm đón đợi và tiếp nhận đa chiều

kích. Di sản thi ca của ông đã nhập vào kho tàng văn chương nước nhà, và
mỗi khi lật giở lại những dòng thơ của thi nhân, người đọc vẫn tìm thấy một
niềm đồng cảm thiêng liêng và vẫn khơng kìm nén được những xót xa kinh
ngạc cùng những rung động lạ thường…
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 của luận văn đi vào luận giải một số vấn đề lý thuyết về thơ
và ngôn ngữ thơ. Trên cơ sở những tài liệu rất phong phú về lĩnh vực này,
chúng tôi chỉ tổng thuật những luận điểm gần gũi với nội dung của để tài, làm
cơ sở để triển khai các chương tiếp theo.
Trong chương 1, luận văn cũng nêu những nét khái quát về cuộc đời và sự
nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử. Ở các mục này, chúng tơi đặc biệt nhấn mạnh vị
trí của Hàn Mặc Tử trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945. Vấn đề này sẽ được
làm sáng tỏ khi đi sâu phân tích những đóng góp của Hàn Mặc Tử ở phương
diện hình thức, trong đó, hai khía cạnh tiêu biểu là từ ngữ và các biện pháp tu từ.


19
Chƣơng 2
TỪ NGỮ TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
2.1. Từ ngữ trong thơ và các hƣớng tiếp cận
2.1.1. Từ ngữ trong thơ
Nói đến thơ, khơng thể khơng nói đến đặc trưng của từ ngữ trong thơ.
Đối với người nghệ sĩ, quá trình sáng tác văn học, xét theo phương diện nào
đó, là q trình điều hành tổ chức ngơn ngữ theo một cơ cấu riêng mang tính
chủ quan. Ở đây ngơn từ vừa là phương tiện vừa là vật liệu được khách quan
hóa nhưng đối tượng tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ. Từ những ý đồ chủ
quan ban đầu, qua quá trình tái hiện và chọn lọc, người nghệ sĩ phải tạo ra
phương thức thích hợp cho những cảm xúc của mình. Từ đó làm cho nó hóa
thân từ chủ quan thành khách quan. Mỗi tác giả, bằng cảm quan nghệ thuật,
bằng tài năng của cá nhân đã có sự lựa chọn ngôn từ riêng. Việc lựa chọn lớp

từ nhất định nào đó sẽ được quyết định bởi lối tiếp cận đời sống, tư tưởng
thẩm mĩ và vốn từ riêng của tác giả.
Từ ngữ trong thơ là từ ngữ cơ đọng, hàm súc, có sự lựa chọn kĩ càng.
Số lượng các đơn vị từ ngữ trong một bài thơ tuy khác nhau nhưng nhìn
chung vẫn có hạn định. Thế mà, mỗi bài thơ phải thể hiện một đề tài riêng,
một tứ thơ, một cách cấu tứ, một cảnh, một sự, một tình. Vì thế làm thơ phải
tiết kiệm từ ngữ và phải biết chọn lọc từ ngữ kĩ càng.
Thơ địi hỏi tính hàm súc, tính hàm súc này sinh từ mặt thơng tin của
tác phẩm, trên một diện tích ngôn ngữ hạn hẹp với tư cách là một văn bản
thơng tin, một hệ thống tín hiệu (tín hiệu thẩm mĩ), ngơn từ đã nó cần cung
cấp cho người đọc một lượng thơng tin cao.
Trong từ ngữ của thơ, có những từ ngữ đóng vai trị là chìa khóa của
bài thơ, là từ đặc biệt mang âm hưởng riêng, sắc thái riêng của bài thơ, là


20
điểm sáng trong bài thơ. Không nhất thiết là bài thơ nào cũng có những từ
ngữ như thế nhưng nhìn chung, từ đều được nhà thơ lựa chọn kĩ càng, dồn
vào nó sức căng của bài thơ.
Từ ngữ trong thơ có sức tạo liên tưởng nhiều tầng. Từ ngữ được sử
dụng trong bài thơ rất đậm những loại từ giàu hình ảnh, giàu màu sắc, đường
nét âm thanh, nhạc điệu, những loại từ đó có khả năng gợi hình, gợi tả rõ nét
về đối tượng. Trong hệ thống vốn từ tiếng Việt những từ có khả năng trên
người ta gọi là từ: tượng thanh, từ tượng hình, phần lớn là từ láy:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Từ láy xập xè vừa gợi hình tượng âm thanh, vừa gợi ra một hình ảnh thị
giác. Nó miêu tả dáng bay của con chim, tiếng bay lé xé của con chim, đồng
thời cũng gợi ra sự vắng lặng của ngôi nhà cũ trong tâm trạng chơ vơ của Kim

Trọng khi trở lại vườn thúy.
Từ ngữ được sử dụng trong thơ mang tính biểu cảm. Mỗi bài thơ đều
gợi ra một phương diện nào đó của cuộc đời, đều chứa đựng những suy nghĩ,
cảm xúc riêng của mỗi nhà thơ về con người, đó có thể là trạng thái vui, buồn,
hờn, giận… Chính nhờ vào điều này mà người đọc dễ bị xúc động, bị lôi cuốn
vào tác phẩm.
Từ ngữ trong thơ được vận dụng bởi nhiều phép chuyển nghĩa nhưng
chủ yếu là ẩn dụ. Ẩn dụ là biện pháp tu từ chuyển nghĩa đen sang nghĩa bóng,
từ trực tiếp sang gián tiếp trên cơ sở tương đương, từ những dấu hiệu giống
nhau về một mặt nào đó của kí hiệu thẩm mĩ giữa đối tượng và hiện tượng
theo sự liên quan tương xứng giữa hai nghĩa và ý thức được một sự so sánh
được hiểu ngầm. Đây là phép so sánh chỉ có một thành phần, chỉ nói đến một
vế so sánh. Vì thơ là lĩnh vực tình cảm tinh tế, nó là cách khám phá sự tương


21
đồng một cách kín đáo giữa các đối tượng, hướng vào dấu hiệu được chú ý
của đối tượng kia.
2.1.2. Các hướng tiếp cận từ ngữ trong thơ
Do những đặc trưng nêu trên, từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật trở
thành vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, ở mỗi ngành
khoa học khác nhau, từ ngữ trong tác phẩm văn học lại thường được các nhà
nghiên cứu tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Nhà từ vựng học thống kê vốn
từ của nhà văn, nhà thơ, khảo sát những lớp từ nổi bật (từ Hán Việt, từ địa
phương, tiếng “lóng”…) đặt những từ này trong tương quan với các lớp từ
khác trong vốn từ toàn dân để rút ra hiệu quả nghệ thuật mà lớp từ đó mang
lại cho tác phẩm cũng như thấy được dấu ấn riêng của người sáng tác trong
cách sử dụng lớp từ đó. Nhà ngữ pháp học quan tâm đến đặc điểm cấu tạo của
từ ngữ mà nhà văn thường sử dụng. Người làm phong cách xem xét từ ngữ
trong tác phẩm dưới góc độ phong cách chức năng và sự lựa chọn từ ngữ của

người nghệ sĩ. Nhà thi pháp học thống kê tần số sử dụng của một số lớp từ nổi
bật, qua đó, rút ra quan niệm nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ… Như vậy, từ
ngữ trong tác phẩm nghệ thuật được tiếp cận dưới rất nhiều góc độ. Trong
luận văn này, chúng tơi chỉ đưa ra hai hướng tiếp cận mà chúng tơi cho là có
hiệu quả nghệ thuật hơn cả, đó là hướng tiếp cận từ góc độ phong cách học và
hướng tiếp cận từ góc độ thi pháp học.
“Trong những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa học
nghiên cứu sự vận dụng ngơn ngữ, nói khác đi, đó là khoa học về các quy luật
nói và viết có hiệu lực cao”. Theo đó, một trong những đối tượng nghiên cứu
cơ bản của phong cách học đó là nguyên tắc lựa chọn, sử dụng các phương
tiện ngơn ngữ, trong đó có từ ngữ.
Mỗi từ được nhà văn, nhà thơ lựa chọn đều có giá trị biểu cảm bởi khi
sáng tác họ khơng thể bỏ qua một thao tác quan trọng, đó là lựa chọn và sử


×