Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.1 KB, 116 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ở đó, tài năng, cảm xúc của người nghệ sĩ được thăng hoa. Tác phẩm của họ là kết quả của cả một quá trình “lao tâm khổ tứ”, là đứa con tinh thần mà nhà văn đã “thai nghén” . Điều đặc biệt và thú vị là cùng phản ánh cuộc sống nhưng tác phẩm văn học lại có muôn màu muôn vẻ, với những phương thức phản ánh khác nhau. Và tự sự là một trong những phương thức biểu đạt thông dụng mà văn học chọn dùng để phản ánh cuộc sống, nó là “ phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự vật” (Jonathan Culler). Trong tự sự, vai trò của người trần thuật rất quan trọng vì “ kỹ thuật” trần thuật là một trong những yếu tố hình thức lôi cuốn độc giả. Do vậy, gần đây hiện tượng gây sự chú ý thu hút của các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu phê bình là ở vấn đề cách kể như thế nào hơn là kể cái gì. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quang Sáng có những đóng góp đáng kể. Những tác phẩm truyện ngắn của ông gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, làm phong phú thêm bức tranh truyện ngắn Nam Bộ nói riêng, truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói chung. Tìm hiểu truyện ngắn của ông, ta có thể hiểu thêm về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, hiểu thêm về bản sắc con người Nam Bộ và con người Việt Nam. Vì thế, nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói chung, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói riêng sẽ giúp chúng ta hiểu hơn bức tranh truyện ngắn Nam Bộ và truyện ngắn Việt Nam cả trước và sau 1975. 1.2. Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Trong dàn đồng ca của văn xuôi sử thi thời kỳ chống Mỹ, Nguyễn Quang Sáng.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> vẫn có cách viết riêng của mình. Sau 1975, ông vẫn tiếp tục sáng tác và có những tác phẩm thành công. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn, chúng ta sẽ hiểu hơn cá tính sáng tạo, tài năng, phong cách của một cây bút văn xuôi khá nổi tiếng trên văn đàn. Tài năng nhà văn, như chúng ta biết, không chỉ thể hiện ở việc anh ta kể cái gì mà quan trọng hơn là kể như thế nào. Hướng nghiên cứu về trần thuật sẽ là cơ hội để người viết tiến hành tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật làm nên tài năng sáng tạo của Nguyễn Quang Sáng trên tinh thần khoa học. 1.3. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông với tác phẩm Chiếc lược ngà,Quán rượu người câm. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn sẽ góp phần giảng dạy tốt hơn thể loại truyện ngắn nói chung, truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói riêng. Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng” làm đề tài nghiên cứu luận văn. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: Nguyễn Quang Sáng là tác giả của khá nhiều tác phẩm được bạn đọc yêu thích. Vì thế, văn nghiệp của ông thu hút sự quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu của đông đảo bạn đọc. Đã có nhiều nhà văn, nhà phê bình quan tâm đến tác phẩm của ông như: Trần Hữu Tá, Nguyễn Lộc, Hoàng Trung Thông, Tô Hoài, Nguyễn Nghiệp, Vân Thanh, Bùi Việt Thắng, Trần Đăng Khoa, Ngô Quốc Trung, Vũ Tú Nam, Phan Hoàng, . . . thể hiện qua các bài phê bình, lời giới thiệu, một số cuộc phỏng vấn...được đăng trên các tạp chí, tập san, các tuyển tập, các trang web uy tín..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Trong khuôn khổ đề tài , chúng tôi chỉ xin đề cập đến những ý kiến có liên quan đến nghệ thuật trần thuật của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Nghệ thuật trần thuật là nghệ thuật kể, là cách trình bày các sự kiện, tình tiết, biến cố . . ., là thủ thuật phối xen kể - tả của nhà văn. Để trần thuật đạt hiệu quả nghệ thuật cao, nhà văn phải chọn điểm nhìn để kể, chọn nhịp điệu kể, giọng điệu kể, ngôn ngữ kể sao cho hấp dẫn thu hút độc giả. Vì vậy tìm hiểu nghệ thuật trần thuật là tìm hiểu cách nhà văn tổ chức điểm nhìn nào để kể, cách chọn tốc độ nhịp điệu trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ để trần thuật như thế nào. Sau đây là một số ý kiến nhận xét có liên quan đến các phương diện trên. 2.1. Một số ý kiến về cách tổ chức điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Quang Sáng Tuy chưa gọi là đúng khái niệm điểm nhìn trần thuật nhưng một số ý kiến cũng đã đề cập đến phương diện này, dù ở những mức độ khác nhau. Phạm Văn Sỹ trong cuốn Văn học giải phóng miền Nam (1979) khẳng định: “Nguyễn Quang Sáng được chú ý hơn hết với những truyện ngắn viết về cuộc sống của người dân Nam Bộ trong chiến tranh. Đó là những bức tranh khác nhau thể hiện những vẻ đẹp khác nhau của dân thường, người cán bộ cơ sở, người chiến sĩ giải phóng. Tác giả tỏ ra nhạy cảm trong việc nắm bắt những sự kiện tiêu biểu, tinh tế trong việc khai thác tính cách của con người Nam Bộ”[57,32]. Vân Thanh trong bài Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cho rằng: Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng tuy đậm tính kịch nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình. Truyện ngắn của anh đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho ta thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản ( ... ) Nguyễn Sáng không có tham gia bình phẩm nhưng xúc động của người viết thường vẫn không giấu được ...”[60,81]..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> Trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng khoa đã phác hoạ “chân dung” Nguyễn Quang Sáng: “ ...Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó na ná giống anh Bảy Ngàn ( ... ). Con người ấy hình như vừa đơn giản, sơ lược, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của quê hương Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ưa ngạnh như vách đá ( ... ). Văn Nguyễn Quang Sáng nó tự nhiên, phóng túng, ngang tàng, pha một chút vui vui, tếu tếu, là cái hóm, cái duyên riêng của người Nam Bộ, cũng là nét đặc sắc Nguyễn Quang Sáng, là đóng góp riêng của ông vào nền văn học. Nếu nói mỗi nhà văn phải trả cho được “món nợ đời” thì Nguyễn Quang Sáng xem như không còn “mắc nợ” nữa. “Nguyễn Quang Sáng ( ... ) là một cây bút truyện ngắn lão luyện. Cái tài của Nguyễn Quang Sáng là ở khả năng dựng truyện, ở kết cấu độc đáo, ở lối kể hấp dẫn, Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện ngắn có ma lực, gây được ấn tượng”[19,287]. Nhà thơ Hoàng Trung Thông ở bài Chờ đợi những mùa gió chướng (2002) có nhận xét: “ Những nhân vật trong truyện ngắn của anh không còn những dáng dấp cũ nhưng qua khuôn mặt của họ ta vẫn nhận ra như chính anh đã nhận ra”[71]. 2.2. Một số ý kiến nhận xét về giọng điệu trần thuật của Nguyễn Quang Sáng Trong lời tựa 25 truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (1989), Trịnh Công Sơn viết: “ Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một thực tế có thể chạm đến được và từ đó có quyền yêu thích hoặc không. Tôi quen anh từ sau ngày đất nước thống nhất, người ta có thể yêu văn phong người này và khước từ một lối hành văn khác. Tôi là kẻ yêu loại văn chương tráng lệ. Ở Nguyễn Quang Sáng khó tìm ra cái thủ pháp đầy quyến rũ của chữ nghĩa. Người ta đã nói và nhắc lại nhiều lần.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> trên sách báo: Văn là người. Trường hợp này rơi xuống đúng đời văn – đời người của Nguyễn Quang Sáng. Nói như thế nào, nghĩ như thế nào và sồng như thế nào thì viết như thế ấy. Mặc dù, phải xa đến mấy mươi năm dòng sông Cửu Long mạnh khỏe, đỏ rực phù sa, nhưng trong văn chương của anh vẫn là văn chương của kẻ tha thẩn trên những dòng sông Nam Bộ . Nếu tôi không nhầm lẫn quá thì hình như địa lí của mỗi miền thường ảnh hưởng, thậm chí quy định độ bền, chiều sâu, độ dài của tác phẩm mỗi người làm văn học. Miền Nam theo tôi, ít người viết truyện ngắn. Chín con rồng đầy đủ phù sa như thế làm sao mà thu gọn súc tích trong vài trang viết cho được. Nguyễn Quang Sáng là kẻ muốn đánh lạc mình ra ngoài địa lí và ở ngoài không gian qui định để làm người kể chuyện mộc mạc mà tinh tế những chuyện mình và chuyện đời như một quà tặng gọn ghẽ chuyển đến cho mọi người một cách thầm lặng”. Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Còn lại tình yêu (2000) nhận định về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng : “ Cái chất Nam Bộ thể hiện rõ trong văn của ông, nó được thể hiện bằng một lối viết phóng khoáng thể hiện qua từng lời nói nhân vật, chất Nam Bộ trong Nguyễn Quang Sáng còn là cái tình của nhà văn đối với quê hương”. Với bài viết Vài phút với Nguyễn Quang Sáng (2000), nhà văn Trần Đăng Khoa cho rằng: “ Trong hơi văn của Nguyễn Quang Sáng nó sục lên mùi vị của sông nước Tháp Mười , cả cái chất đậm đặc không thể trộn lẫn”. Như vậy, về phương diện nội dung, ý nghĩa xã hội của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, hầu như các ý kiến đều khẳng định đóng góp của Nguyễn Quang Sáng “cách kể chuyện” trong tác phẩm. “Cách kể chuyện” được thể hiện ở trang viết về tính cách và tâm hồn con người miền Nam trong chiến tranh cùng dấu ấn văn hóa đặc sắc của vùng Nam Bộ . 2.3 Một số ý kiến về ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Trần Hữu Tá sau khi đọc truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã nhận xét: “Nguyễn Quang Sáng có một phong cách viết truyện ngắn độc đáo. Truyện thường lắm tình huống bất ngờ, ngẫu nhiên nhưng tự nhiên, giàu chi tiết sống động và kỳ diệu nhưng hợp lý, tính kịch rất nỗi nhưng cũng đậm đà chất trữ tình”. Vân Thanh trong bài Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cho rằng: “Nguyễn Quang Sáng vốn là cây bút khéo sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên, nhưng đó là cái ngẫu nhiên tự nhiên, có thể xảy ra, đóng vai trò là chất xúc tác thật sự đẩy các tình huống phát triển ( ... ). Truyện ngắn Nguyễn Quang sáng tuy đậm tính kịch nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình. Truyện ngắn của anh đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho ta thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản. Trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng khoa đã phác hoạ “chân dung” Nguyễn Quang Sáng: “ ...Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó na ná giống anh Bảy Ngàn ( ... ). Con người ấy hình như vừa đơn giản, sơ lược, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của quê hương Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ưa ngạnh như vách đá ( ... ). Văn Nguyễn Quang Sáng nó tự nhiên, phóng túng, ngang tàng, pha một chút vui vui, tếu tếu, là cái hóm, cái duyên riêng của người Nam Bộ, cũng là nét đặc sắc Nguyễn Quang Sáng, là đóng góp riêng của ông vào nền văn học. Nếu nói mỗi nhà văn phải trả cho được “món nợ đời” thì Nguyễn Quang Sáng xem như không còn “mắc nợ” nữa. “Nguyễn Quang Sáng ( ... ) là một cây bút truyện ngắn lão luyện. Cái tài của Nguyễn Quang Sáng là ở khả năng dựng truyện, ở kết cấu độc đáo, ở lối kể hấp dẫn, Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện ngắn có ma lực, gây được ấn tượng”..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Cũng trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng Khoa giới thiệu lời nhận xét của nhà văn Vũ Tú Nam sau khi trao giải thưởng văn học năm 1993 cho nhà văn Nguyễn Quang Sáng như sau: “Anh ấy (Nguyễn Quang Sáng) có lối viết tự nhiên, viết như nói. Không phải dễ viết được như thế. Hơn nữa, Nguyễn Quang Sáng có giọng Nam Bộ khá nhuần nhụy. Anh rất am hiểu đời sống, viết lại điềm tĩnh, không nóng đầu. Trong thời điểm hiện nay việc trao giải thưởng cho anh Sáng cũng là khuyến khích cách viết điềm tĩnh, không quá khích, không đẩy tới, cường điệu thành nặng nề, u tối”. Tô Hoài sau khi đọc truyện ngắn Vểnh râu của Nguyễn Quang Sáng đã nhận xét: “lần này đọc của Sáng tôi thấy đã nhuần lắm cái cốt cách văn phong một trung tâm – miền Nam là trung tâm, mà trong văn không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được”. Tác giả Phạm Văn Sỹ trong bài viết Truyện ngắn miền Nam (1979) nhận xét: “ Truyện ngắn của anh có nhiều nhân tố tích cực đáng chú ý. Anh vận dụng rất khéo léo những xung đột mang tính thẫm mỹ. Những xung đột đó làm tăng không ít sự hấp dẫn của truyện ngắn ”. Phan Hoàng trong bài Những dấu ấn trên bước đường văn học đã viết: “Nguyễn Quang Sáng là người kể chuyện bẩm sinh. Giọng kể hồn hậu, mộc mạc, tự nhiên, lôi cuốn như mảnh đất Nam Bộ quê hương ròng ròng sự kiện, chất chứa nhiều bí ẩn”. Trong một cuộc phỏng vấn Nguyễn Quang Sáng (3/10/1997) do Phan Hoàng thực hiện: “...Phan Hoàng: Trở về với cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, nó có một số phận ra sao?.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Nguyễn Quang Sáng: Năm 1954, tập kết ra Bắc, tôi mang theo. Đơn vị tôi đóng ở Thanh Hóa. Đây là thời điểm tôi thực sự bắt đầu tiếp xúc với văn học. Tôi đọc như người bị đói sách. Tôi được đọc qua các tác phẩm Người mẹ của Gorki, Thép đã tôi thế đấy của Ôxtrôpki cùng truyện của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài ... đọc của các bậc đàn anh, tôi thấy tiểu thuyết của mình quá dỡ, chưa thể trở thành một tác phẩm văn học. Nhìn lại 300 trang viết tay chỉ mới là tư liệu, chưa phải là văn. Phan Hoàng: Chính vì vậy, anh chuyển sang “thử mình” bằng thể loại truyện ngắn! Nguyễn Quang Sáng: Đúng vậy! Tôi quyết định viết truyện ngắn để luyện tay nghề, sau đó sẽ sửa chữa lại cuốn tiểu thuyết. Lúc đó, tôi đang là vô địch bóng bàn của sư đoàn, được cấp trên gợi ý đưa ra Hà Nội đào tạo vận động viên, do Tổng cục Thể dục thể thao tuyển chọn. Mới ra miền Bắc, nằm ở một làng quê Thanh Hóa, người nào mà không muốn ra Hà Nội. Nhưng tôi không đi, quyết ở lại để viết văn. Đến năm 1955, tôi chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy về làm biên tập văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Ra Hà Nội, tôi nghĩ muốn sửa cuốn tiểu thuyết đòi hỏi phải có thời gian tập trung và cần có sự ủng hộ của Hội nhà văn, mới viết được. Hội viên nhà văn bây giờ, mỗi năm được nghỉ ba tháng để đi viết. Tôi bắt tay viết truyện ngắn đầu tiên Con chim vàng để “trình làng” với làng văn Hà Nội. Phan Hoàng: Nghĩa là tác phẩm đầu tiên của anh là một tiểu thuyết, còn tác phẩm ra mắt đầu tiên là truyện ngắn. Vâng, có thể nói Con chim vàng là một trong những truyện ngắn hay nhất của anh. Nó hấp dẫn bạn đọc không chỉ ở bố cục, mà còn bằng hình ảnh buồn và gợi cảm xuyên suốt như một tứ thơ. Nguyễn Quang Sáng: Tôi nhớ khi Con chim vàng vừa xuất hiện trên báo Văn nghệ, nhiều người nói rằng đây là cây bút viết được truyện ngắn. Nó được.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> dịch ra ngay bản tiếng Pháp. Bấy giờ, đang thời kỳ cải cách ruộng đất, đề tài văn học chủ yếu là người nông dân; và tôi hướng đề tài ấy về đề tài thiếu nhi. Hưng phấn, tôi tiếp đà “ quất” luôn một loạt truyện ngắn, mà năm 1958 được gom lại in thành tập Người quê hương”. Tác giả Bùi Việt Thắng với bài viết Còn lại tình yêu (2000) đã nói về cốt truyện: “ Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước năm 1975 trong đó cốt truyện tiêu biểu, hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao. Trong những truyện ngắn như thế làm gia tăng yếu tố bất ngờ của tác phẩm ”. Phan Đắc Lập qua lời giới thiệu Nguyễn Quang Sáng tuyển tập (2001) nhận xét về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng: “ Dù viết về đề tài chiến tranh hay chuyện đời thường, phần lớn các tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đều hấp dẫn. Sự hấp dẫn do nhiều yếu tố: chủ đề, bố cục, chi tiết, . . . nhưng trước hết tác phẩm của anh là giàu kịch tính”[20]. Như vậy, bài viết của nhiều tác giả đã đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng ở mặt nội dung phản ánh và hình thức biểu hiện, tuy khai thác ở nhiều phương diện khác nhau nhưng đều có tiếng nói chung khi khẳng định nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng là nghệ thuật tạo tình huống, chi tiết đặc sắc và cốt truyện hấp dẫn đầy yếu tố bất ngờ . . . Chính vì điều đó, một số tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng rất thành công khi chuyển sang kịch bản điện ảnh, và dĩ nhiên Nguyễn Quang Sáng trở thành một cây bút viết kịch bản phim có tài. 2.4. Dựa vào những công trình nghiên cứu trên, có thể nhận thấy: giới phê bình, người nghiên cứu tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng chủ yếu đi sâu vào xung đột nghệ thuật, thế giới nhân vật, đặc điểm thi pháp… Riêng nghệ thuật trần thuật cũng đươc chú ý đến nhưng chỉ dừng lại ở việc nêu ý kiến, đánh giá mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống. Chưa có một công trình chuyên biệt.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> nào đi sâu, tập trung nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Trên cơ sở kế thừa các công trình của những người đi trước, Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng với cái nhìn khách quan, khoa học, hệ thống, đầy đủ hơn, nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những giá trị, những đóng góp riêng của nhà văn đậm chất Nam Bộ này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn chọn nghệ thuật trần thuật trong các tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng làm đối tượng nghiên cứu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nguyễn Quang Sáng đã xuất bản rất nhiều tập tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, bút ký, kịch bản phim. Gần đây nhất Nguyễn Quang Sáng đã cho in bút ký Nhà văn về làng do Nxb Văn nghệ ấn hành. Do tính chất và yêu cầu của vấn đề nghiên cứu chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng , những thể loại khác sẽ tham khảo khi cần thiết. Văn bản khảo sát là : Nguyễn Quang Sáng tuyển tập (Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh - 2001) 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn khảo sát nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng để khẳng định một cá tính, một tài năng văn chương mang đậm dấu ấn Nam Bộ. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 4.2.1. Khảo sát về sự nghiệp sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng, chúng tôi muốn có một cái nhìn bao quát về sáng tác Nguyễn Quang Sáng để có cơ sở khẳng định đúng vai trò, vị trí nhà văn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 4.2.2. Phát hiện ra các phương thức trần thuật cơ bản của nhà văn ở các phương diện: cách chọn góc nhìn với điểm nhìn trần thuật, các nhịp điệu trần thuật để thấy được mô hình trần thuật tiêu biểu của Nguyễn Quang Sáng. 4.2.3. Tìm hiểu giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật để tìm ra các yếu tố cơ bản làm nên nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp Nghệ thuật trần thuật là hình thức nghệ thuật, nó bao gồm nhiều vấn đề. Vì vậy chúng tôi tiến hành phân tích từng phương diện của trần thuật qua những tác phẩm cụ thể nhằm làm sáng tỏ vấn đề. 5.2. Phương pháp phân loại - thống kê Chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả các sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng trước và sau năm 1975, tìm hiểu, phân loại và thống kê các phương thức trần thuật, các nhịp điệu, các giọng điệu cơ bản, các kiểu câu, các từ loại thường dùng của nhà văn . . . để có cơ sở đánh giá nghệ thuật trần thuật của nhà văn. 5.3. Phương pháp cấu trúc – hệ thống Do nghệ thuật trần thuật cũng là yếu tố phụ thuộc về cấu trúc của văn bản tự sự, nên chúng tôi khảo sát các dạng thức trần thuật của một số tác phẩm tiêu biểu để có cái nhìn bao quát và hệ thống được cấu trúc cơ bản góp phần làm nên “ kĩ thuật ” trần thuật của nhà văn..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 5.4. Phương pháp so sánh – đối chiếu Phương pháp này đặt truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong hệ thống sáng tác chung của nhà văn. Đồng thời đặt nó bên cạnh truyện ngắn của một số tác giả khác cùng thời để khẳng định nét độc đáo trong cách trần thuật Nguyễn Quang Sáng. 6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn 6.1. Đóng góp của luận văn Lần đầu tiên, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng được khảo sát, tìm hiểu một cách tương đối có hệ thống. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc dạy - học tác giả Nguyễn Quang Sáng trong nhà trường. 6.2. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Khái quát sự nghiệp sáng tác và vị trí truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam hiện đại Chương 2. Điểm nhìn và nhịp điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng Chương 3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Chương 1. KHÁI QUÁT SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ VỊ TRÍ CỦA TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG TRONG BỨC TRANH TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI. 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Sáng 1.1.1. Vài nét về cuộc đời Nguyễn Quang Sáng Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng, sinh ngày 13.01.1932. Quê ở làng Mỹ Luông, Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang). Ông sinh trong một gia đình thợ thủ công, cha làm nghề thợ bạc. Là người con của An Giang - mảnh đất sinh ra nhiều tài năng như: Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, nhà cách mạng Ung Văn Khiêm, cố Bộ trưởng bộ Y tế Nguyễn Văn Hưởng và nhiều tài năng văn nghệ như Anh Đức, Hoàng Hiệp, Nguyễn Đăng Bạch, . . . Nguyễn Quang Sáng đã được thừa hưởng nhiều nguồn văn hóa dân gian Việt - Hoa - Khmer - Chăm, thừa hưởng cả một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú, đó là các truyện dân gian phản ánh quá trình khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử; đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý v.v . . . Đặc biệt, hát vọng cổ và đờn ca tài tử được người Nam Bộ rất ưa thích. Đờn ca tài tử phát sinh từ Gia Định rồi lan đến các tỉnh miền Tây, là một trong những cội nguồn của nghệ thuật cải lương – loại hình sân khấu mới ra đời ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Người Khmer Nam Bộ cũng có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset) . . .Bên cạnh đó, là người con Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Quang Sáng rất đỗi quen thuộc với văn hóa ẩm thực của từng tộc người (cơm – canh –.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> rau, mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm còng, mắm ruốc, mắm nêm . . .), trang phục (trang phục thường ngày của người Nam Bộ đặc biệt là người An Giang là lãnh Mỹ A của Tân Châu, là áo bà ba, quấn khăn rằn), các phương tiện đi lại (xe bò, xe ngựa, xe lôi đạp, xuồng ba lá, ghe tam bản, ghe đục, ghe lường, tàu, bè ), nhà ở (nhà đất cất dọc theo ven lộ, nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước... ) mang đậm sắc thái văn hóa Nam Bộ, từ đó ông thể hiện vào tác phẩm của mình. Từ tháng 4.1946, vùng đất Nam Bộ đang trong cuộc chiến ác liệt chống thực dân Pháp, Nguyễn Quang Sáng xung phong vào bộ đội (14 tuổi), làm liên lạc viên cho đơn vị Liên chi 2. Đến năn 1948 được bộ đội cho đi học thêm văn hóa – trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại phòng chính trị Bộ tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo Hòa Hảo). Năm 1955, theo đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy, về làm cán bộ phòng văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên Tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản, cán bộ sáng tác. Năm 1966 vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972 trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn. Sau ngày giải phóng (4.1975) trở lại Thành phố Hồ Chí Minh giữ chức Tổng thư kí Hội Nhà văn thành phố khóa 1, khóa 2 và khóa 3, Phó Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Hiện nay, sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Sáng Nguyễn Quang Sáng có một sự nghiệp văn học đáng tự hào. Ông viết nhiều thể loại khác nhau..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Về văn xuôi: Con chim vàng (truyện ngắn, 1957); Người quê hương (truyện ngắn, 1958); Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1962); Đất lửa (tiểu thuyết, 1962); Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966); Chiếc lược ngà (truyện ngắn, 1968); Bông cẩm thạch (truyện ngắn, 1969); Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975); Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975); Người con đi xa (truyện ngắn, 1977); Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985); Bàn thờ tổ của một cô đào (truyện ngắn, 1985); Tôi thích làm vua (truyện ngắn, 1988); 25 truyện ngắn (1990); Paristiếng hát Trịnh Công Sơn (1990); Con mèo Foujita (truyện ngắn, 1991). Về kịch bản phim: Mùa gió chướng (1977); Cánh đồng hoang (1978); Pho tượng (1981); Cho đến bao giờ (1982); Mùa nước nổi (1986); Dòng sông hát (1988); Câu nói dối đầu tiên (1988); Thời thơ ấu (1995); Gữa dòng (1995); Như một huyền thoại (1995). Nguyễn Quang Sáng vinh dự nhận được nhiều giải thưởng văn học: Ông Năm Hạng – truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959); Tư Quắn – truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân Đội (1959); Dòng sông thơ ấu – tiểu thuyết, giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1985); Con mèo Foujita – tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1993); Cánh đồng hoang (kịch bản phim) bộ phim được tặng Huy chương vàng tại Liên hoan phim Matxcơva (1981); Mùa gió chướng (kịch bản phim), huy chương bạc Liên hoan phim toàn quốc (Hà Nội, 1980). Nhìn chung, sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Quang Sáng đạt nhiều thành tựu phong phú. Có thể thấy lý tưởng và nội dung yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội là đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Sáng tác của Nguyễn Quang Sáng dù ở thể loại nào cũng mang tính nhân dân sâu sắc, mang đậm hơi thở của cuộc chiến đấu chống Mỹ, thể hiện rõ lòng cảm thương và tôn.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> trọng nhân dân. Ông xứng đáng là nhà văn lớn, có đóng góp xuất sắc cho nền văn học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. 1.2. Vị trí truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam hiện đại So với mảng truyện viết về kháng chiến chống Pháp, mảng truyện viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc (1955-1975) đã nhiều lên về số lượng. Truyện ngắn viết về đời sống chiến đấu những năm chống Mỹ hẳn nói lên một bước thay đổi của thể loại trên một đề tài rộng lớn và có ý nghĩa. Ít nhất có thể nói đến một nửa số truyện này thuộc loại hay. Cuộc chiến đấu chống Mỹ ác liệt, gian khổ và anh hùng ở hai miền đất nước những năm ấy được thể hiện có nghệ thuật trong một loạt truyện ngắn của Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Chí Trung, Triệu Bôn, Đỗ Chu, Dương Thị Xuân Quý, Phan Tứ. . . Hình thức của truyện ngắn hiện đại càng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Trong khi vẫn giữ được truyền thống truyện ngắn có cốt truyện, hiện nay truyện ngắn mở ra nhiều hướng phát triển mới để tiếp cận đời sống. Có một kiểu truyện ngắn – luận đề phù hợp với một thời kỳ lịch sử nhiều biến động và xã hội phát triển ngày càng phong phú, phức tạp. (Tính chất luận đề của kiểu truyện này nổi lên như nét chủ đạo trong các truyện ngắn của Trần Đăng, Nam Cao, Nguyễn Khải, Phan Tứ); lại có kiểu truyện ngắn – trữ tình mà nền tảng của nó chính là chất thơ của đời sống, chất thơ của tình người. Nhiều nhà văn trẻ đã vận dụng thành công kiểu truyện này (các truyện ngắn của Đỗ Chu, Lý Biên Cương, Nhật Tuấn).Nhưng trội lên vẫn là những nhà văn thiên về kiểu truyện ngắn có cốt truyện hoàn chỉnh, xoáy sâu vào tâm lý nhân vật và tạo tính kịch cho tác phẩm (các truyện ngắn của Anh Đức, Nguyễn Sáng, Nguyễn Minh Châu, Triệu Bôn. . .)..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1955-1975) nhân dân cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ: chiến đấu và xây dựng. Sự đa dạng ấy không cho phép truyện ngắn tự gò vào một khuôn khổ nào. Chính vì vậy, Nguyễn Quang Sáng không tự gò mình vào một khuôn khổ nào, ông luôn luôn tìm tòi và đổi mới. Trong lúc đang chờ đợi Nguyễn Quang Sáng toàn tập, hiện nay chúng ta mới chỉ có Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng hơn 900 trang in với 27 truyện ngắn chọn lọc và toàn văn hai tiểu thuyết: Đất lửa (1963), Dòng sông thơ ấu (1985). Với hơn 50 năm cầm bút, chừng ấy cũng đủ làm vinh dự cho một nhà văn. Truyện ngắn là cái “tạng”, là sở trường của nhà văn này. Có lẽ, phải là người lịch lãm, từng trải và dễ xúc động mới thích đọc Nguyễn Quang Sáng. Dường như ông tựa hẳn vào tình cảm để viết. Vì thế mà ông đắm đuối với câu chuyện, với nhân vật, nhập thân vào đó – cái nét này người đọc dễ nhận ra trong Ông Năm Hạng, Chiếc lược ngà, Chị xã đội trưởng, Bông cẩm thạch, Người dì tên Đợi, Tím bằng lăng . . . Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước 1975, cốt truyện thường hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao. Trong những truyện ngắn như thế, tác giả đã biết dồn nén tình thế làm gia tăng yếu tố bất ngờ hấp dẫn của tác phẩm. Chị xã đội trưởng là một trường hợp tiêu biểu của lối viết này. Nhân vật chính là Dung – nữ xã đội trưởng dũng cảm và xinh đẹp đã bày đặt ra chuyện rắc rối để thử thách người yêu của mình. ‘Sống trong cuộc sống chiến đấu đầy bom đạn, chẳng biết lúc nào mình bị hy sinh, bị tàn tật, nhưng điều đó không ám ảnh chị. Chị vẫn sống một cách bình thường, vẫn yêu, yêu một cách rắc rối và hồn nhiên như vậy đó – và đó là sức mạnh của chị”. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trước 1975, như người ta nói “ròng ròng sự sống”, một sự sống đa dạng lắm sắc màu, có tiếng khóc và tiếng cười, có khổ đau và hy vọng. Một cuộc sống biến ảo đầy bất ngờ thú vị. Dường như cái chất sống này tự nhiên.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> như khí trời. Triết lý của nhà văn cũng từ đó mà tự nhiên, nhuần nhị. Khi nghiên cứu bước đường sáng tác của một nhà văn ta thường thấy có hiện tượng: ở một thời điểm nào đó, với những ảnh hưởng và biến đổi nào đó, nhà văn viết khác trước và cái sự khác này tạo ra một bước ngoặt. Nhưng có nhà văn, dù có cố tình “rẽ ngoặt” thì vẫn không được, anh ta phải trở lại chính mình mới được công nhận. Nguyễn Quang Sáng ở vào trường hợp thứ hai. Những truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết sau 1975 được chọn vào tuyển tập cho thấy rõ nhận xét trên. Khi ông cố đổi giọng cho có vẻ hợp thời thì người đọc thấy nhàn nhạt – đó là khi đọc những Tôi thích làm vua, Thế võ, Nhân vật ấy không được chết, Cây gậy ba số, Con chim quên tiếng hót... Lối viết như thế phảng phất giọng văn Phạm Duy Tốn và Nguyễn Bá Học hồi đầu thế kỷ nghĩa là truyện luận đề, có khi chỉ cần đọc nhan đề người ta đã đoán ra toàn bộ câu chuyện. Phải chăng nhận ra thực trạng đó, Nguyễn Quang Sáng đã tìm cách sửa chữa, viết nhiều truyện kiểu như Con mèo của Foujita, Người đàn bà đức hạnh, Tím bằng lăng, Người dì tên Đợi (in trên báo Văn nghệ tháng 6 năm 1996). Ở loạt truyện này, Nguyễn Quang Sáng lại như “phát sóng” trở lại, nghĩa là tung phá hơn nhưng rất linh hoạt, vừa giàu sức sống vừa thấm sâu triết luận, vừa cụ thể sinh động vừa rất gợi mở liên tưởng, thu hút người đọc. 1.3. Vai trò của trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng 1.3.1. Giới thuyết về trần thuật Theo Từ điển thuật ngữ Văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán – Nguyễn Khắc Phi – Trần Đình Sử chủ biên, trần thuật được hiểu “là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả, đối với nhân vật và sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định, vai trò của trần thuật là rất lớn”. Macxim Gorki từng vạch rõ tiểu thuyết hay tự truyện, những con người được tác giả thể hiện hành động với sự.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn đằng sau hành động của các nhân vật được miêu tả. Tô đậm thêm cho tâm trạng của họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ được thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất khéo léo mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời lẽ, những việc làm những mối tương quan của họ ” [13,247]. Như vậy có thể thấy thành phần trần thuật trước hết đó là lời thuật, chức năng của nó là kể việc. Tuy nhiên trần thuật còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hòan cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả . . . Về hình thức trần thuật chủ yếu là đối thoại, độc thoại của chủ thể trần thuật với độc giả. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật gắn toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm, trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động, lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc có thể bình luận theo ý định tác giả. Khi nói đến trần thuật người ta thường hay nói đến cái nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, nhịp điệu trần thuật, bố cục trần thuật, khoảng cách góc độ của người kể đối với cốt truyện tạo thành... Giọng điệu trần thuật chỉ mối quan hệ thái độ của người kể đối với các sự kiện được kể. Bố cục trần thuật hình thành dưới sự triển khai, đan cài, phối hợp, luân phiên các điểm nhìn, có điểm nhìn gần gũi với sự việc, có điểm nhìn cách xa trong không gian và thời gian, có điểm nhìn ngoài, hoặc nhìn xuyên qua nội tâm nhân vật, có cái nhìn nhân vật, sự kiện từ một nền văn hóa khác. Về các kiểu trần thuật, từ thế kỷ XIX trở về trước thịnh hành kiểu trần thuật khách quan do một người trần thuật biết hết sự việc tiến hành kể theo ngôi thứ ba. Sang thế kỷ XX, ngoài lối kể chuyện truyền thống ấy còn thêm kiểu trần thuật ngôi thứ nhất do một nhân vật trong truyện đảm nhiệm. Sự trần thuật có khi biến thành “dòng ý thức’ lời độc thoại nội tâm. “ Trần thuật là phương diện cấu.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> trúc của các tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể với khách thể trong loại hình nghệ thuật”[13,248] . Vì vậy khi tìm hiểu tác phẩm tự sự người ta thương chú ý đến trần thuật và cùng miêu tả, trần thuật đóng vai trò không nhỏ trong sự tái hiện thế giới vào tác phẩm văn học. Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học bộ mới, các tác giả viết: ” Trần thuật là khái niệm chỉ một bộ phận ngôn bản quan trọng trong tác phẩm văn học tự sự, là thành phần lời của tác giả, của người trần thuật (được đưa vào tác phẩm ít nhiều như một nhân vật) hoặc của một người kể chuyện; tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ các lời nói trực tiếp của nhân vật (...) Trần thuật bao gồm việc kể và miêu tả các hành động vá các biến cố trong thời gian; mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất,...; bàn luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật. Do vậy trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự” [13, 346]. Từ định nghĩa trên, có thể hiểu thành phần trần thuật trước hết đó là lời thuật với chức năng là kể việc. Ngoài ra, trần thuật còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả ...Còn về hình thức, trần thuật chủ yếu là đối thoại, độc thoại của chủ thể trần thuật với độc giả. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật tổ chức, sắp xếp toàn bộ bố cục, kết cấu tác phẩm sao cho hợp lý. Như vậy, trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động, lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để độc giả có thể bình luận theo ý định của tác giả. Theo Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học , trần thuật được hiểu là: “thành phần lời của tác giả - của người trần thuật hoặc của một người kể chuyện . . . Trần thuật bao gồm việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian; mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất . . .; bàn luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật. Do vậy trần thuật là phương.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự. Tính chất của trần thuật có thể tùy thuộc vào điểm nhìn . . . Điểm nhìn có thể phân thành các kiểu sau: 1) – Xét ở bình diện đánh giá, tác giả, là người kể, nhân vật có thể cùng lập trường tư tưởng . . . 2) – Xét về bình diện định tính không gian – thời gian cái được miêu tả liên quan đến tác giả hoặc nhân vật bình giá ở phương diện thời gian và không gian nào . . . 3) – Xét về bình diện cảm nhận của biến cố, sự cảm nhận có thể được xem như chủ quan, nghĩa là tạo dựng một sự cảm nhận của ai đó” [2,324]. Còn tác giả G.N.Pospelov trong Dẫn luận nghiên cứu văn học cho rằng “trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía người nào đó . . . một loại người môi giới giữa các hiện tượng được xảy ra . . . linh hồn của sự trần thuật thường là “vô trọng lượng và vô hình” nhưng đồng thời lời nói của người trần thuật thì không chỉ có tính tạo hình mà còn có ý nghĩa biểu hiện. Lời ấy không chỉ có thấy đặc điểm của khách thể trần thuật mà còn cho thấy cả bản thân người nói” [12,287]. Từ những năm 2000 trở lại đây, trần thuật – một trong những phương diện của tự sự học được các nhà nghiên cứu chú ý nhiều hơn. Trong sách Lý luận văn học tập 2 (2008), Trần Đình Sử đã nói rõ: “Trần thuật là sự tự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức ” [54, 100].Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học. “ Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp thông tin về sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định trong không gian,.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> thời gian và về ý nghĩa, trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai xuất hiện ở đâu, khi nào, làm gì, trong tình huống nào . . .” [54,100]. Lại Nguyên Ân trong bài viết “Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học Việt Nam” in trong Tự sự học thì xác định: “ Trần thuật trỏ phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc loại văn học tự sự ” , “ thực chất của hoạt động trần thuật là kể , là thuật; cái được thuật, được kể trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [51,147]. Như vậy, trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ. Trần thuật phải xử lí mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi sự kiện và nhân vật. Vì thế, theo Trần Đình Sử, “ có hai yếu tố quyết định trần thuật là người kể và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật. Từ chuỗi ngôn từ, ta có thể kể đến các yếu tố: lược thuật, dựng cảnh, hồi thuật, dự báo, gây đợi chờ, phân tích bình luận, giọng điệu”. [54,100]. Nói một cách khác, trần thuật là sự phân bố thế giới hình tượng qua một văn bản ngôn từ nhằm đạt được hiệu quả tư tưởng thẫm mỹ . . . là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, các mối quan hệ xung đột về sự kiện và nhân vật tạo nên sức hấp dẫn theo tổ chức điểm nhìn trần thuật. Đây là yếu tố then chốt đóng vai trò quan trọng trong cấp độ kết cấu trần thuật. Nhà lý luận Mỹ Jonathan Culler đã đưa ra ý kiến “ Bất cứ trần thuật nào đều có người trần thuật, người kể, bất kể người trần thuật ấy có được xác nhận rõ ràng hay không? Bởi vì trọng tâm của chủ đề mỗi câu chuyện đều là vấn đề về mối quan hệ giữa người trần thuật hàm ẩn với câu chuyện mà nó kể ra, nên muốn hiểu rõ một đoạn tự sự, một tác phẩm tự sự, bắt buộc phải xác nhận người kể chuyện hàm ẩn trong đó xác nhận các bộ phận thuộc về cái nhìn của nó, phân biệt bản thân hành động và sự quan sát của người trần thuật đối với hành động đó” [53,189]. Trong tác phẩm tự sự vai trò của tác giả là rất lớn “ tác giả là trung.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> tâm tổ chức nội dung và hình thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là người mang thế giới cảm quan đặc thù và trung tâm tổ chức ngôn ngữ theo nguyên tắc nghệ thuật ” [13,106] . Do vậy lựa chọn trần thuật như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào tác giả. Từ những khái niệm, định nghĩa về trần thuật, các thành phần của trần thuật, bản chất của trần thuật . . . chúng ta nhận thấy một điều: khảo sát cách trần thuật của nhà văn ( tức khảo sát nhà văn “kể như thế nào”) là cùng một lúc người nghiên cứu sẽ nhận thấy được nghệ thuật kể của nhà văn, lời văn kể, cái nhìn của nhà văn về con người và thế giới . . . Đồng thời chúng cũng làm bật lên một điều là khả năng cảm hóa lôi cuốn của tác phẩm đến người đọc không chỉ có nội dung mà ở cả hình thức kể. Như vậy, trần thuật là một yếu tố thuộc về hình thức trong cấu trúc văn bản tự sự, phương diện này góp phần làm nổi bật vai trò chủ thể trần thuật, là hướng nghiên cứu kĩ thuật kĩ xảo của mỗi nhà văn. Đến đây có thể nói, trần thuật là một yếu tố hình thức chủ đạo chi phối toàn bộ nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Nhà văn đã khéo léo và linh hoạt trong cách tổ chức trần thuật từ cách xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật đến chọn lối kể, cách mở đầu, kết thúc, điểm nhìn để kể, nhịp điệu kể, giọng điệu, các thủ pháp nghệ thuật...Nguyễn Quang Sáng thường chọn cho mình lối kể chủ quan để miêu tả hiện thực. Mặt khác, nhà văn biết điều phối nhịp điệu kể phù hợp với hoàn cảnh, sự kiện của nhân vật, lúc thì trầm tĩnh, chậm rãi, lúc thì dồn dập, khẩn trương, sôi nổi. Ngôn ngữ trong truyện ngắn cũng được Nguyễn Quang Sáng sử dụng biến hoá, linh hoạt ở mọi chi tiết, từ cách dùng từ, đặt câu, cách so sánh ví von, cách tả cảnh tả người cho đến những lời nói của nhân vật hay của người kể chuyện với giọng điệu giàu chất Nam Bộ. Qua nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, chúng ta thấy nghệ thuật trần thuật đóng vai trò rất quan trọng trong tác phẩm của ông và là một yếu tố tạo nên sự hấp dẫn.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> đối với người đọc. Ngoài ra, có thể khẳng định trần thuật là yếu tố chi phối nội dung, kết cấu và nghệ thuật, đồng thời là căn cứ để các nhà nghiên cứu, nhà phê bình đánh giá bút lực, phong cách của văn từ Nguyễn Quang Sáng. 1.3.2. Giới thuyết về truyện ngắn Theo Từ điển thuật ngữ Văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán – Nguyễn Khắc Phi – Trần Đình Sử đồng chủ biên, truyện ngắn được hiểu “ là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống như đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn”. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác. Trong văn học hiện đại có nhiều tác phẩm rất ngắn, nhưng thực chất lại là những truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn thời trung đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện vừa. Các hình thức truyện kể dân gian rất ngắn gọn như cổ tích, truyện cười, giai thoại,... lại càng không phải là truyện ngắn. Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút pháp tường thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới và nước ta đạt được đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện ngắn xuất sắc của mình[ 13,243]. Truyện ngắn là một loại “tự sự cở nhỏ” thường nhằm tới việc khắc họa những tính cách điển hình có cá tính đầy đặn trong tương quan với hoàn cảnh. Dung lượng của tác phẩm chỉ cho phép tác giả thể hiện con người trong những “khoảnh khắc”, “chốc lát” có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống. Vì vậy, cốt truyện, truyện ngắn thường là cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn gàng, tập trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một vài nhân vật chính, có khi chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật nhằm gây ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Khi xây dựng cốt truyện nhà văn không chỉ khai thác tình tiết, sườn truyện, chi tiết nghệ thuật mà còn chú ý đến tình huống truyện. Tình huống góp phần bộc lộ nét bản chất độc đáo của truyện là “ngắn”, “hàm súc”, “cô đọng”. Mặt khác, tình huống còn là sự thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm mà nhà văn muốn thể hiện. Các nhà văn, các nhà lý luận phê bình đã nhận ra vai trò của tình huống trong truyện ngắn. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cắc cớ chắc chắn, hết sức cụ thể mà mang tình riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật dựa vào để thể hiện đắc lực các ý.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> định của tác giả, ví như những cây cọc vững chắc để cho cây bí leo lên mà ra hoa trái… Những nhà văn có tài điều là những người có tài tạo ra tình thế xảy ra truyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng” [53,12]. Nhà văn Nguyễn Kiên quan niệm: “Điều quan trong đối với truyện ngắn là phải lựa chọn tình thế tự nó bộc lộ ra nét chủ yếu của tính cách và số phận, tự nó đặc trưng cho một hiện tượng xã hội”. 1.3.3. Vai trò của trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng Bấy lâu nay, Nguyễn Quang Sáng được khẳng định, được ngợi ca trước hết là ở tấm lòng của nhà văn và nội dung tác phẩm mà nhà văn phản ánh. Vì sao văn Nguyễn Quang Sáng được nhiều người quan tâm, làm xúc động lòng người? Một mặt là do nội dung kể trong tác phẩm, nhưng mặt khác, không thể phủ nhận được, là cách kể của nhà văn – Nguyễn Quang Sáng đã “kể như thế nào” mà nội dung tác phẩm mới “sống” được? Trả lời câu hỏi này buộc chúng ta phải chú ý đến vai trò trần thuật trong văn Nguyễn Quang Sáng. Ngay từ những sáng tác đầu tay, tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã thu hút được độc giả và giới nghiên cứu ở cả nội dung kể và cách kể của nhà văn. Vân Thanh nhận xét: Không phải Nguyễn Quang Sáng không có ý định viết truyện dài. Anh đã cho in truyện vừa Chiếc áo thằng hình rơm (NXB Giải phóng, 1973) và đã cho đăng dần trên tạp chí Tác phẩm mới (1974) một số chương của truyện dài Mùa gió chướng. Nhưng trong hoàn cảnh miền Nam vào những ngày chống Mỹ ác liệt, anh tập trung sức lực vào truyện ngắn. Anh đã từng nói: “Tôi rất thích viết tiểu thuyết ngay lúc bắt đầu lên đường về chiến trường, tôi đã nghĩ đến tiểu thuyết. Nhưng khi sống trong thực tế của bom đạn, tôi nghĩ biết sống biết chết lúc nào mà để dành. Có cái gì viết cái ấy phục vụ ngay. Phải đánh trả lại kẻ thù từng miếng, từng nhát, thật sâu”..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> Năm 1968, anh viết tập truyện ngắn Chiếc lược ngà; và tiếp ngay năm sau, anh cho xuất bản tập truyện Bông cẩm thạch. Hai tên truyện gợi cho người đọc nghĩ ngay đến những vật kỷ niệm nhỏ nhắn, xinh xắn nào đó của một cuộc sống êm ả. Đúng, đấy là những kỷ niệm nhưng có điều đó không phải là những kỷ niệm bình thường của một cuộc đời phẳng lặng mà là những kỷ niệm có khi nhòa lẫn máu của những ngày chống Mỹ ác liệt, những ngày nổi dậy của Cửu Long cuộn gió. Cái ý ấy, có lúc anh đã nói lên một cách bóng gió: “Sông Cửu Long lúc nào cũng có sóng. Đừng thấy dòng sông lặng lẽ mà bảo dòng sông không có sóng; sóng đang nổi lên từ dưới đáy người ta gọi là sóng ngầm”. Đầu xuân năm 1968, Sài Gòn với những đợt sóng ngầm đã đến lúc dậy lên ồ ạt, dữ dội. Sài Gòn những ngày tổng công kích, ta có dịp hiểu rõ hơn về con người Sài Gòn, đủ mọi tầng lớp, với lòng yêu nước thắm thiết và lối đánh giặc theo “kiểu Sài Gòn” của họ. Tiếng súng trên đường phố Sài Gòn, Sài Gòn dưới những tầng khói là hai bút ký Nguyễn Sáng tranh thủ ghi nhanh trên đường phố. Tuy đấy mới chỉ là vài nét phát họa nhưng người đọc vẫn không sao quên hình ảnh mười ba cô gái đẩy lùi cả một tiểu đoàn Mỹ. Cuối cùng các cô đều bị thương nặng. Biết rằng mình không thể sống được nữa, các cô bắn đến viên đạn cuối cùng rồi nằm bên nhau cất tiếng hát. Câu chuyện đẹp và kỳ diệu như một truyền thuyết. Truyện ngắn Nguyễn Sáng chứa đựng những yếu tố “kỳ diệu” như thế. Nói kỳ diệu là nói những chuyện lạ. Nhưng với Nguyễn Sáng, đó là những chuyện lạ đã trở thành bình thường, những chuyện lạ không phải do “phép tiên” mà có, nó được làm nên bởi những con người bình thường. Trong Chiếc lược ngà, NXB Giải phóng, 1968, ở tr.13, cái “kỳ diệu” đó không có chút gì xa lạ, vì đó chính là chất thơ, chất anh hùng tràn đầy trong cuộc.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> sống chiến đấu của chúng ta. Nguyễn Sáng là người viết có ý thức khai thác đề tài và khơi nguồn cảm hứng của mình trong những điều kỳ diệu đó của cuộc sống. Kể một câu chuyện bình thường nhất về một người mẹ, một “người đàn bà Đồng Tháp” chỉ muốn sống hòa bình, lo làm ăn, nuôi con, anh cho thấy rõ một cách hết sức tự nhiên bước chuyển quan trọng trong ý thức tư tưởng của người phụ nữ Việt Nam: “Thời bây giờ đánh với Mỹ, người mẹ nuôi con cũng phải có súng”. Phải chăng, trên đất lửa của chúng ta, cái ý thức đó chính là sự khởi đầu chủ nghĩa anh hùng của biết bao nhiều người vợ, bà mẹ . Một chuyện vui kể chuyện anh Bảy Ngàn trên đồng nước bị trực thăng vây bố, sau hai lần hụt chết, ung dung đến ngồi bên cạnh cây tràm bị tên lửa bắn, còn nghi ngút khói, hút thuốc, thở khói phà phà. Câu chuyện mấy lần hụt chết đó lại cứ như là “một chuyện vui”, chẳng mùi mẽ gì, thế nhưng cái điều kỳ diệu về tư thế ung dung, coi thường nguy hiểm, xem thường kẻ địch lại gây ra một ấn tượng sâu trong người đọc. Qua anh Bảy Ngàn ta thấy một nét tiêu biểu về tính cách anh hùng của con người miền Nam. Nói được một cái gì thật kỳ diệu trong những điều tưởng chừng rất bình thường của cuộc sống, đó là đóng góp đáng chú ý của Nguyễn Quang Sáng. Nhưng làm quen với Nguyễn Sáng, người đọc được tiếp xúc nhiều hơn với những câu chuyện được xây dựng trên những tình tiết ngẫu nhiên, bất ngờ, lắm khi gay cấn, căng thẳng đầy tính kịch. Thật ra thì hai hiện tượng trên không có gì mâu thuẫn với nhau, vì nó cùng thống nhất trong mục đích chung của tác giả là nói cho được những điều lớn lao kỳ diệu của cuộc sống. Người đọc sẽ càng thấy được điều đó trong những tình huống khác như Quán rượu người câm, Chiếc lược ngà … Quán rượu người câm là câu chuyện anh Ba Hoành bị địch bắt năm 1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà ở với vợ, dọn một hàng rượu. Ở quán rượu.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> “người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của kẻ thù, về sức căm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi, nhân dân chờ đợi người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang. Nhưng không ngờ người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tôi không nói, không phải tôi câm, mà tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa !” Bốn năm im lặng trong tư thế một người câm ! Một tiếng nói cất lên đúng vào hôm đồng khởi cùng với tiếng hò reo, tiếng súng nổ dậy trời của nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù ! Cái thế giới mà người đọc được Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ ! Thêm vào đó là chi tiết về một em bé gái mười sáu tuổi, em bé trước mặt một tên phản bội năn nỉ xin em đầu thú bổng hất tóc ra sau vai và nói như nghiến: “Chú Hai ! Chú sợ chết hả ! Chú hãy bình tỉnh nhìn tôi đây này” rồi “thè lưỡi, mắt long lên, đưa quả đấm đánh vào cầm mình”. Quả là chuyện bất ngờ đến làm ta nín thở vì căng thẳng, hồi hộp. Cũng hồi hộp nhưng không đến nỗi căng thẳng như trên đây là những gặp gỡ như trong Chiếc lược ngà. Một người cha về thăm nhà, con không nhận mặt, vì anh có một vết sẹo, không giống như cho ảnh. Một cô gái khi nhận ra cha, chỉ ao ước có một chiếc lược ngà. Người cha chưa kịp gởi quà cho con thì bị hy sinh. Một người bạn nhận lấy nhiệm vụ chuyển món quà kỷ niệm đó cho người con gái. Một cô giao liên trên đường công tác. Một câu chuyện được kể lại… Tất cả khớp với nhau và trước mặt ta bây giờ, những hình ảnh, những chi tiết tưởng như rời rạc đó bỗng nhiên gắn với nhau, tạo nên một bức tranh xúc động về tình cha con, về tình đồng chí, về những mất mát lớn lao mà chúng ta phải chịu đựng trong chiến đấu và về những bù đắp quí giá mà Cách mạng đem lại cho mỗi người… Trong Bông cẩm thạch, Nguyễn Sáng cũng đã dựng được một câu chuyện gặp gỡ ngẫu nhiên mà xúc động như thế giữa hai mẹ con cùng đi làm Cách.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> mạng, cho ta tấm lòng thủy chung và thương yêu rất đẹp của con người miền Nam. Thiên truyện cũng đồng thời cho thấy những hiểu nhầm, những mất mát đau thương, những uẩn khúc chưa thể giải tỏa của con người chỉ có thể giãi bày khi cuộc chiến nổ ra, khi đã chấm hết cái thời khắc nén lặng, chờ đợi trong bóng tối và kìm kẹp của kẻ thù, để cho tiếng súng cất lên. Truyện Nguyễn Sáng giàu chi tiết sống. Nhưng chi tiết đối với anh không phải là một thứ trang sức để phô bày. Chi tiết được anh dùng trước hết là nhằm khắc họa nhân vật. Cùng miêu tả lớp trẻ, nhưng Nguyễn Sáng, mỗi người một nét khác nhau. Thế hệ trẻ vốn là lớp người Nguyễn Sáng vốn rất nâng niu và quí trọng. Ai chẳng biết tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất trong đời người, nhưng nếu cần hy sinh, họ không ngần ngại dâng cả cuộc đời mình cho hạnh phúc chung của mọi người. Trong chiến đấu, lớp trẻ miền Nam quả đã tỏa ra những ánh sáng chói ngời, xứng đáng với cha anh. Chính họ đã tô điểm cho cuộc sống thêm tươi vui. Ai mà chẳng yêu cô xã đội trưởng xinh đẹp, dũng cảm mà lại chúa nghịch ngợm trong Chị xã đội trưởng. Cô “thử thách” người yêu bằng cách nói rằng mình bị cháy đen thui thủi, làm anh chàng đại đội phó, người yêu của cô cứ ngơ ngẩn cả người. Tác giả cũng nhân dịp đó mà “chen ngang” một nhân xét dí dỏm của anh về lớp trẻ: “Tôi không dám bàn luận về tình yêu, nhưng tôi nghĩ, điều mà chị xã đội trưởng bày ra cho thêm rắc rối đó là cái chất trẻ đẹp của tình yêu mà bom đạn của giặc Mỹ không thể nào giết chết được. Đứng trong cuộc sống chiến đấu đầy bom đạn, chẳng biết lúc nào mình hy sinh, bị tàn tật, nhưng điều đó không ám ảnh được chị. Chị vẫn sống một cách bình thường, vẫn yêu, yêu một cách rắc rối và hồn nhiên như vậy đó. Và đó là sức mạnh của chị”. Không giống với chị xã đội trưởng, cô gái Khơ me Sa Rết lại rất dịu dàng, kín đào trong tình yêu, một tình yêu không bộc lộ ra ngoài nhưng thật nồng cháy.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> bên trong… Suốt bao nhiêu năm trời cô giữ gìn chiếc áo của người yêu, khác nào người con gái trong ca dao: “Áo xông hương của chàng vẫn mặc. Đêm em nằm em đắp lấy hơi”. Rồi từ chiếc áo Sa -Rết gởi cho bộ đội đi theo bước chân của chồng, mà dệt nên cả một câu chuyện đẹp như cổ tích … Cùng miêu tả các cô giao liên, nhưng qua ngòi bút Nguyễn Quang Sáng, mỗi người vẫn có một vẻ riêng. Thu trong Chiếc lược ngà rất thông minh và bình tĩnh. Người ta kháo rằng cô “có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là Ngụy nữa”. Nhưng trong Chị Nhung, thì quả có cái bề ngoài của một phụ nữ Sài Gòn đúng mốt: cưỡi xe Honda, mang kiếng mắt đen, quần ống hẹp và áo bó sát người. Trinh, Phương trong Người bạn mới quen có những nét mơ mộng của những nữ sinh viên mới gia nhập hàng ngũ bộ đội; con Mì trong Bông cẩm thạch thì ít nói, gan góc, nén chịu rất giỏi những đau thương riêng của bản thân mình. Ánh trong Chị xã đội trưởng lại hồn nhiên, nhí nhảnh… Rõ ràng họ là những bông hoa tươi thắm trong cuộc chiến đấu chống Mỹ. Không giống với những ngày kháng chiến chống Pháp các giao liên thường là thiếu nhi. Ngày nay trong cuộc chiến đấu với tên đầu xỏ đế quốc Mỹ, các giao liên thường là nữ. Nguyễn Quang Sáng có đóng góp trong việc xây dựng hình ảnh loại nhân vật này. Có điều cần chú ý là lâu nay trong các bài hát cũng trong thơ, truyện, cuộc sống người giao liên mới được miêu tả ở khía cạnh bay bổng, nhẹ nhàng, hoặc ở sự mưu trí lanh lẹ trong mọi tình huống. Đúng, đấy là những thực tế cần phải ca ngợi và miêu tả. Nhưng người viết đừng để người đọc hiểu lệch về cuộc sống của người giao liên chỉ là những trang thơ đầy màu xanh của cây rừng hoặc đầy hoa bướm. Cuộc đời của họ phải chịu bao vất vả và gian khổ, phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn: một mình đảm nhiệm mọi công tác giữa thiên nhiên.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> rộng lớn, bí hiểm và lắm khi khắc nghiệt; một mình tác chiến đơn độc, một mình phụ trách biết bao sinh mệnh con người. Có thể nói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng là những con người được vươn lên trong ánh sáng của Cách mạng. Những nét u buồn không đọng lâu trong con người họ. Khó khăn, mất mát, chết chóc là điều khó tránh khỏi trong cuộc chiến đấu ác liệt này, nhưng điều đó không hề làm giảm lòng tin của họ vào chiến thắng ngày mai. Niềm lạc quan và lòng tin đó toát lên trong mọi truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Đó là dụng ý của tác giả. Anh muốn gieo vào lòng người đọc niềm tin, lòng yêu đời để sống và chiến đấu. Mỗi nhà văn có một sở trường, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành cho ta hình dung một cuộc sống rất mực dữ dội, khốc liệt trong sự đối mặt giữa ta và địch. Anh Đức, Phan Tứ đi sâu vào quá trình vùng dậy của nhân dân. Trần Hiếu Minh hướng vào cả một quá trình cuộc sống bề bộn các sự kiện. Nguyễn Sáng không thế, ông đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản. Nhưng phải chăng có thể xem đây là một nhược điểm của tác giả: trong truyện ngắn của ông, ta chưa hề thấy một nhân vật phản diện nào. Chính ông đã từng khẳng định là những nhân vật chính diện trong các tác phẩm miền Nam “đã trở thành những điển hình sống, phong phú, đa dạng, có sức chinh phục và thuyết phục lòng người, ngược lại, những nhân vật phản diện vẫn còn mờ nhạt, nó tàn bạo đó, nó giết người đó, nó ăn thịt người nữa, nó lố lăng, nó lưu manh, nhưng đọc rồi, ta vẫn cứ thấy mờ mờ. Bởi vì ta chỉ thấy cái bên ngoài”. Qua ý kiến phát biểu trên của nhà văn, ta hiểu được sự băn khoăn chính đáng của ông và càng thấy quý sự chân thật và tinh thần trách nhiệm của ông đối với người đọc. Nếu như trong một hai tác phẩm không có bóng dáng tên phản diện thì cũng.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> chẳng sao, nhưng nếu là cả một chuỗi tác phẩm viết về hiện thực miền Nam mà không hề đá động đến bọn chúng thì điều đó không phải là không đáng tiếc. Giàu chi tiết sống, lắm tình huống bất ngờ, truyện Nguyễn Sáng thường mang nhiều chất kịch. Có thể xem đó là phong cách của ông. Truyện của ông bao giờ cũng có khía cạnh làm cho người đọc hồi hộp, chờ đợi. Kết thúc truyện bao giờ cũng đột ngột, người đọc khó đoán trước được. Nhưng có điều, chất ly kỳ đó hoàn toàn không phải là do ông bịa đặt hoặc thêm thắt vào, mà chính do cuộc sống gợi ra. Quán rượu người câm quả là chuyện lạ, nhưng trong cuộc sống miền Nam, những chuyện lạ như thế đâu phải là hiếm. Nguyễn Quang Sáng vốn là cây bút khéo sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên tự nhiên, có thể xảy ra, đóng vai trò là chất xúc tác thật sự, đẩy các tình huống phát triển. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ luôn luôn là đường mối chính cho những truyện ngắn của ông. Nhưng sao cái vẻ ngẫu nhiên bên ngoài, ông bao giờ cũng cho thấy cái cốt tất yếu, hợp lý bên trong. Người đọc tự nghĩ: cuộc sống Cách mạng là thế, đầy những điều kỳ diệu ! Cuối cùng, có thể nói, truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng tuy đậm tính kịch nhưng vẫn mang nhiều chất trữ tình. Không ít truyện của anh được gội trong không khí của những kỷ niệm như Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch. Và đằng sau những kỷ niệm là tất cả mối dây bền chặt của những mối quan hệ giữa con người: tình cha con, mẹ con, tình đồng chí, tình bạn, tình yêu. Nguyễn Quang Sáng cố không tham gia bình phẩm, nhưng xúc động của người viết thường vẫn không giấu được. Như vậy trần thuật đã đóng một vai trò quan trọng trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng và là một yếu tố làm nên sức hấp dẫn cho độc giả..
<span class='text_page_counter'>(34)</span> Chương 2 ĐIỂM NHÌN VÀ NHỊP ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG 2.1. Điểm nhìn trần thuật Khi kiến tạo tác phẩm, một trong những điều khó khăn đối với người sáng tác là phải lựa chọn cho mình một chỗ đứng thích hợp để kể câu chuyện, tham gia trực tiếp vào sự kiện của cốt truyện hay đứng ngoài sự kiện. Việc tìm chỗ đứng này xác lập cho người kể một điểm nhìn trần thuật để từ đó câu chuyện được bắt đầu. Điểm nhìn “là phương thức phát ngôn trình bày miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả” [47,149]. Điểm nhìn “thể hiện vị trí người kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện” [54,104]. Nhà văn không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về đời sống nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với sự vật hiện tượng, nó như “mở một con đường đi vào rừng rậm” (Puđôpkin). Do vậy “điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của sáng tạo nghệ thuật nhưng ngày nay là một vấn đề then chốt của tự sự học” [54, 175]. Xác định đúng điểm nhìn sẽ tạo cho người đọc cái thế nhìn sâu trong xa, đưa họ đến cái điểm nhận thức và cảm thụ mà nhà văn muốn đạt đến. P.Lubbock nói: “Tôi cho rằng toàn bộ vấn đề rắc rối về phương pháp trong nghệ thuật sáng tác phụ thuộc vào vấn đề “điểm nhìn” – Vấn đề thái độ của người kể chuyện với việc trần thuật” (dẫn theo Nguyễn Hải Phong) [51, upload.123doc.net]. Với những cây bút tài năng, quan điểm trần thuật không chỉ đảm bảo tính hợp lý, mà còn trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Cách vận dụng linh hoạt các điểm nhìn trần thuật góp phần tạo nên tính sinh động và hấp dẫn đặc biệt cho tác phẩm văn học. V .Ekhalidev đã nhận xét.“Trong tác phẩm tự sự điều quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói cách khác điểm nhìn của người trần thuật đối.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> với những gì anh ta miêu tả”. Điều đó có nghĩa là trần thuật trong tự sự bao giờ cũng được trao cho một người nào đó, đó là người môi giới giữa hiện tượng được miêu tả với người nghe. Nhà văn có thể tiến hành trần thuật theo quan điểm của mình, hoặc trao nó cho người trần thuật, hoặc theo điểm nhìn của một trong số các nhân vật hoặc kết hợp luân phiên các quan điểm của các nhân vật khác nhau. Người kể chuyện có thể là người tham gia vào câu chuyện như một nhân vật, có thể là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự kiện đã xảy ra. Tùy theo điểm nhìn được lựa chọn mà người trần thuật xuất hiện dưới những tư cách khác nhau. Có khi người kể chuyện xưng “tôi’ kể về những gì của chính mình đã trải qua, đã quan sát giữ quyền kể chuyện từ đầu đến cuối tác phẩm (trần thuật theo ngôi thứ nhất – chủ quan hóa). Có khi kể chuyện theo ngôi thứ ba vô hình nào đó ( trần thuật khách quan hóa) không xuất hiện và không tham gia vào quà trình diễn biến của câu chuyện, câu chuyện dường như tự nó hiện ra. Việc lựa chọn các phương thức trần thuật gắn liền với quan điểm trần thuật. Tùy theo tiêu chí phân loại mà có cách phân chia các kiểu điểm nhìn khác nhau. Căn cứ vào khoảng cách giữa chủ thể và đối đối tượng, cuốn Nhập môn văn học đã chia quan điểm trần thuật trong tác phẩm tự sự thành năm loại: Quan điểm trần thuật tham dự, quan điểm trần thuật không tham dự, quan điểm trần thuật thông suốt và cả chọn lọc [55,31]. Căn cứ vào vị trí người kể chuyện dựa vào để quan sát, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện có các loại: điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý [54,104]. Xét về trường nhìn trần thuật có trường nhìn tác giả (trần thuật không tham dự - khách quan), trường nhìn nhân vật (trường nhìn tham dự). Xét về bình diện tâm lý có điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài….
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Việc chọn điểm nhìn và tổ chức điểm nhìn để trần thuật có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của tác phẩm tự sự. Theo Hoàng Ngọc Hiến “việc nhà văn chọn quan điểm trần thuật từ đó câu chuyện được kể cũng giống như nhà thơ chọn tiết tấu hay thể thơ tự do hay thơ không vần, sự lựa chọn này sẽ góp phần vào việc hiệu quả của tổng thể mà câu chuyện sẽ có”. Với một tác giả giỏi, nhà văn sẽ chọn được một vị trí trần thuật mà họ cảm thấy là tốt nhất. Và dù chọn điểm trần thuật nào, với mọi sự biểu hiện, miêu tả đều từ tác giả mà ra vì “lý luận hiện đại không phân biệt ngôi thứ thứ nhất hay ngôi thứ ba mà mọi trần thuật đều xuất phát từ cái “tôi” hiểu biết, đều là ngôi thứ nhất cả, chỉ khác nhau ở mức độ ẩn hiện” [12,187]. Song để tạo nên hình tượng nghệ thuật, tác giả có thể tạo ra môi giới đứng ra kể chuyện, quan sát, miêu tả; cũng có thể trong tác phẩm, người trần thuật theo ngôi thứ ba ẩn mình, và ngôi trần thuật theo ngôi thứ nhất lộ diện … sự phân chia này hoàn toàn tương đối và thuần túy mang tính nghệ thuật. Do nhu cầu phản ánh hiện thực với tất cả sự phong phú và chiều sâu trong tâm hồn con người mà mỗi nhà văn có cách chọn lựa và tổ chức điểm nhìn trần thuật riêng. Đối với Nguyễn Quang Sáng, ông thường không duy trì một phương thức trần thuật mà luôn có sự thâm nhập, đan xen, phối hợp và di chuyển các điểm hình trần thuật khác nhau. Đó là đặc điểm nổi bật nhất tạo nên sự hấp dẫn, uyển chuyển và linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Quang Sáng . 2.1.1. Điểm nhìn trần thuật khách quan (trần thuật không tham dự) Phương thức trần thuật không tham dự (khách quan hóa) là trần thuật ở ngôi thứ ba, không nhân vật hóa mà đằng sau là tác giả. Với điểm nhìn trần thuật này, người trần thuật thường kể về người khác ở vị trí khách quan. Có nghĩa là người kể luôn có ý thức giữ một khoảng cách nhất định đối với sự kiện, nhân vật. Người kể như là người chứng kiến, biết hết mọi sự việc, nhân vật nhưng tách.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> mình ra khỏi sự đồng cảm với việc được kể, như đang “lia ống kính” để “chụp” những hình ảnh chân thực đang xảy ra. Bằng thái độ điềm đạm, dửng dưng và sử dụng ngôn ngữ ở dạng trung tính, cách kể này đã thuyết phục người đọc tính xác thực của sự kiện, tình tiết, chi tiết và đem đến cho tác phẩm màu sắc khách quan tối đa. Chọn điểm nhìn bên ngoài, trần thuật khách quan không tham dự là cách trần thuật được nhiều nhà văn sử dụng. Tuy nhiên, cùng một cách nhưng mỗi nhà văn đem lại sắc thái riêng, tạo nên những phong cách trần thuật khác nhau. Chẳng hạn lối trần thuật của Nguyễn Công Hoan thì hóm hỉnh tinh quái; của Ngô Tất Tố nghiêm túc tỉnh táo “nhìn trước ngó sau”; của Vũ Trọng Phụng tỉnh bơ, mỉa may, cay độc; của Nam Cao thì dửng dưng lạnh lùng chua chát đến tàn nhẫn… Phương thức trần thuật không tham dự (khách quan hóa) là trần thuật ở ngôi thứ ba vô hình. Nguyễn Quang Sáng thường chọn điểm nhìn này trong nhiều truyện ngắn sử thi hóa, ở đó quan điểm của người viết hòa cùng quan điểm chính thống của số đông, của cả dân tộc thời chống Mỹ. Trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Quang Sáng , số tác phẩm được kể tuyệt đối với điểm nhìn khách quan này chiếm số lượng khá nhiều, có đến sáu truyện ngắn được kể với một giọng trầm tĩnh, trần thuật không tham dự là Con chim vàng, Đạo tưởng, Anh thợ vẽ, Cây đàn đứt dây mà nổi bật nhất là Quán rượu người câm và Một chuyện vui. Trong truyện ngắn đầu tay là Con chim vàng, Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng phương thức trần thuật này để kể lại diễn biến câu chuyện: thằng Bào là đứa ở đợ cho nhà thằng Quyên, vì thằng Quyên thích con chim vàng nên bắt thằng Bào dù sống dù chết cũng phải bắt cho kỳ được con chim vàng cho nó. Tình huống trên đã mở đầu cho mâu thuẫn xung đột giữa Bào và mẹ con thằng Quyên, mở đầu cho sự phát triển của truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng,.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> hành động của các nhân vật. Những đụng độ, va chạm trực tiếp giữa Bào và mẹ con thằng Quyên diễn ra ngày càng gay gắt. Nhà văn sử dụng hình thức đối lập để diễn tả tâm lý nhân vật: “Bào căm ghét con chim vàng nhưng thằng Quyên nó yêu chim quá … Đêm Bào không ngủ được nhưng thằng Quyên nằm trên đệm thiêm thiếp nghe tiếng chim hót nó nhào dậy khóc và đòi bắt chim cho nó”. Đặc biệt, sự tương phản trong tâm trạng và hành động của nhân vật được thể hiện qua những chi tiết đặc sắc. Thằng Quyên khóc mà “không chảy nước mắt” còn Bào không khóc mà “nước mắt cứ tuôn ra”; Bào bắt chim đập đầu vào cây “tay Bào với tới, với mãi chẳng vớ được ai” còn mẹ thằng Quyên “thò tay nâng lấy xác con chim vàng”. Câu chuyện kết thúc cùng cái chết con chim vàng và hình ảnh Bào mặt bê bết máu. Như vậy, từ tình huống tưởng như đơn giản trên lại là tiêu điểm cho cốt truyện vận động, bộc lộ những mâu thuẫn xung đột giữa các nhân vật. Qua tình huống trên, nhà văn đã làm nổi bật được ý muốn tầm thường nhỏ mọn của mẹ con thằng Quyên và hậu quả to lớn nghiệm trọng xảy ra với em Bào. Hóa ra trong xã hội cũ người ta coi mạng sống của con người không bằng một con chim ! Mâu thuẫn Bào và mẹ con thằng Quyên thực chất là mâu thuẫn giai cấp đối kháng giữa nông dân – địa chủ. Tác giả đã làm rõ bản chất ích kỷ, tàn ác, xấu xa trong tính cách mẹ con thằng Quyên bằng những chi tiết đầy ấn tượng, từ giọng nói đai nghiến: “chuối tao cúng thỗ thần, chuối tiền, chuối bạc, chuối gì cho chim ăn. Mày trèo lên cây bắt sống nó cho tao” đến hành động: “nâng lấy xác con chim vàng” đã lột tả được bản chất vô nhân đạo, thiếu tình người của những kẻ bóc lột ở xã hội cũ. Đồng thời tác giả cũng thể hiện thái độ thông cảm, xót xa đối với những thân phận bé nhỏ, bị rẻ rúng trong xã hội. Truyện vì thế giàu tính hiện thực và nhân đạo. Trong Quán rượu người câm Nguyễn Quang Sáng đã đưa hàng loạt hình ảnh sinh động vào “ống kính ” của mình, đó là cảnh tra tấn anh ba Hoành và cô gái cùng hành động dũng cảm của họ:.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> “...Đứa cháu gái liền thè lưỡi, mắt long lên, đưa quả đấm vào cằm mình. “Bực”, đầu lưỡi cháu rơi xuống, cháu ngã ngửa ra sau và máu vọt ra. Cái chết của cháu gái quyết liệt quá khiến cho tất cả anh em tù liền nhỏm dậy. Nhưng chân của họ bị còng, còng bị kéo tới, tay họ vồ vào kẻ thù. Bọn địch bỏ xác người con gái nhỏ lại, chen nhau, tuôn ra, đập song sắt và rút súng ngắn chĩa vào tù nhân. Anh Ba Hoành chụp lấy cái đầu lưỡi của cháu gái và nhổ một bãi nước miếng vào mặt tên phản bội, anh để cái đầu lưỡi nhỏ lên bàn tay, bàn tay xòe ra, anh đưa chầm chậm qua mắt anh em, tay anh lẩy bẩy run, và nước mắt anh cứ xối xả. Sau đó ba ngày, trong một trận tra tấn, khi một tên địch dùng bù loong đập lên cổ anh, anh ngã quỵ, giẫy một lúc, miệng há ra, rồi ú ớ. Bọn địch nói gì anh cũng nghểnh mặt, ngơ ngác, cái ngơ ngác của một người điếc, và miệng cứ há ra, hàm dưới đưa qua đưa lại một cách khó nhọc và cứ ú ú ớ ớ.” [ 43,381] Đó là câu chuyện anh Ba Hoành bị địch bắt năm 1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà ở với vợ, dọn một hàng rượu. Ở quán rượu “người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của kẻ thù, về sức căm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi, nhân dân chờ đợi người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang. Nhưng không ngờ người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tôi không nói, không phải tôi câm, mà tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa !”. Bốn năm im lặng trong tư thế một người câm ! Một tiếng nói cất lên đúng vào hôm đồng khởi cùng với tiếng hò reo, tiếng súng nổ dậy trời của nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù ! Cái thế giới mà người đọc được Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ ! Thêm vào đó là chi tiết về một em bé gái mười sáu tuổi, em bé trước mặt một tên phản bội năn nỉ xin em đầu thú bổng hất tóc ra sau vai và nói.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> như nghiến: “Chú Hai ! Chú sợ chết hả ! Chú hãy bình tỉnh nhìn tôi đây này” rồi “thè lưỡi, mắt long lên, đưa quả đấm đánh vào cầm mình”. Quả là chuyện bất ngờ đến làm ta nín thở vì căng thẳng, hồi hộp. Còn trong Một chuyện vui kể chuyện anh Bảy Ngàn trên đồng nước bị trực thăng vây bố, sau hai lần hụt chết, ung dung đến ngồi bên cạnh cây tràm bị tên lửa bắn, còn nghi ngút khói, hút thuốc, thở khói phà phà. Câu chuyện mấy lần hụt chết đó lại cứ như là “một chuyện vui”, chẳng mùi mẽ gì, thế nhưng cái điều kỳ diệu về tư thế ung dung, coi thường nguy hiểm, xem thường kẻ địch lại gây ra một ấn tượng sâu trong người đọc. “Bao giờ cũng vậy, hễ một chuyện nguy hiểm qua rồi thì chuyện đó trở thành chuyện vui. Đó cũng là trường hợp của anh Bảy Ngàn. Trong một ngày, anh suýt chết đến mấy lần, thoát chết rồi, bây giờ anh coi đó như một trò đùa. Âu cũng là cái tính lạc quan của người miền Nam vậy ! Nhiều người nấp trong chỗ kín nhìn thấy rõ cái cảnh gian nan của anh từ đầu đến cuối, nhưng vẫn cứ muốn nghe anh kể lại”… Chính cách chọn quan điểm trần thuật khách quan đó, làm cho độc giả thấy ở Nguyễn Quang Sáng một sự tinh nhạy nắm bắt một cách mau lẹ các vấn đề nóng hổi, sự sắc sảo trong quan sát, miêu tả người thực, việc thực 2.1.2. Điểm nhìn trần thuật chủ quan (trần thuật tham dự) Với quan điểm trần thuật tham dự, người kể chuyện thường ở điểm nhìn trần thuật chủ quan mà kể chuyện. Khoảng cách giữa người kể và truyện rất nhỏ. Trong đó, người kể từng sống, từng chứng kiến sự việc diễn ra trong tác phẩm. Bằng phương thức trần thuật này, dù là kể chuyện mình hay kể chuyện người, người trần thuật đều có điều kiện bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình đem đến cho tác phẩm một màu sắc trữ tình đậm đà. Trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cả trước và sau 1975, phương thức trần thuật này chiếm một số.
<span class='text_page_counter'>(41)</span> lượng rất lớn và đây là điểm thành công nổi bật nhất của nhà văn. Bảng thống kê điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Quang Sáng : Bảng thống kê điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trước và sau 1975 S. Tổ chức điểm nhìn Chủ quan. T T Tên tác phẩm. Thể loại. Khách. Từ. Từ. quan. nhân. nhân. vật. vật. “Tôi”. trong. Di chuyển điểm nhìn Vị. trí. di. Số. chuyển. điểm nhìn dịch chuyển. truyện 1. Bài học tuổi thơ. Truyện ngắn. x. 2. Cái gáo mù u. Truyện ngắn. x. 3. Con chim quên tiếng hót. Truyện ngắn. x. 4. Người đàn bà đức hạnh. Truyện ngắn. 5. Con chim vàng. Truyện ngắn. 6. Con khướu sổ lồng. Truyện ngắn. x. 7. Con mèo của Foujita. Truyện ngắn. x. 8. Dân chơi. Truyện ngắn. x. 9. Đạo tưởng. Truyện ngắn. x. 10. Quán rượu người câm. Truyện ngắn. x. 11. Người bạn lính. Truyện ngắn. 12. Chiếc lược ngà. Truyện ngắn. 13. Chị Nhung. Truyện ngắn. Bên. ngoài 4. -> bên trong. x. x x. x x.
<span class='text_page_counter'>(42)</span> 14. Con ma da. Truyện ngắn. x. 15. Vểnh râu. Truyện ngắn. x. 16. Về lại bức tranh xưa. Truyện ngắn. x. 17. Gà sanh đôi. Truyện ngắn. x. 18. Đổi nghề. Truyện ngắn. 19. Một chuyện vui. Truyện ngắn. 20. Linh Đa. Truyện ngắn. 21. Anh thợ vẽ. Truyện ngắn. 22. Tạo hóa giữa trần gian. Truyện ngắn. x. 23. Xin được chết sớm. Truyện ngắn. x. 24. Tôi và Nhi. Truyện ngắn. x. 25. Nỗi niềm sân cỏ. Truyện ngắn. x. 26. Tôi thích làm vua. Truyện ngắn. x. 27. Thế võ. Truyện ngắn. x. 28. Thua trận. Truyện ngắn. x. 29. Cây đàn đứt dây. Truyện ngắn. 30. Thằng bé đi xa. Truyện ngắn. x. 31. Bạn hàng xóm. Truyện ngắn. x. 32. Bàn thờ tổ của một cô Truyện ngắn. x. đào 33. Ông Năm Hạng. x x x x. x x. x Truyện ngắn. Bên ngoài-> 2 bên trong.
<span class='text_page_counter'>(43)</span> Nhìn vào bảng thống kê ấy, chúng ta nhận thấy Nguyễn Quang Sáng chọn điểm nhìn khách quan tuyệt đối để trần thuật chỉ chiếm 7/33 (18,18%), điểm nhìn chủ quan là 21/33 (66,6%) và di chuyển điểm nhìn từ vị trí trần thuật khách quan sang trần thuật tham dự (nhập thân vào điểm nhìn nhân vật) là 5/33 (15,15%). Như vậy, hầu hết tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đều được chọn điểm nhìn chủ quan để trần thuật. Với điểm nhìn bên trong, nhà văn dễ dàng bộc lộ cảm xúc của người trần thuật. Ở điểm nhìn trần thuật tham dự này, Nguyễn Quang Sáng chọn hai lối trần thuật để tham dự vào câu chuyện là trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng “tôi” và trần thuật nhập thân vào nhân vật. 2.1.2.1. Trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng “tôi” Đây là một phương thức trần thuật với cái “tôi” tự thuật. Người trần thuật chính là người “chủ xướng” đồng thời cũng là người tham dự vào mọi biến cố câu chuyện. Người trần thuật là người kể chuyện nhưng đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của chính câu chuyện mà nó kể lại. Tức là sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một nhân vật “tôi” – người quan sát và có khả năng nhìn thấy được mọi diễn biến câu chuyện, có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, đây là điểm nhìn bên trong. Trong truyện Con ma da, được kể từ điểm nhìn bên trong qua cuộc gặp gỡ của nhân vật “tôi” trong một lần về thăm người bạn thân vừa mới cưới vợ ở quê. Tại đây anh đã bất ngờ gặp Hiền vợ bạn chính là nữ chiêu đãi viên trong quán bia mà anh đã từng gặp. Tình huống ngẫu nhiên này là đầu mối cho biến cố phát triển . Đặc biệt người kể chuyện đã để cho chính người chồng Hiền ngẫu nhiên nói ra vấn đề đó: “Cảm ơn các nhà báo đã báo động về sự suy thoái của đạo đức, nhất là hạng mại dâm … trong đời có bao nhiêu cách sống, sao chọn bia ôm? Nghèo thì mò cua bắt ốc” [43,179]. Câu nói đánh trúng vào câu chuyện Hiền đã trải qua và chính sự ngẫu nhiên này đã dẫn.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> đến cái chết của Hiền mà chỉ có nhân vật “tôi” là người hiểu rõ hơn ai hết. Truyện đã gợi cho ta suy nghĩ về lẽ sống ở đời, về vấn đề con người với đạo đức và lương tâm. Trong cuộc đời hãy biết sống vị tha, bao dung, cảm thương với mọi số phận bất hạnh của con người. Trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng “ tôi”, nhân vật tôi thường là nhân vật chính nên tất cả mọi diễn biến của câu chuyện đều được bắt đầu từ cái nhìn của họ. Ở truyện Tên của đứa con, nhân vật “tôi” kể lại một chuyện tình éo le do hoàn cảnh chiến tranh đó là chuyện tình của cô Bảy Quyên. Cô Bảy Quyên bất ngờ trước sự trở về của người chồng tưởng đã chết từ lâu, đó là những ngày hạnh phúc trong đời cô, nhất là khi biết mình đã có mang. Nhưng vì nhiệm vụ cách mạng bí mật, cô đành chịu mang tiếng oan trước sự xa lánh của mọi người. Nhà văn đưa nhân vật Bảy Quyên vào tình huống éo le để thể hiện rõ phẩm chất, tính cách của người phụ nữ giàu đức hi sinh, biết nén chịu những đau thương riêng vì lợi ích chung của cách mạng. Đó là phẩm chất cao đẹp của con người vẫn giữ tấm lòng kiên trinh trong mọi hoàn cảnh mà không gì có thể khuất phục. Tình huống trên còn là ý hướng người đọc về ý thức trách nhiệm của con người biết đặt lợi ích tập thể trên lợi ích cá nhân. Trong truyện Dân chơi, nhân vật “ tôi” trò chuyện với nhân vật anh Tư già nhưng cũng dường như bộc bạch, giãi bày với chính mình “ Từ Hà Nội trở về, tôi đề bạt nguyện vọng lên cấp trên xin được về chiến trường Đồng Tháp Mười, đó là chiến trường xưa của tôi thời chống Pháp. Nghĩ đến Đồng Tháp, tôi nghĩ đến cánh đồng mênh mông, những cô gái xõa tóc, hoặc mái chèo trên những con kinh dài hun hút”[ 43,88]. Trong truyện Người bạn lính, nhân vật “tôi” kể lại chuyện về Tấn một anh hùng trong chiến đấu, một dũng sĩ diệt Mĩ :"Chiến công nổi bật của nó là trận đánh vừa chận đứng vừa đánh tan một cánh quân Mỹ đợt hai năm Mậu Thân.
<span class='text_page_counter'>(45)</span> (1968) trong một làng vùng ngoại ô Sài Gòn. Đơn vị nó nằm trong một vị trí bất lợi. Một bên là quốc lộ, một bên là con sông. Trên quốc lộ là xe tăng, là thiết giáp; dưới sông là tàu chiến, trên trời là trực thăng. Xa hơn là dàn pháo của căn cứ "Bình Chánh, dàn pháo được mệnh danh là "dàn nhạc Tân Tây Lan". Đơn vị nó hơn một trăm tay súng nằm trong cụm vườn thưa, lấy mương nước, gốc cây làm công sự. Giữa lúc hiểm nghèo ấy, Tấn đeo B41 leo lên ngọn dừa, lần đầu tiên trong chiến tranh, Tấn là người chiến sĩ dùng B41 từ trên ngọn dừa bắn hạ trực thăng. Chiếc trực thăng hình con cá lẹp, như con diều hâu sắt vừa quay cánh vừa sà thấp xuống, chưa kịp phóng rốc két thì bùng lên thành một đám cháy. Bầy trực thăng hốt hoảng, vội vã dạt ra xa. Chiến sĩ ta đồng loạt xông lên với tiếng reo hò. Tàu chiến bị trúng đạn phụt lửa, xe tăng bị B41 bốc cháy mềm như sáp. Trận đánh im tiếng súng vừa lúc trời sụp tối”. Nhưng khi trở về với cuộc sống đời thường lại chật vật không nuôi nổi vợ con :“ Nghe tin Tấn chuyển ngành, đang trở lại nghề cũ, đóng bàn ghế, tôi chưa kịp đến thăm anh thì anh đến thăm tôi, báo tin đã qua thời gian nan. Ngày vào thành phố, với cương vị là trung tá trong ban quân quản, trong tay anh không biết bao nhiêu là nhà cao cửa rộng, nhưng anh lại chọn một ngôi nhà trong hẻm. Bây giờ bạn bè của anh, người cùng cương vị anh hoặc thấp hơn anh, nhà ở mặt tiền, nhà ở villa, chỉ cần cho thuê, cho mướn cũng đủ sống. Còn anh, lương trung tá, vợ chuyên viên, hai đứa con, đứa sinh trong rừng năm 1972, đứa trong bụng mẹ về thành phố, những năm củi quế gạo châu không đủ sống, phải sống nhờ gạo "viện trợ"của hai bên cha mẹ dưới quê…” [43,178]. Với điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất, tác giả tạo cho người đọc cảm giác chân thật, với độ tin cậy cao. Nhìn lại các tác phẩm trên, nếu người trần thuật trong tác phẩm không phải là nhân vật “tôi” tự nói về mình thì nhân vật hẳn sẽ không có sức sống nội.
<span class='text_page_counter'>(46)</span> tại như vậy. Với cái “tôi” đó, nhân vật không ngần ngại bộc lộ những ước mơ thầm kín, những nỗi đau riêng tư, những ước mơ hy vọng…Và khi Nguyễn Quang Sáng để cho nhân vật tự cất tiếng nói của mình, nó sẽ giúp người đọc khám phá ra chiều sâu con người một bản ngã đích thực. Mặt khác, ở vị trí trần thuật này, nhà văn dễ dàng tái hiện quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý phong phú của con người. Vì vậy tạo cho người đọc được cảm giác chân thật, độ tin cậy cao và thái độ đồng cảm cùng với những lời tâm sự được giãi bày của nhân vật. Những truyện được kể từ nhân vật “tôi” như thế dễ làm “say đắm” người đọc, khiến ta cứ tưởng như mọi chuyện được kể ra tự đáy lòng họ, chân thành và đáng nhớ. 2.1.2.2. Trần thuật nhập thân vào nhân vật Quan điểm trần thuật này cũng xuất phát từ điểm nhìn chủ quan nhưng người kể chuyện không xưng “tôi” cũng không phải là nhân vật trong truyện tự kể lại. Ở đây, người kể chuyện đã ẩn đi, đứng đằng sau nhân vật, sự kiện để kể và đẩy nhân vật ra trước độc giả. Vì thế trước mắt độc giả, không thấy người nói chỉ thấy hiện thực được trình bày trong câu chuyện. Người kể chuyện “tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể” (Trần Đình Sử), thường mượn điểm nhìn của nhân vật, giọng nhân vật để kể chuyện và “anh ta đã hòa vào nhân vật đến mức ta khó phân biệt được giọng kể của anh ta với giọng kể của nhân vật” [51, 140]. Có như vậy, người kể chuyện (tác giả) mới dễ dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật với tất cả mọi cung bậc tình cảm, mọi rung động của tâm hồn nhân vật. Chọn kiểu trần thuật nhập thân vào nhân vật, Nguyễn Quang Sáng đã phát huy lợi thế đó. Kiểu trần thuật nhập thân vào nhân vật thể hiện rõ nhất qua truyện ngắn Đổi nghề, đó là lời của nhân vật người học trò tên Liêm: “Người học trò chưa kịp cúi đầu chào thầy thì thầy đã cúi đầu chào trước, thầy cười niềm nở và đưa tay hướng dẫn khách ngồi vào bàn và hỏi giọng hỏi nhẹ và lễ phép lắm:.
<span class='text_page_counter'>(47)</span> "Dạ hai cậu đi mấy người?". Người cùng đi trả lời cộc lốc: "Hai!". Chiều mưa lất phất, hứa hẹn một buổi nhậu ngon lành sau một hợp đồng xây dựng cho một công ty xuất nhập khẩu. Anh học trò là kỹ sư xây dựng, tuổi ba mươi, người dong dỏng, mang kính cận, hãy còn dáng dấp của một sinh viên, tên Liêm. Ông giám đốc công ty người vạm vỡ, tuổi hơn bốn mươi, vẻ phong trần, râu lún phún, tóc muối tiêu - ông Nguyễn Hưng. Sau khi hai người an toạ thì cô tiếp viên tuổi hai mươi mặc chiếc áo bà ba cách điệu màu xanh lá cây, lễ phép trình thực đơn bìa màu đen - ông Nguyễn Hưng đưa tay chộp lấy. Tiếp viên giọng nhỏ nhẹ: "Hai anh uống gì?". Ông Nguyễn Hưng: "Chiều mưa ta làm chai rượu?". "Dạ tuỳ anh". Ông Nguyễn Hưng giọng vừa to vừa ấm: "Một chai Rémy!". "Dạ lớn hay nhỏ?". Ông Nguyễn Hưng trợn mắt nhìn cô tiếp viên: "Chai nhỏ không đủ lỗ mũi". Cô tiếp viên cười. Anh kỹ sư Liêm vẫn bị ông thầy ám ảnh, anh hỏi: A " nh đến quán này thường không?". Ông Nguyễn Hưng: T " ừ ngày khai trương, gần một năm, thấy được, không sang không hèn lại tiện đường". Chai Rémy đặt lên bàn, hai cái ly bầu, một xô đá, hai chai soda Chương Dương... Hai ly rượu sóng sánh màu mật ong - ông Nguyễn Hưng vui mừng với hợp đồng, ông háo hức cầm ly nâng cao: "Cạn!". Anh kỹ sư vẫn bị ám ảnh nhưng vẫn nâng ly. Ông Nguyễn Hưng nốc cạn, còn anh kỹ sư thì nhấp đến ba lần, rồi cũng cạn. Khách tốp ba, tốp bốn lác đác vào - Ông chủ lại chào, lại bắt tay, lại cười, qua lại, lui tới, lăng xăng. Anh kỹ sư cứ đưa mắt nhìn theo ông chủ: "Sao mà giống ông thầy trường tôi quá!". "Còn ai vô đây nữa, thầy Viết chú không nhớ à!". "Tôi không ngờ...". "Có gì mà không ngờ...". Rồi ông kể. Đáng lẽ ông hạ giọng nói nhỏ cho hai người vừa đủ nghe, nhưng ông vẫn giữ giọng bình thường: T " rong giáo dục, sự nghiêm khắc là điều cần thiết, ông ta nổi tiếng là ông thầy nghiêm khắc - Hồi chiến tranh ta có chiến sĩ diệt Mỹ, chẳng biết ông ta làm gì mà nổi tiếng là "chiến sĩ diệt sinh viên".[ 43,349].
<span class='text_page_counter'>(48)</span> Với thủ pháp nhập thân vào nhân vật để trần thuật, ngôn ngữ thấm nhuần nhiều tình cảm và suy nghĩ của nhân vật, ta thấy ranh giới giữa người trần thuật và đối tượng trần thuật thường bị xóa nhòa. Người đọc có cảm giác như đang được nghe chính nhân vật tự kể về mình đồng thời cũng như nghe được nhịp đập trái tim của người cầm bút. Quan hệ giữa người trần thuật và nhân vật như không còn khoảng cách mà gần gũi, hòa hợp, đồng cảm. Kiểu trần thuật này tạo nên ở độc giả những cảm giác trực tiếp, gần gũi với nhân vật như không phải đang được nghe kể mà là đang được chứng kiến. Và cũng nhờ cách trần thuật này, Nguyễn Quang Sáng mới có khả năng thâm nhập vào mọi ngõ ngách tâm hồn nhân vật, khám phá thế giới nội tâm phong phú của nhân vật để đồng cảm, sẻ chia với những cảm xúc vui buồn thầm kín của họ. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thường là nhập thân vào nhân vật để trần thuật, để miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật. Ở truyện ngắn, Nguyễn Quang Sáng đã nhập thân vào nhiều nhân vật để miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật (Linh Đa trong Linh Đa, Quyên trong Con chim vàng, Nhung trong Chị Nhung, anh Ba trong Chiếc lược ngà, anh Ba Hoành trong Quán rượu người câm …). Điển hình như miêu tả tâm trạng của Linh Đa khi cô nghĩ về người yêu và số phận của mình: “ Cô nhớ, đêm ấy, vào một đêm sắp sửa giao thừa năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám. Hai người trên một chiếc honda chạy rong khắp cả ngả đường. Người yêu của cô đưa cô về nhà riêng, một cái nhà nhỏ xinh đẹp nhiều hoa đầy rượu với một cái giường nệm êm. Đêm xuân trong ánh đèn mờ, trong tiếng nhạc êm đềm. Người con trai muốn đến với cô, nhưng cô muốn dành cái đẹp nhất của người con gái trong đêm cưới. Cô từ chối với lời hứa hẹn ngọt ngào..
<span class='text_page_counter'>(49)</span> - Em có ngờ đâu, đó là đêm cuối cùng của hai đứa em – Cô bật khóc, khóc nức nở. Nước mắt cô đổ xuống như một cơn mưa của trời Sài Gòn. Trời đang nắng, một cơn mưa bỗng ụp xuống, ào ào rồi đột ngột tạnh hẳn đi, trời lại quang đãng . . . - Ảnh chết, cuộc đời của em như hết! Hết một quãng đời! Những ngày Mậu Thân đó, xóm Cầu Tre bị bắn phá, ba em bị một trái bom nổ gần, hộc máu, phải chở đi nhà thương. Căn nhà em bị một chùm pháo của Bình Chánh chụp xuống, tan hoang, đời em không còn gì nữa hết! ” [43, 525 ]. Có lẽ thể hiện rõ nhất nghệ thuật trần thuật nhập thân vào nhân vật để trần thuật là ở truyện ngắn Chiếc lược ngà . Ở đây, nhà văn dường như hóa thân vào nhân vật Anh Ba để kể, làm cho mọi sự kiện, diễn biến của truyện hiện ra trước mặt người đọc qua cái nhìn của nhân vật Anh Ba. Hoàn cảnh của nhân vật gần giống như hoàn cảnh chính tác giả .Chọn phương thức trần thuật này, nhà văn muốn trực tiếp lên án chiến tranh vì chiến tranh mà con phải mất cha, vợ phải chịu cảnh góa bụa. Tác giả truyền cho người đọc lòng căm phẫn tột độ đối với bọn Mĩ – Ngụy. Nhìn chung, những tác phẩm đó ban đầu đều xuất phát từ vị trí trần thuật không tham dự, điểm nhìn bên ngoài và dần dần dịch chuyển vào nhân vật. Với thủ pháp nhập thân vào nhân vật để trần thuật, ngôn ngữ thấm nhuần nhiều tình cảm và suy nghĩ của nhân vật, ta thấy ranh giới giữa người trần thuật và đối tượng trần thuật thường bị xóa nhòa. Người đọc có cảm giác như đang được nghe chính nhân vật tự kể về mình đồng thời cũng như nghe được nhịp đập trái tim của người cầm bút. 2.1.3. Dịch chuyển luân phiên điểm nhìn trần thuật.
<span class='text_page_counter'>(50)</span> Trong sáng tác, điểm nhìn trần thuật khách quan và điểm nhìn trần thuật chủ quan nhiều khi không tách biệt nhau mà phối hợp, luân phiên nhau trong một hệ thống trần thuật phức tạp. Khi trần thuật, điểm nhìn có thể được chuyển từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, mở rộng khả năng bao quát và đánh giá của người trần thuật. Điểm nhìn trần thuật thường di động, dịch chuyển từ nhiều vị trí. Sự dịch chuyển điểm nhìn làm người đọc vừa trông thấy theo trường nhìn bên ngoài, vừa nhìn thấu vào tâm can của nhân vật; khi thì theo con mắt nhân vật này, khi thì theo mắt nhìn của nhân vật kia, tham gia vào cuộc đối thoại ngầm với văn bản. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng sử dụng linh hoạt và phối hợp các vị trí điểm nhìn trần thuật trong một văn bản rất đặc sắc. Hầu hết các truyện ngắn của ông có sự di chuyển điểm nhìn đều xuất phát từ ngôi kể thứ ba, người trần thuật ban đầu đứng bên ngoài câu chuyện và dần dần chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật, trần thuật tham dự vào diễn biến tác phẩm. Nhưng cơ bản ở những tác phẩm đó vẫn xuất phát từ trần thuật khách quan để phản ánh sự việc. Nhà văn di chuyển điểm nhìn vào nhân vật là để khắc họa rõ nét tính cách nhân vật mà thôi. Qua khảo sát, thấy Nguyễn Quang Sáng sử dụng khá nhiều khá nhiều điểm nhìn trần thuật từ nhân vật, từ bên trong nhân vật, dưới nhiều dạng kiểu hồi tưởng quay về quá khứ. Trong các truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói đến sự kiện trong quá khứ được trình bày, kể lại ở thời gian hiện tại làm cho câu chuyện như đang xảy ra trước mắt độc giả. Người đọc có thể dễ dàng nhận ra những cụm từ mà nhà văn dùng như: “Tôi chợt nhớ ….”, “nó nhớ lại…”, “ nhớ lại chuyện cũ…”, “ nhớ lại…”, …Không những vậy, Nguyễn Quang Sáng còn sử dụng phương thức trần thuật từ điểm nhìn của người kể chuyện để làm hấp dẫn câu chuyện bằng những cụm từ: “đêm hôm đó”, “buổi tối hôm đó”, “buổi chiều hôm đó”, “ buổi sáng hôm đó”, “năm ngoái ”, “sáng hôm trước”, “cách đây vài năm”, “một đêm trời trăng sáng”, “ mùa khô năm ngoái”,“ hồi trước”, “ một đêm tối”, “ mười năm qua”, “ mùa mưa năm một ngàn.
<span class='text_page_counter'>(51)</span> chín trăm bốn mươi tám”, “ chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi”…để tái hiện lại sự kiện đã xảy ra. Tuy nhiên, mức độ di chuyển điểm nhìn ở mỗi tác phẩm không đều nhau. Truyện ngắn Con chim vàng , người kể rất khách quan, dửng dưng kể lại sự bóc lột, sự hiếp đáp của mẹ con thằng Quyên đối với Bào. Điểm nhìn của tác giả khi thì khách quan miêu tả những gì mình thấy, mình chứng kiến. Nhưng khi cần miêu tả nội tâm nhân vật thì chuyển vào điểm nhìn nhân vật Bào để kể, Cũng có nhiều truyện ngắn điểm nhìn chủ yếu xoay quanh từ tác giả sang nhân vật chính ,đó là trong truyện Quán rượu người câm câu chuyện anh Ba Hoành bị địch bắt năm 1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà ở với vợ, dọn một hàng rượu. Ở quán rượu “người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của kẻ thù, về sức căm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi, nhân dân chờ đợi người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang. Nhưng không ngờ người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tôi không nói, không phải tôi câm, mà tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa !”. Bốn năm im lặng trong tư thế một người câm ! Một tiếng nói cất lên đúng vào hôm đồng khởi cùng với tiếng hò reo, tiếng súng nổ dậy trời của nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù ! Cái thế giới mà người đọc được Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ ! Ngoài điểm nhìn khách quan xuyên suốt truyện, đan xen vào truyện là những bức tranh tâm trạng khác nhau với các điểm nhìn của nhân vật. Với phương thức dịch chuyển luân phiên điểm nhìn, ta thấy người trần thuật ngoài cái phần “toàn tri” đã có phần dựa vào điểm nhìn hữu hạn của nhân vật để tả tình, tạo nên cái nhìn bên trong - nhìn từ tâm trạng nhân vật, làm cho câu chuyện sống động chân thật hơn. Sự chuyển đổi bất ngờ, liên tục các vị trí trần thuật làm cho các điểm nhìn không theo một logíc tâm trạng nào. Tác phẩm.
<span class='text_page_counter'>(52)</span> như một đoạn phim quay chậm với những kiểu cảnh độc đáo sinh động. Giữa chúng tạo ra những “khoảng lặng” bất ngờ, và người đọc tự do thẩm định, suy ngẫm, liên tưởng và rung động. Đây là một kiểu trần thuật độc đáo của Nguyễn Quang Sáng. Ông đã vận dụng nhuần nhuyễn các cách trần thuật, nhằm đem lại cho người đọc cảm giác mới lạ. Đồng thời qua đó thể hiện thái độ đồng cảm, chia sẻ cùng nỗi niềm tâm sự với nhân vật. Nhìn chung, về điểm nhìn trần thuật, Nguyễn Quang Sáng thường chọn điểm nhìn trần thuật chủ quan. Điểm nhìn được dịch chuyển, luân phiên nhằm hướng vào điểm nhìn gần, điểm nhìn bên trong để khám phá thế giới nội tâm nhân vật. Với phương thức trần thuật này, Nguyễn Quang Sáng đã đóng góp tích cực cho nền văn học hiện đại Việt Nam một phong cách viết mới: lối viết hiện thực giàu tính sử thi nhưng vẫn điểm xuyết các yếu tố trữ tình. Trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng, điểm nhìn trần thuật khách quan và điểm nhìn trần thuật chủ quan nhiều khi không tách biệt nhau mà phối hợp, luân phiên nhau, tạo nên sự linh hoạt, sinh động của truyện ngắn. 2.2. Nhịp điệu trần thuật Nhịp điệu là một phương diện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật của văn học. Đối với tác phẩm tự sự, nhịp điệu trần thuật là một trong những yếu tố hình thức tạo sự hấp dẫn lôi cuốn cho độc giả đồng thời cũng giúp người nghiên cứu phát hiện được phong cách nhà văn. Vì vậy tìm hiểu nhịp trần thuật của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trước và cả sau 1975, chúng tôi nhằm tìm ra nét độc đáo trong sáng tác của nhà văn. Nhịp điệu là “sự lặp lại có tính chất chu kỳ, cách quãng hoặc luân phiên của các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trình nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẫm mỹ … Trong văn xuôi, nhịp điệu của tổ chức lời văn được hình thành trên cơ sở sự phân tách văn bản thành chương, hồi,.
<span class='text_page_counter'>(53)</span> đoạn. Câu văn dài ngắn khúc khuỷu được lặp lại cũng tạo nên nhịp điệu cảm nhận đời sống” [13,165]. Mặt khác, “trong văn xuôi thì nhịp điệu còn là yếu tố thời gian, nhịp điệu kể, nhịp điệu tả…Nhịp điệu ấy cũng có thể nhanh hay chậm, cô đúc hay dàn trải” [15,164]. Xét ở cấp độ trần thuật, “nhịp điệu là sự luân chuyển giữa mạch kể và mạch tả, hay sự lặp lại các mô típ hoạt động” [13,166]. Như vậy ở đây đã đề cập đến nhịp điệu trần thuật. Bởi vì, theo Trần Đình Sử, “sự phối hợp các thành phần trần thuật, sự luân phiên, phối xen các sự kiện và các đoạn tả cảnh, tả tình, hồi tưởng sẽ tạo nên nhịp điệu trần thuật” [54,174]. Nói cách khác, nhịp điệu trần thuật là sự phát triển nhanh chậm của mạch kể trong tác phẩm. Tùy theo đối tượng trần thuật và quan điểm sáng tác mà mỗi tác phẩm có nhịp điệu trần thuật riêng. Chẳng hạn, cùng thuộc trào lưu hiện thực phê phán những sáng tác của các nhà văn có nhịp điệu khác nhau. Tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố được trần thuật bằng nhịp điệu nhanh, căng thẳng, gấp gáp vì nhà văn liên tiếp ném ra các sự kiện, biến cố dồn dập trong cùng một lúc. Đấy là nhịp điệu quay cuồng căng thẳng của nông thôn Việt Nam trong mùa sưu thế. Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan thì chủ yếu hướng tới miêu tả hành động cử chỉ bên ngoài của nhân vật, mỗi nhân vật đều đang “diễn trò” bằng các động tác nhanh, liên tục và dẫn đến kết thúc bất ngờ tạo nên nhịp điệu nhanh gấp. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng hướng về sự kiện xã hội, những mặt trái, những diễn biến đầy nghịch lí xảy ra bất ngờ nên mạch trần thuật nhanh, gọn, khẩn trương… Nhưng đến Nam Cao, Thạch Lam thì nhịp điệu thay đổi. Tác phẩm Thạch Lam thường hướng về chuyện đời thường, chuyện tâm tình, xây dựng những tình huống tâm lý nhẹ nhàng, ít sự kiện, ít biến cố nên nhịp văn khoan thai, chậm rãi. Truyện Nam Cao phần nhiều tập trung khai thác đời sống nội tâm, nhân vật suy nghĩ nhiều hơn hành động nên nhịp điệu chung là chậm chạp, từ tốn … Nhìn chung, ta có thể nói khái quát rằng khi nhà văn hướng về đời sống nội tâm, những hồi.
<span class='text_page_counter'>(54)</span> tưởng tưởng tượng, suy nghĩ của nhà văn hoặc có sự phối xen tả cảnh, tả tình, bình luận ngoại đề trong khi kể… thì nhịp điệu trần thuật thường có quãng ngắt, chậm rãi. Còn khi nhà văn hướng về tái hiện sự kiện xã hội, tập trung miêu tả diễn biến, hành động của con người với nhiều biến cố thì nhịp điệu thường nhanh, gấp gáp, khẩn trương. Nhịp điệu trần thuật của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trước và sau 1975 không đơn điệu một chiều mà có sự thay đổi linh hoạt. Trong truyện ngắn, tiểu thuyết và hồi ký, ta thường bắt gặp hai kiểu trần thuật có nhịp điệu trái ngược nhau: nhịp điệu trần thuật dồn dập, sôi nổi (chiếm số lượng ít) và nhịp điệu trần thuật chậm chạp, khoan thai (chiếm số lượng nhiều nhất). 2.2.1. Nhịp điệu trần thuật khoan thai, chậm rãi (là nhịp điệu khá phổ biến) Như chúng ta đã biết, tốc độ của nhịp điệu trần thuật là do sự phối hợp các thành phần trần thuật, sự luân phiên, phối xen các sự kiện và các đoạn tả cảnh, tả tình. Nếu như ở truyện ngắn đầu tay là Con chim vàng và một số truyện ngắn có nhiều biến cố lớn, xảy ra trong thời gian ngắn và ít có sự quãng hoặc phối xen nào thì ngược lại, ở hầu hết các truyện ngắn giai đoạn sau sau 1975 và hồi ký, tác phẩm ít có biến cố và mạch kể được phối xen nhiều đoạn miêu tả, hồi tưởng… đã gây ấn tượng ở người đọc về sự chậm chạp cho nhịp kể. Văn Nguyễn Quang Sáng là thứ văn dạt dào cảm xúc. Vì vậy nhịp điệu trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng cơ bản là chậm chạp, đó cũng chính là tính cách của người Nam Bộ. Mạch kể của ông thường có nhiều quãng ngắt tạo cảm giác chờ đợi ở người đọc. Quãng ngắt làm kéo dãn nhịp điệu trần thuật ấy chính là các đoạn được phối xen như: tả cảnh, tả tình, những lời bình luận trữ tình ngoại đề của người trần thuật hay bởi những dòng hồi tưởng, độc thoại miên man của nhân vật..
<span class='text_page_counter'>(55)</span> Ở một số truyện ngắn, câu chuyện được kể chỉ là một vài nhân vật với một vài biến cố sự kiện nhưng truyện dài dòng là do xuất hiện của nhiều đoạn tả cảnh xen vào trong khi trần thuật. Truyện Người đàn bà đức hạnh chỉ có vài nhân vật: cô đào Năm Thanh, anh Bạ, chàng công tử si tình… nhưng tất cả đều sống trong âm thầm, lặng lẽ, nặng nề. Tác phẩm xoay quanh cuộc đời của cô đào Năm Thanh và chàng công tử si tình, chàng công tử con nhà giàu vì si tình cô đào Năm Thanh từ bỏ gia đình giàu sang theo gánh hát và vì quá si mê cô đào Năm Thanh mà đã hóa điên, cô đào Năm Thanh sau khi biết được chuyện đó đã chăm sóc cho chàng công tử si tình để gọi là trả nghĩa, cô đã đấu tranh gay gắt giữa việc giữ và hi sinh cái đức hạnh của mình, truyện rất giàu sức ám gợi… Mạch kể chầm chậm từ tốn với sự phối xen tả cảnh, tả tâm trạng và tả người: “Sau vài đêm hát, gánh trở lại Sài Gòn. Và mỗi ngày lặng lẽ một mình, Năm Thanh đều đi Biên Hòạ Mỗi ngày Năm Thanh đều tin cho tôi - Bác sĩ nói, bữa nay ảnh tỉnh nhiều hơn hôm qua Mỗi lần ảnh lên cơn, bác sĩ nhắc lại lời dặn của em thì ảnh dịu xuống. ảnh bớt hát bớt hò. Nhưng đến bữa ăn thì vẫn còn đổ cơm xuống nền nhà, ăn bốc. Chiều hôm sau, Năm Thanh tin thêm: - Bữa nay, trước mặt em, ảnh chịu ngồi yên để hớt tóc, đầu cổ bữa nay gọn gàng rồị Nhưng con mắt nhìn em vẫn còn dại lắm. Chiều hôm sau: - Bữa nay ảnh đi tắm. Chiều hôm sau nữa: - Ảnh hỏi em là anh đang ở đâu [43,259]. Truyện lại được trần thuật tiếp theo với những lời đối thoại của nhân vật. Với nhịp điệu trần thuật kéo dài như thế, Nguyễn Quang Sáng muốn khắc họa cái kiếp sống heo hắt, nặng nề, lặng lẽ của những số phận tàn tạ dần trong sự.
<span class='text_page_counter'>(56)</span> câm lặng, chịu đựng kia. Đến truyện ngắn Linh Đa, mạch kể của truyện được kéo dài ra bởi các thủ thuật phối xen của nhà văn trong khi kể: Trong số hơn 30 trang có đến hơn 4 trang tả cảnh vật ,ngõ hẻm, ngôi nhà của Linh Đa, nơi cô đang sinh sống: “Anh bạn tôi dừng xe lại ở đầu đường, tôi đi bộ vào ngõ, số nhà với ba con số hai lần “suyệt” như vậy, chứng tỏ là một ngôi nhà trong một cái ngách rất sâu.. Dừng lại đầu đường, tôi theo một cái ngõ dài với những ngôi nhà nhỏ hơn, lại rẽ vào tay phải theo một hẻm hẹp hơn, một cái hẻm dài lồi lõm nhiều ổ gà với hai dãy nhà tôn: đến số 32, tôi lại rẽ vào tay trái, theo một cái hẻm dài như một cái đường mương, bùn đất lầy lội, nhà chen khít nhau, cái lồi cái lõm như đang xô lấn nhau tìm cuộc sống… Chiếc chiếu đã không sạch bằng cái sàn gỗ, nhưng dù sao cũng là cái để tỏ ra trân trọng đối với khách. Lầu cao nhưng mái lại thấp, đồ đạc chẳng có gì nên trông cũng rộng rãi. Ngôi nhà không xứng đáng với vẻ đẹp lộng lẫy của cô hôm ấy và cả hôm nay. Và tôi đã hiểu thế nào là ngôi nhà ổ chuột của đất Sài Gòn, rác rưởi đường mương nước cống xông lên nồng nặc” [43,517]. Chọn nhịp điệu trần thuật chậm trong trường hợp này là phù hợp để tái hiện được cả quá trình đau khổ, dằn vặt của số phận Linh Đa . Nhịp điệu chậm rãi khoan thai cũng được thể hiện trong truyện ngắn Đổi nghề qua nhịp kể của nhân vật người học trò có tên là Liêm: “ Người học trò chưa kịp cúi đầu chào thầy thì thầy đã cúi đầu chào trước, thầy cười niềm nở và đưa tay hướng dẫn khách ngồi vào bàn và hỏi giọng hỏi nhẹ và lễ phép lắm: "Dạ hai cậu đi mấy người?". Người cùng đi trả lời cộc lốc: "Hai!". Chiều mưa lất phất, hứa hẹn một buổi nhậu ngon lành sau một hợp đồng xây dựng cho một công ty xuất nhập khẩu. Anh học trò là kỹ sư xây dựng, tuổi ba mươi, người dong dỏng, mang kính cận, hãy còn dáng dấp của một sinh viên, tên Liêm. Ông giám đốc công ty người vạm vỡ, tuổi hơn bốn mươi, vẻ phong trần, râu lún phún, tóc muối tiêu - ông Nguyễn Hưng. Sau khi hai người an tọa thì cô.
<span class='text_page_counter'>(57)</span> tiếp viên tuổi hai mươi mặc chiếc áo bà ba cách điệu màu xanh lá cây, lễ phép trình thực đơn bìa màu đen - ông Nguyễn Hưng đưa tay chộp lấy. Tiếp viên giọng nhỏ nhẹ: "Hai anh uống gì?". Ông Nguyễn Hưng: "Chiều mưa ta làm chai rượu?". "Dạ tuỳ anh"” [ 43,278]. Phần lớn trong truyện Nguyễn Quang Sáng, sự luân chuyển giữa mạch kể và mạch tả thường xuyên xảy ra. Tác phẩm thường được phối xen vào lời kể những đoạn tả cảnh thiên nhiên rất đẹp. Đó là bức tranh thiên nhiên của Đồng Tháp Mười đẹp lãng mạn nhưng cũng đầy hiểm nguy: “Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà chung quanh nước đã lên đầy, nói cho đúng đây là cái trạm của đường dây giao thông, nhà nhỏ nhưng người lại đông. Chưa đến chuyến đi, chúng tôi còn phải đợi. Ban ngày, chúng tôi chẳng biết đi đâu, hết nằm lại ngồi, có lúc thấy cuồng chân, thật tù túng, nhưng lại có cái thú bù lại là thọc cần câu ra khỏi nhà để câu cá... Bên ngoài, một cơn gió ù ù thổi tới. Cái trạm này - một ngôi nhà cất chen vào giữa một chòm cây giữa khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa biển. Sóng đập đều đều vào các chòm cây. Đàn cò đứng ngủ không yên, một vài con vỗ cánh bay chấp chới. Sóng gió như nhắc nhở ông điều gì, ông nghiêng tai lắng nghe. Khi cơn gió thổi qua, mặt nước trở lại yên lặng, ông mới ngẩng lên mà nói. Ông nói với chúng tôi mà như nói với cả trời nước vậy, ông không nhìn vào chúng tôi mà nhìn ra biển nước, chân trời và các vì sao ” [ 43,211]. Truyện của Nguyễn Quang Sáng đa phần nhiều sự kiện, câu chuyện ít dàn trải và mạch cảm xúc kéo dài, nhân vật thường sống trong hồi tưởng (Chiếc lược ngà, Một chuyện vui, Con mèo của Foujita …). Quá khứ thường sống dậy trong lòng nhân vật cắt đứt mạch truyện hiện tại. Ở truyện ngắn Chiếc lược ngà, người kể chuyện là nhân vật tôi từ thực tại nhớ về những việc trong quá khứ, và đây là lần gặp cuối cùng khi chứng kiến cái chết của người bạn thân: “Tôi hãy còn nhớ buổi.
<span class='text_page_counter'>(58)</span> chiều hôm đó - buổi chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa còn đọng trên lá, rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới tấm ny lông nóc, tôi bỗng nghe tiếng kêu. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi ly của Mỹ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỷ mỉ và cố công như người thợ bạc. Chẳng hiểu sao tôi thích ngồi nhìn anh làm và cảm thấy vui vui khi thấy bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Một ngày, anh cưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược được hoàn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, cây lược cho con gái, cây lược dùng để chải mái tóc dài, cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sóng lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu, con của ba”. Cây lược ngà ấychưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Những đêm nhớ con, anh ít nhớ đến nỗi hối hận đánh con, nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Một ngày cuối năm năm mươi tám, năm đó ta chưa võ trang - trong một trận càn lớn của quân Mỹ - ngụy, anh Sáu bị hy sinh. Anh bị viên đạn của máy bay Mỹ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh. - Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu..
<span class='text_page_counter'>(59)</span> Tôi cúi xuống nhìn anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi” [ 43,217]. Dòng hồi tưởng này làm mạch truyện bị xén ngang, tạm thời dừng lại để cho người đọc có diều kiện theo dõi tâm sự, cảm xúc của nhân vật về những chuyện đã trải qua. Nhìn chung, đây là nhịp điệu trần thuật cơ bản tạo nên đặc điểm cho văn Nguyễn Quang Sáng. Phần lớn các truyện được trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật tôi đều tạo điều kiện cho người trần thuật và nhân vật bộc lộ cảm xúc tâm trạng. Nhà văn thường dùng câu văn dài, nhiều thành phần để miêu tả, tái hiện cảnh vật, tâm trạng…khiến mạch kể dãn ra, nhịp điệu chậm lại . Nhịp điệu này chiếm số lượng nhiều trong sáng tác Nguyễn Quang Sáng. Thủ pháp trần thuật này dễ tạo cho người đọc sự đồng cảm, đưa người đọc chìm đắm vào dòng suy tư của nhân vật hoặc người kể chuyện. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng : “Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn tỉnh táo và sắc lạnh, nhịp trần thuật của ông cứ từ từ làm cho người đọc phải sốt ruột muốn biết được kết cục nên văn ông phù hợp với những người chậm rãi không nóng đầu, âu đó cũng là cốt cách của người Nam Bộ vậy”. Nhưng với một nhà văn hiện thức lớn, không phải chỉ cần một trí tuệ sắc sảo mà còn phải có một trái tim lớn, một lòng yêu thương vô hạn đối với con người. Đấy là mặt mạnh của Nguyễn Quang Sáng so với một số nhà văn khác cùng thời. Nhịp điệu trần thuật trong văn Nguyễn Quang Sáng là một vấn đề chưa được nhiều nhà nghiên cứu bàn tới. Chúng tôi thử tìm hiểu phương diện này dưới góc độ tự sự nhằm tìm ra mối quan hệ giữa tự sự và phong cách. Rõ ràng nhịp điệu trần thuật có ảnh hưởng và tác động không nhỏ trong việc kiến tạo tác phẩm, nó chi phối kết cấu truyện, độ dài truyện và còn giúp ta nhận ra phong cách của nhà văn. Như Trịnh Công Sơn nhận xét: “ Nhà văn Nguyễn Quang.
<span class='text_page_counter'>(60)</span> Sáng là một thực tế có thể chạm đến được và từ đó có quyền yêu thích hoặc không. Tôi quen anh từ sau ngày đất nước thống nhất, người ta có thể yêu văn phong người này và khước từ một lối hành văn khác. Tôi là kẻ yêu loại văn chương tráng lệ. Ở Nguyễn Quang Sáng khó tìm ra cái thủ pháp đầy quyến rũ của chữ nghĩa. Người ta đã nói và nhắc lại nhiều lần trên sách báo: văn là người. Trường hợp này rơi xuống đúng đời văn – đời người của Nguyễn Quang Sáng. Nói như thế nào, nghĩ như thế nào và sồng như thế nào thì viết như thế ấy. Mặc dù, phải xa đến mấy mươi năm dòng sông Cửu Long mạnh khỏe, đỏ rực phù sa, nhưng trong văn chương của anh vẫn là văn chương của kẻ tha thẩn trên những dòng sông Nam Bộ” . Nhịp điệu trong sáng tác Nguyễn Quang Sáng cũng vậy. Đó chính là nhịp điệu tâm hồn, là cung bậc cảm xúc của nhà văn đối với cuộc đời : Một con mắt quan sát tường tận thấu đáo, một nhà văn say sưa kể -viết và một trái tim dạt dào yêu thương. 2.2.2. Nhịp điệu trần thuật dồn dập, sôi nổi Như đã trình bày, yếu tố tạo nên nhịp điệu trần thuật là những sự kiện, biến cố, tình tiết được đan cài bởi thủ thuật kể của nhà văn. Li-kha-chôp cho rằng: “Với một biến cố thật lớn, xảy ra trong khoảng thời gian rất ngắn đã gây ấn tượng về sự vận động nhanh chóng của thời gian”. Điều đó có nghĩa là biến cố và thời gian vận động sẽ chi phối nhịp điệu trần thuật. Theo thuyết “thời gian giả” của Genette, muốn khám phá nhịp điệu kể chuyện trong tổng thể chung của tác phẩm tự sự, trước hết cần xem xét cụ thể về các vận động tự trong văn bản truyện. Và sự tương tác giữa các vận động tự sự sẽ tạo ra nhịp điệu kể chuyện của tác phẩm. “Genette cho rằng nếu đem số trang dành cho một (một vài) sự kiện hoặc một (một vài) phần của văn bản truyện để chia cho khoảng thời gian thực tế (năm, tháng, ngày …) tương ứng của câu chuyện được kể thì sẽ thấy.
<span class='text_page_counter'>(61)</span> được sự biến đổi của nhịp điệu kể chuyện” [39,51]. Xét trên cơ sở lý thuyết này, để thấy được nhịp điệu trần thuật nhanh thì trong khoảng thời gian ngắn tác phẩm đó phải xảy ra nhiều biến cố sự kiện và mạch kể hầu như không có quãng ngắt. Đọc truyện ngắn Chị Nhung, nhà văn viết về những sự kiện dồn dập vào cái tết Mậu Thân năm 1968: “Tôi quen cô Nhung từ năm một ngàn chín trăm sáu mươi. Cái ngày đầu tôi quen cũng là ngày tôi chia tay với cô, đã tám năm. Suốt trong tám năm không phải lúc nào tôi cũng nhớ, nhưng cũng có thể nói chẳng lúc nào tôi quên cô ấy. Trong những chuyến công tác, hễ gặp ai quen tôi cũng hỏi thăm cô. Tôi thường mong ngày gặp lại, nhưng khi tôi gặp lại cô thì tôi không nhận ra cô nữa. Đó là một buổi chiều tháng năm giữa trận đánh trên đường Trần Quốc Toản, cánh quân của chúng tôi thọc mạnh vào Sài Gòn, trụ lại quãng đường ấy từ mờ sáng. Bọn giặc dùng "chiến thuật ruồi bu"có phi pháo, có trực thăng, có cơ giới yểm hộ, chúng tấn công ta bằng nhiều mũi, chẳng khác gì những mũi tên lao vào một điểm. Mãi đến xế chiều chúng tôi mới đánh bật tất cả các đợt phản kích của địch. Tiếng súng nhỏ chỉ nổ thưa thớt trên các góc phố và trên những tầng nhà cao. Nhân lúc ngưng tiếng súng, chúng tôi phân công cho một đơn vị chia nhau giúp dân ra khỏi tầm súng. Chúng tôi đoán biết sau lúc im lặng, trận đánh sẽ xảy ra ác liệt hơn. Người trong khu phố lần lượt đổ ra đường, người đi xe hơi, người đi xe Honda, xe Suzuki, người đi bộ. Đứng trong một góc phố, nhìn những đoàn người đang nối nhau, dắt díu nhau đi trong làn khói của những nơi nhà bị pháo giặc bắn cháy, tôi thấy có một cô gái cỡi xe Honda màu đỏ chạy ngược lại dòng người, lao thẳng vào trận địa. Chiếc xe bị đội tự vệ đường phố đưa tay chận lại. Mãi lúc sau, không lâu lắm, tôi nhớ khoảng chừng năm hay ba phút gì đó, anh đội trưởng tự vệ báo cho tôi biết có.
<span class='text_page_counter'>(62)</span> người lạ muốn gặp ban chỉ huy. Lúc đó tôi đã trở vào nhà, xem lại bản đồ của đường phố. Trong chỉ huy sở có một mình tôi với ba đồng chí trinh sát trẻ. Chỉ huy trưởng và chỉ huy phó đang ở trên đài quan sát, tôi mời vào. Người muốn gặp ban chỉ huy là cô gái cỡi xe Honda lúc nãy. Cô khoảng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, ăn mặc theo thời trang của người Sài Gòn, quần ống hẹp, áo bà ba màu hột gà bó sát lấy thân, người thon thả với dáng nhanh nhẹn, tôi không nhìn rõ được mặt cô. Tóc uốn cao, nhưng mái tóc lại rủ xuống che mất cả vầng trán và cô lại mang kính mắt đen. Tôi đoán là cô cố ý diện như vậy để người khác không nhận ra mình. Cô khẽ cúi đầu chào tôi với vẻ lịch sự và kính cẩn, rồi đặt chiếc giỏ mây bên bàn cạnh chiếc bản đồ quân sự, lấy ra chiếc bánh mì, bẻ làm đôi, đưa cho tôi một tờ giấy nhỏ. Đó là thư của ban chỉ huy trung đoàn lệnh cho các cánh quân của chúng tôi phải chuyển đến vị trí X, vào giờ G để hợp đồng chiến đấu với đơn vị bạn và cô là người dẫn đường”[43, 201]. Ngoài truyện ngắn Chị Nhung, một số truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng cũng được trần thuật với nhịp điệu nhanh. Có những truyện được kể với một loạt sự việc xảy ra, gay cấn. Truyện Chiếc lược ngà có những trang ngồn ngộn sự việc căng thẳng, ngột ngạt. Đó là trong một chuyến công tác của nhân vật “ tôi” : “- Trong lúc đó tiếng máy vẫn nổ giòn, và tôi lại muốn nhìn rõ cô giao liên - người đang giữ sinh mạng của mình. Đêm không tối, cũng không sáng, nền trời tràn qua nhiều lớp mây mỏng, rải rác một vài chòm sao. Trời sáng mập mờ - Tôi chỉ nhìn thấy được dáng người của cô giao liên, gương mặt như hơi tròn và một đôi mắt, đôi mắt của người con gái thật là khó tả. Chẳng hiểu cớ sao, từ cái ánh mắt ấy, tôi dần dần thấy một người quen, quen lắm. Tôi cố nhớ, nhớ không ra, tôi thấy mình lẩn thẩn. Bỗng có tiếng kêu thất thanh: - Máy bay !.
<span class='text_page_counter'>(63)</span> - Máy bay ! Xuồng liền chòng chành, như có người định lao xuống, người nhốn nháo và nhiều tiếng lao nhao lên: - Tấp vào ! - Đâu? - Đèn nó ở phía sau kìa! - Tấp vào, tấp vào. Phản lực! Cô giao liên cho máy nổ nhỏ dần, quay lại sau một lúc rồi bảo: - Không phải đâu, sao trên trời đó mà. Trong lúc mọi người đang lo, có người hoảng hốt, có người định nhảy thì giọng của cô bình tĩnh như vậy đó. Có người chưa thật tin, nhưng trước thái độ thản nhiên của cô, mọi người lại ngồi yên. “Sao trên trời đó mà”, giọng nói nhỏ nhẹ và ngọt ngào. Và cô lại cho máy nổ to. Sau mấy ngày đi bộ, được ngồi trên chiếc xuồng máy thật là thích thú. Nhưng nghĩ đến máy bay, tôi lại thấy phiền. Tiếng máy đuôi tôm nổ to quá như át cả tiếng máy bay. May mà gặp cô giao liên bình tĩnh, cô mà rối, chắc có người đã nhảy rồi, xuồng chắc cũng chìm mất. Tôi cố không nghĩ gì khác, tập trung lắng nghe tiếng máy bay. Xuồng bắt đầu vào một quãng kinh trống, hai bên bờ không có một ngôi nhà, xa xa một chòm tre, một lùm cây, hai bên là cánh đồng hoang. Tôi sốt ruột muốn cho xuồng lao nhanh hơn. Hình như hiểu tâm trạng tôi, cô cho máy nổ to. Sóng trước mũi xuống trào lên kéo thành những đợt sóng dài, làm run rẩy đám cỏ hai bên bờ, vỗ bập bềnh các giề lục bình và các đám nghề mọc hoang..
<span class='text_page_counter'>(64)</span> Trong lúc mọi người đang yên tâm, đang thích thú ngồi trên chiếc xuồng lao nhanh thì cô giao liên tắt máy báo tin: - Máy bay! Cô vừa nói vừa tấp sát lại bụi tre. Chiếc xuồng sau cũng tấp lại. Rõ ràng là có tiếng máy bay, tiếng cánh quạt “lạch bạch” của đám trực thăng Mỹ. Tôi chẳng biết cái lỗ mũi của cô thính đến cỡ nào, còn cái tai của cô rõ là thính thật, tiếng máy bay lẫn trong tiếng máy đuôi tôm, thật khó nghe. Xuồng chòng chành, có người chới với muốn té: - Nó còn xa lắm! - Cô trấn tĩnh chúng tôi - Các bác, các chú bước lên phân tán mỏng, tìm núp vào chỗ kín. Nếu nó có soi tới các bác, các chú nhớ đừng động đậy - Trong lúc cô nói, anh em khách đã vọt lên bờ hết rồi. Tôi là người cuối cùng. Tôi vừa bước lên thì cô bảo: - Bác cứ ở đây đi. Xuồng ít người không sao!”... [ 43,280-285]. Nhìn chung, ở những tác phẩm tập trung phản ánh hiện thực cuộc chiến, nhịp điệu trần thuật của Nguyễn Quang Sáng thường nhanh gọn. Nhằm tái hiện khách quan cuộc chiến thần thánh của dân tộc những năm 1956-1975, truyện Nguyễn Quang Sáng ngồn ngộn những sự kiện, những biến cố nên câu văn thường ngắn gọn; nhân vật ít có diễn biên nội tâm; nhiều sự việc được tác giả cùng một lúc tung ra dồn dập tạo nên sức hấp dẫn cho truyện và không gây nhàm chán ở người đọc..
<span class='text_page_counter'>(65)</span> Chương 3 GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG 3.1. Giọng điệu trần thuật Trong Từ điển Thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, giọng điệu được hiểu là “ thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[13,91]. Giọng điệu trong tác phẩm văn học là giọng điệu nghệ thuật, nó “ là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật kể chuyện hay như thơ trữ tình phải có khẩu khí, giọng điệu riêng. Giọng điệu trong tác phẩm gắn với các giọng “trời phú” của tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo chứ không đơn điệu”[13,91]. Trong sáng tạo nghệ thuật, giọng điệu có vai trò rất lớn: “ hiệu suất của lối kể chuyện, của hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu” (Khrapchenko) [34,294]. Đối với tác phẩm văn học, giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. “Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật”[13,91]. Hơn nữa, giọng điệu ở đây không chỉ là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói mà là một hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng.
<span class='text_page_counter'>(66)</span> nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Như vậy, giọng điệu là biểu hiện của thái độ cảm xúc chủ thể đối với đời sống, giọng điệu mang nội dung tình cảm thái độ ứng xử của nhà văn đối với hiện thực được phản ánh, giọng điệu thể hiện ở điểm nhìn của chủ thể, ở quan hệ của chủ thể đối với cái được miêu tả. Trong truyện, giọng điệu phức tạp hơn thơ, “chủ yếu gồm hai giọng cơ bản: giọng nhân vật đối với thế giới và giọng của người kể chuyện đối với nhân vật. Tùy theo đặc điểm tính cách số phận nhân vật, người kễ và các mối quan hệ đa dạng của chúng mà ta có giọng điệu đa dạng”[54,110]. Do giọng điệu gắn với việc dùng hình tượng để miêu tả đối tượng sáng tác nên nó thể hiện cách nhìn nhận riêng của cá nhân đối với đời sống. Nói cách khác, giọng điệu tác phẩm phụ thuộc vào cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Vì vậy, trong sáng tác, mỗi nhà văn thường có một giọng điệu riêng khiến ta khi đọc văn của họ dễ dàng nhận ra dáng vẻ và cốt cách riêng ở mỗi người. Nguyễn Công Hoan thì dí dỏm trào phúng. Thạch Lam thì nhẹ nhàng, mượt mà đằm thắm và sâu lắng …Còn Nguyễn Quang Sáng là nhà văn xuất sắc của văn xuôi thời kỳ hiện đại, đặc biệt trong thời chống Mỹ cứu nước và đổi mới, ông đã tạo cho mình một giọng điệu trần thuật riêng. Đó là giọng điệu sử thi, hào hùng đan xen với giọng chiêm nghiệm, triết lý, khác với giọng điệu đằm thắm tha thiết trữ tình của Anh Đức, giọng tâm tình hòa lẫn chất dân gian của Nguyễn Thi. 3.1.1. Giọng điệu sử thi, hào hùng Trong giai đoạn 1954- 1975, vận mệnh của Tổ Quốc đang đứng trước những thử thách gay gắt, cả dân tộc muôn người như một sát cánh trong cuộc chiến đấu vì lí tưởng chung là độc lập tự do và thống nhất Tổ Quốc. Nền văn học của giai đoạn lịch sử ấy không thể là tiếng nói của những số phận cá nhân mà phải là tiếng nói của cả cộng đồng dân tộc và nhân dân. Những chủ đề bao trùm trong nền văn học giai đoạn ấy là những vấn đề về vận mệnh của cộng đồng,.
<span class='text_page_counter'>(67)</span> hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực lịch sử dân tộc, nhân vật tiêu biểu nhất là người anh hùng đại diện cho sức mạnh và phẩm chất của dân tộc, giai cấp, cho thời đại và nhà văn cũng là người phát ngôn cho tư tưởng, lập trường, tình cảm, quan niệm của cộng đồng, nhân danh cộng đồng mà ca ngợi và lên án, kêu gọi và cổ vũ. Đó là một nền văn học theo khuynh hướng sử thi, nó tiếp cận và phản ánh thực tại từ quan điểm sử thi. Nền văn học ấy đã sáng tạo một thế giới nghệ thuật, bao gồm cả bức tranh đời sống và những hình tượng con người mang một vẻ đẹp riêng, đậm màu sắc sử thi và chất lãng mạn. Khuynh hướng sử thi đã chi phối hầu khắp các sáng tác thuộc đủ mọi thể loại. Nó không chỉ thể hiện trong tiểu thuyết mà còn ở truyện ngắn và kí. Khuynh hướng sử thi đã hình thành từ những bước khởi đầu của nền văn học mới sau Cách mạng tháng Tám, nhưng từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, khuynh hướng ấy càng phát triển mạnh mẽ và bao trùm cả nền văn học. Khuynh hướng sử thi chi phối từ việc lựa chọn đề tài, chủ đề đến việc xây dựng hình tượng nhân vật và chi phối cả đặc điểm kết cấu tác phẩm, nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi. Văn học theo khuynh hướng sử thi cũng tất yếu tìm đến những phương thức nghệ thuật phù hợp với nội dung sử thi, đồng thời cũng tạo nên giọng điệu đặc trưng là giọng ngợi ca, trang trọng. Và giọng điệu sử thi, hào hùng cũng là “giọng nền” chủ đạo ở những truyện ngắn sáng tác trước năm 1980 của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Quang Sáng chủ yếu tập trung ngợi ca vẻ đẹp tinh thần của con người Nam Bộ bằng cái nhìn ngưỡng mộ, say mê. Những con người kiên cường anh dũng trong đấu tranh, thủy chung nhân hậu trong cuộc sống đời thường và lạc quan tràn đầy niềm tin ở tương lai. Hầu hết các truyện ngắn của ông trong thời kỳ này đều tập trung khai thác cuộc sống và chiến đấu của nhân dân, đồng bào vùng đồng bằng.
<span class='text_page_counter'>(68)</span> Sông Cửu Long, đó là vùng Đồng Tháp Mười và An Giang. Cũng khai thác đề tài chiến tranh cách mạng như nhiều nhà văn khác nhưng Nguyễn Quang Sáng lại đi sâu khai thác tình cảm ruột rà, máu mủ của tình cha con ( Chiếc lược ngà ), tình mẹ con ( Bông cẩm thạch ), hay tình yêu đôi lứa ( Chị xã đội trưởng ), tình cảm vợ chồng ( Tên của đứa con ), tình đồng chí, đồng đội ( Bạn hàng xóm ). Đó là tình cảm vốn rất thiêng liêng nhưng chiến tranh đã làm cho họ bị chia cắt. Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng cũng đồng thời tập trung khai thác cuộc sống và chiến đấu của những con người rất đỗi bình thường. Đó là những con người bình thường nhưng vĩ đại vì mang trong mình lý tưởng cách mạng cao đẹp, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do cho Tổ quốc. Tất cả đều “sống chung” với bom đạn Mỹ nhưng họ dám coi thường để vượt lên tất cả mọi nguy hiểm. Chất giọng trữ tình ngợi ca trước hết thể hiện qua việc tái hiện cuộc kháng chiến của đồng bào miền Tây Nam Bộ, đó là những câu chuyện kể về cuộc chiến chống Mỹ hào hùng mà bi tráng của nhân dân miền Nam được Nguyễn Quang Sáng kể lại bằng một giọng tự hào. Một chuyện vui kể chuyện anh Bảy Ngàn trên đồng nước bị trực thăng vây bố, sau hai lần hụt chết, ung dung đến ngồi bên cạnh cây tràm bị tên lửa bắn, còn nghi ngút khói, hút thuốc, thở khói phà phà. Câu chuyện mấy lần hụt chết đó lại cứ như là “một chuyện vui”, chẳng mùi mẽ gì, thế nhưng cái điều kỳ diệu về tư thế ung dung, coi thường nguy hiểm, xem thường kẻ địch lại gây ra một ấn tượng sâu trong người đọc. Đó là “một bức tranh được đồng bào trong ấy, nhất là anh chị em du kích rất hoan nghêng và đã phóng to trên các tường phòng thông tin. “ Bức tranh có ba ô. Ô thứ nhất: chiếc máy bay trực thăng sà xuống, mấy anh du kích lũi nấp vào bụi, rụt cổ, lè lưỡi nói với nhau: “ Ôi, thứ này khiếp quá! “. Ô thứ hai: một anh du kích thò cổ ra, chỉa chiếc “ hoành tầm sàu” về phía máy bay: “ bắn một phát thử coi sau?”. Ô thứ ba: chiếc trực thăng rơi nằm kềnh dưới đất. Mấy anh du kích trèo lên thân máy bay.
<span class='text_page_counter'>(69)</span> cười hỉ hả: “ ngó như vậy mà ngon xơi đa!...” . Thì ra cái câu chuyện đánh dấu một giai đoạn của cuộc đọ sức giữa bà con ta trong đó với vũ khí hiện đại của quân thù…” .Cảnh, người, cuộc chiến đấu của miền Nam giờ đây sau mà thân thiết thế! Nó đã sống và sống mãi trong lòng chúng ta, đi vào vốn luyến tinh thần của mỗi người chúng ta, trở thành một sợi dây tình cảm nhạy bén nhất trong tâm hồn chúng ta. Chỉ cần khêu nhẹ vào đó một chút là sợi dây đó rung lên trong tìềm thức của chúng ta. Trong nội dung yêu nước của chúng ta, từ bao giờ rồi, đã bao hàm tình yêu đối với miền Nam. Quá trình Thu ( Chiếc lược Ngà) nhận ra bố do ngoại khêu gợi cũng là quá trình em bé học được bài học vỡ lòng đầu tiên về Cách mạng và kháng chiến, Thu đã hiểu ra vì sao bố con phải xa cách bảy, tám năm ròng ? Vì sao bố Thu đã phải già đến nỗi không giống bức hình chụp trước kia nữa ? Thu đã nhận ra tội ác của thằng Tây ở cái sẹo trên mặt bố, cái sẹo làm cho Thu không nhận ra bố nữa và do đó cũng nhớ lại được tội ác của chúng ở ngay cái bót vàm. Đừng tưởng Thu là một cô bé khô khan. Trái lại, Cái tiếng “Ba…a… ba !” mà Thu thốt lên khi nhận ra bố, mới cảm động làm sao, tiếng “Ba” nhưng xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “Ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó – Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên. Nhưng lúc này, trong cái sung sướng được nhận ra “ba” cũng như trước đây, trong cái gan lì không nhận ra “ba” Thu vẫn là một em bé cứng cỏi, biết làm chủ cảm xúc của mình. Sau những cử chỉ rất tự nhiên như muốn níu “ba” ở lại khi biết “ba” phải ra đi, cuối cùng Thu đã ôm “ba” một lần nữa và mếu máo: - Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba – Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống..
<span class='text_page_counter'>(70)</span> Vẫn rất trẻ thơ mà đã có cái gì thật là lớn. Và ở đây, trong phút chia tay này, Thu lại học được bài học vỡ lòng thứ hai về Cách mạng qua lời dỗ dành của người mẹ: - Thu ! Con. Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về”. “Thống nhất rồi ba con về”, bài học đó hẳn sẽ soi rọi mãi cuộc đời chiến đấu anh hùng mà thằm lặng của cô gái giao liên Thu sau này. Thù nhà, nợ nước, truyền thống kháng chiến trước và sau nhiệm vụ cách mạng tương lai…hình như tất cả những gì cần thiết để tạo nên một phẩm chất anh hùng đã đến với Thu ngay từ ngày thơ ấu ấy và đã đến với Thu trong một hoàng cảnh độc đáo làm sao, với một cá tính độc đáo làm sao! Chính mấy nét về bé Thu tám tuổi trên đây đã soi tỏ, đã giải thích khá đầy đủ những hành động anh hùng của cô giao liên Thu sau này: cái bình tĩnh đặc biệt của Thu dưới làn ánh sáng chói chang, ma quái của trực thăng địch khi chúng đi soi đêm trên cái dòng kênh để phát hiện xuồng ta; cái mưu trí dày dặn kinh nghiệm và lòng dũng cảm đầy tự tin của Thu khi phải đối phó bất ngờ với bọn biệt kích địch; cái xúc động đến bàng hoàng của Thu khi nhận được chiếc lược ngà, vật kỉ niệm của người cha suốt đời xa cách cũng như cái trấn tĩnh phi thường của Thu khi phải nhắc đến cái chết của người cha mà chính người trao vật kỉ niệm này tìm cách giấu giếm; “ Cháu chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu đi giao liên”. Có thể nói, trong khuôn khổ của một thiên truyện ngắn, Nguyễn Sáng đã dựng lại cho ta không phải một người anh hùng chung chung nào đó mà là một tính cách anh hùng sinh động, độc đáo. Câu chuyện mở đầu bằng cuộc gặp gỡ với ba nhân vật chính: cha, con và một đồng chí chiến đấu của cha (người kể chuyện này). Trong cuộc gặp gỡ ấy, Thu hầu như chỉ mới biết có một thứ tình cảm: tình cha con – tất nhiên không.
<span class='text_page_counter'>(71)</span> phải tình cha con thông thường mà là tình cha con trong Cách mạng. Câu chuyện kết thúc cùng bằng một cuộc gặp gỡ giữa hai ba người: Chiếc lược ngà hay là hiện thân tấm lòng của người cha chiến sĩ đã khuất, người con hay là cô gái giao liên Thu và người đồng chí chiến đấu của cha xưa, cũng là người khách Thu có trách nhiệm đưa đường. Bao quanh cô gái giao liên lúc này không phải chỉ có những cánh lúa xanh mà là một thế giới tình cảm cũng dạt dào như sóng lúa vậy: tình cha con, tình đồng chí, tình cảm quá khứ, với người đã khuất và tình cảm với con người hiện tại, tất cả như hòa vào nhau, chuyển hóa với nhau, thống nhất làm một trong khung cảnh của quê hương đang chiến đấu và sinh sôi nẩy nở. Có phải đây chính là biểu hiện cụ thể của một thứ tình cảm mới mà chúng ta gọi chung bằng một cái tên cao quý: tình cảm Cách mạng ! Toàn truyện là một bài thơ, trong đó chất hùng ca quyện chặt với chất trữ tình làm một, cái trữ tình riêng của tác giả lẫn kín trong không khí tình cảm khách quan của câu chuyện. Có thể nói Chiếc lược ngà là một tác phẩm trong bản lĩnh riêng của Nguyễn Sáng được bộc lộ trên khá nhiều mặt đặc sắc. Lối kể chuyện tưởng chừng như rất thoải mái, tùy hứng, nhưng thật ra là đã thông qua ban tay rất chủ động của tác giả. Giọng sử thi, hào hùng trong Quán rượu người câm : Ba Hoành là đảng viên, hơn bốn mươi tuổi, bị địch bắt vì hồi kháng chiến chín năm anh là ủy viên nông hội đo đất tạm cấp cho dân làng – qua ba tháng chịu mọi cực hình tra tấn, anh vẫn giữ được khí tiết đảng viên, không khia báo gì. Nhưng cùng lúc đó, có một tên phản bội không chịu nổi ngón đòn tra tấn, hắn đã khai người cháu gọi bằng chú – là liên lạc của mình. Người cháu bị bắt thấy chú mất tinh thần như thế tỏ ra khinh bỉ và để biểu lộ khí chí kiên cường của mình, đã cắn lưỡi đứt ra hi sinh. Ba Hoành đặt đầu lưỡi cô gái trên tay khóc và nhổ nước miếng vào mặt tên.
<span class='text_page_counter'>(72)</span> phản bội. Sau đó trong một trận tra tấn anh bị địch dùng bù loong đập lên cổ nên bị câm. Không khai thác gì được ở anh nữa, chúng phải thả ra. Về nhà anh mở quán bán rượu để nuôi vợ và ba con. Nơi đây trở thành điểm tụ họp của bà con. Người ta kể lại mọi tin tức về địch khủng bố, bắt bớ tra tấn người, nhiều chuyện rất thương tâm. Mỗi khi khách về hết anh uống rượu – đúng hơn là rót thẳng vào họng những chén rượu và khóc. Ngoài chuyện trong lòng, ngoại huyện, bản thân anh còn có một nỗi đau thầm lặng trong lòng ! Đó là vì đói nghèo nên mất người yêu, vì vậy đến năm ba mươi sáu tuổi mới lấy vợ. Vợ anh là người đàn bà luống tuổi – người yêu của một vệ quốc đoàn đã hi sinh… Hình tượng Ba Hoành, trước hết đó là một đảng viên trung kiên, dũng cảm. Sự thử thách quyết liệt đối với anh là vượt qua được sự yếu hèn, sợ hãi để giữ cho được khí tiêt đảng viên. Trước mặt quân thù và đồng bọn anh trân trọng hi sinh của một cô gái, phỉ nhổ vào mặt tên phản bội cũng phải có dũng khí mới làm được. Ba Hoành là biểu tượng của sự tất thắng trong chiến đấu. Bởi vì thời kì này có thể coi là hoàn cảnh điển hình làm bật ra những mâu thuẫn, những lí tưởng sống, con người phải bộc lộ bộ mặt thật của mình, phải chọn cho mình một chiến tuyến giữa hai cực đối lập nhau: cao thượng và thấp hèn, sống và chết, công và tội…Là người câm nhưng tai vẫn nghe chuyện đời, lòng vẫn đau xót khi được tin đồng bào bị giết hại, nhưng khóc thì không có nước mắt. Mỗi khi khách về hết, anh ngửa cổ lên dốc thẳng vào ống họng những chén rượu, nhờ chất men làm khoây đi cái cay đắng, căm thù ? Không, lòng Ba Hoành “sóng đang nổi lên từ đáy lòng người ta gọi đó là sóng ngầm”. Tác giả đã giành một phần khá dài để tả về sự ra đời và cuộc đấu tranh của đội quân “tóc dài”. Ba Hoành vẫn là người chủ quán rượu, quán rượu đã biến thành diễn đàn tranh luận về cuộc tranh đấu. Anh đã trịnh trọng đưa cho bà Tư.
<span class='text_page_counter'>(73)</span> Trầu một ly rượu màu hồng quân – người ta đã biến thế trận từ bị động sang tiến công làm cho quân địch nhục với “đàn bà”. Và ông chủ quán ấy đã cổ vũ cuộc đấu tranh này bằng chính tay mình cất rượu trái cây riêng cho đàn bà, uống vào ngọt mà không say… Phần cuối của truyện ngắn làm người đọc hể hả, sung sướng với những tình tiết bất ngờ bởi kĩ thuật phục bút của tác giả rất khóe léo, tài tình. Chúng giết “bà Tư Trầu và những người khác nữa. Trong làng có thêm những đứa bé chít khăn tang” nhưng quán rượu vẫn không hết khách ! Người đọc xót xa thấy sự im lặng bao trùm lên xóm làng, nhưng nó không phải là sự im lặng của đau thương. Mà sự im lặng giống như sự bị câm của Ba Hoành ! Nghĩa là trong sự im lặng đó đang có những đợt sóng tràn trào trong lòng mọi người. Rồi bỗng một đêm nhà thờ, chùa chiền đánh chuông, người ta đánh mõ, đánh trống, thùng thiếc, xoong nồi… cái gì có tiếng kêu đều đực huy động vào cuộc chiến đấu. Nhân dân đã nhất tề đứng lên làm cuộc “Đồng khởi”. Và đã san bằng đồng bót bằng những tiếng kêu đó, hòa trong lớp sóng người ! Một sự bất ngờ sững người, kinh người: trong ánh lửa hồng người chỉ huy hiện lên trước khán đài… “… Bốn năm nay tôi không nói, không phải tôi câm. mà tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa. Đã đến lúc chúng ta phải… Chủ đề tác phẩm đã thể hiện một cách sâu lắng, nhưng rõ ràng: “sự nổi dậy, đồng khởi của nhân dân miền Nam đã trải qua bao ngày gian khổ và đã đưa cuộc chiến đấu chống Mỹ sang một bức phát triển mới mẻ”. Một nhân vật với một tình tiết, tính cách Ba Hoành đi suốt chiều dọc câu chuyện, nhưng người đọc vẫn thấy một sức hút kì lạ của nó. Giọng điệu sử thi, hào hùng còn thể hiện ở sự trở về gặp gỡ của những người con đi xa. Mùa xuân năm 1975 đã đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Chiến tranh đã khép lại, non sông quy về một mối..
<span class='text_page_counter'>(74)</span> Bao người con đi xa vì tiếng gọi thiêng liêng, có người đã nằm yên dưới lòng đất mẹ, không được chứng kiến giây phút huy hoàng của ngày toàn thắng. Những người còn lại, có người đã xa quê hương, xa người thân trên 20 năm, nay trở về quê hương với niềm hân hoan, tự hào của người thân và dân làng. Đó cũng là đề tài – tư tưởng cho rất nhiều truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng, tập hợp lại thành tập Người con đi xa. Sự trở về của Đại tá Trần Tất Đắc trong Người con đi xa đã là niềm vui, niềm tự hào của bà con làng quê ông: “ Anh là người được bà con dòng họ, bạn bè và dân làng đón tiếp niềm nở nhất so với những người đi kháng chiến đã trở về thăm làng. Tấm lòng của dân làng đối với anh thật công bằng, vô tư không ai có thể ganh tị được. Vì anh là một trong những người ra đi sớm nhứt, từ ngày đầu năm 1945, đi đến mút mùa hai cuộc kháng chiến. Đi đúng 30 năm mới trở về với cương vị Đại tá, Đại tá Trần Tất Đắc . . . ”. Đề tài tư tưởng này không chỉ giản đơn là xóa bỏ khoảng cách mà ẩn ý sau xa hơn: sự trở về, sự hòa hợp, đoàn tụ của một dân tộc sau bao nhiêu năm xa cách, nỗi đau thương mất mát vì thế mà dịu đi. Niềm vui, niềm hân hoan, niềm tự hào của bà con hàng xóm đón người đi xa trở về cũng chình là niềm vui mà bao năm tháng chờ đợi, chịu mất mát hi sinh nay được bù đắp, được đền đáp. Giọng sử thi cũng thể hiện rõ qua các hình ảnh trong tác phẩm: “Trong ánh sáng chói chang, hoa ô môi đỏ rực. Những lá cờ lớn trải trên tán cây, nối tiếp nhau từ đầu làng đến cuối làng. Làng bổng rực rỡ sáng đẹp lạ lùng. Màu đỏ thắm của hoa ô môi như kích thích chúng tôi thấy yêu tha thiết các làng của mình” [43, 63]. Khi kể về sự nổi dậy của nhân dân trong những ngày đồng khởi nhà văn miêu tả như hình ảnh ngọn đuốc giàu tính tượng trưng. Hình ảnh ngọn đuốc: “Cái đưa lên, cái đưa xuống rào rào như một đám cháy. Người ta quơ đuốc cho cháy to hơn , quơ đuốc cho lửa bốc cao và người ta phóng cả ngọn đuốc bay vọt.
<span class='text_page_counter'>(75)</span> lên không. Tưởng chừng như hàng ngàn ngọn lửa đang đốt cả trời đêm” [43, 95]. Hình ảnh đã gởi lên ngọn lửa cách mạng đang ngùn ngụt cháy, ngùn ngụt trào dâng trong lòng người miền Nam quả cảm đứng lên trong tư thế của người chiến thắng. Nhà văn thể hiện giọng điệu trữ tình, ngợi ca qua những hình ảnh tính tượng trưng để truyền đạt được vẻ đẹp tự nhiên và nhân cách con người vào trong tác phẩm, cũng như biểu hiện thái độ tình cảm của mình về những điều liên quan đến cái đẹp và làm cho cái đẹp trở nên phong phú hoàn thiện hơn. Như vậy, giọng sử thi hào hùng là giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng trước 1980. Giọng điệu ấy được thể hiện qua: việc tái hiện lại cuộc chiến đau thương mà hào hùng của dân tộc, ngày trở về của những người con bao năm xa xứ vì nghĩa lớn và qua cách sử dụng những hình ảnh giàu tính tượng trưng. Nhà văn miêu tả con người hòa quyện với không khí đấu tranh, với thiên nhiên cây cỏ, với tâm hồn rộng mở bao la của sông nước Cửu Long, với tình cảm nồng thắm như hoa ô môi đỏ rực sáng ngời ý chí căm thù và chiến đấu của con người miền Nam. 3.1.2. Giọng xót thương, cảm thông Nhờ yếu tố đa giọng điệu với khả năng điêu luyện trong nghệ thuật trần thuật với chiều sâu nội dung phản ánh hiện thực mà truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng hấp dẫn người đọc. Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng không chỉ tập trung ngợi ca mà còn đi sâu vào từng ngõ ngách trong tâm hồn của con người, nhất là những con người trong cuộc chiến, trở về sau cuộc chiến và ngay cả những mảnh đời trong hiện tại. Trong truyện ngắn Ông Năm Hạng, ông Năm Hạng được mô tả khi trải qua nhiều bi kịch tâm lí. Trước cái chết bí ẩn của đứa con tình máu mủ ruột rà trong ông trỗi dậy, là người cha thương yêu tự hào về con. Diễn biến tâm trạng của ông có nhiều thay đổi khi nói về con mình: “ Sắc mặt của ông trầm xuống,.
<span class='text_page_counter'>(76)</span> đôi mắt xếch long lên vừa rỉ ra hai giọt lệ, người ông như chìm trong ý mghĩa đen mù”. Nhân vật tôi ướm hỏi: “ Nếu rủi như ảnh là Việt gian thì bác nghĩ như thế nào?”. Thái độ của ông Năm Hạng chuyển đổi rõ rệt, quả quyết và dứt khoát: “ Nó đi làm Việt gian thì để cha nó sẽ xử nó”. Tâm lí của ông Năm Hạng thể hiện ở đây là tâm lí của một người cha thương con, một nỗi niềm tâm sự hiển nhiên của người làm cha, làm mẹ. Sự chuyển biến trong tâm lí, tính cách của ông Năm Hạng từ khi biết sự thật về người giết con mình được thể hiện qua cảnh đối thoại giữa ông và tên Lý, đã lột tả được bản chất con người bên trong của ông. Từ giọng nói “rưng rưng nghẹn ngào bật lên tiếng nấc và hai cánh tay rụng xuống như cánh cung bị gãy làm đôi” đến giọng của ông vừa căm hờn vừa đau xót “. . . mày mới giết con tao”. Ngòi bút sắc lạnh của nhà văn đã thể hiện những diễn biến phức tạp của tâm lí nhân vật. Ông Năm Hạng là một người cha thương con, đau xót trước cái chết của đứa con, nhưng không phải vì vậy mà ông không phân biệt được lẽ phải, chính nghĩa và gian tà. Nhân vật Bảy Quyên ( Tên của đứa con) là người phụ nữ xinh đẹp nhưng lại có số phận không bình lặng. Bảy Quyên có những ngày hạnh phúc sau sự trở về của người chồng tưởng như đã chết, niềm vui như được nhân đôi khi biết mình sắp được làm mẹ. tình huống khó xử xảy ra, một bên vì sự an nguy dễ bề hoạt động cho chồng cô phải giấu là anh còn sống, một bên là việc nói ai là cha đứa con cô mang trong bụng? Tình huống éo le đã đẩy nhân vật vào bi kịch chịu tiếng oan “ bị mọi người khinh rẻ xa lánh”. Hình ảnh Bảy Quyên đã thể hiện cách nhìn của nhà văn về con người cách mạng dưới góc nhìn “đời tư”, “thân phận”. Nhân vật được nhà văn đặt vào hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, để từ đó sáng lên vẻ đẹp của con người bản lĩnh, kiên nghị. Vẻ đẹp của Bảy Quyên tượng trưng cho vẻ đẹp của tư tưởng nhân văn cách mạng..
<span class='text_page_counter'>(77)</span> Những năm tháng sau ngày giải phóng, ở miền Nam nổi cộm lên một ván đề: dân cư ở thành phố quá đông đúc, không có công ăn việc làm. Cái đói, cái nghèo và cuộc sống không ổn định là điều không tránh khỏi. Nhà nước chủ trương di dân lên vùng kinh tế mới. Khảo sát truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Quang Sáng, ta có thể thấy nhà văn đã có những thay đổi căn bản so với trước đó. Nếu trước đây ông tập trung miêu tả nhân vật ở vẻ đẹp cá tính, tâm hồn con người gắn trong mối quan hệ với cộng đồng, với cách mạng thì sau 1975 vấn đề mà nhà văn quan tâm là đạo đức của con người và những vai trò mới của con người trong cộng đồng xã hội. Nhà văn cảm nhận về con người đời tư gắn liền với “ mô típ” cá nhân lầm lỡ, mất mát, cô đơn. Nhân vật đời tư là những “con người bé nhỏ” thường có số phận không may rơi vào hoàn cảnh éo le. Truyện ngắn Hạnh và một số truyện ngắn khác của Nguyễn Quang Sáng đã tập trung khai thác đề tài này. Việc từ bỏ chốn phồn hoa đô hội để đến với vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh là điều không hề đơn giản. Mọi tình tiết trong truyện ngắn này thể hiện được quá trình đấu tranh day dứt của nhân vật.Qua đó nhà văn còn giúp người đọc thấy được số phận những người nông dân, thị dân trong xã hội đó phải chịu bao nỗi chua cay, khắc khổ của đói nghèo, cũng như những bi kịch của người lính sau cuộc chiến, họ phải hứng chịu nhều bất trắc. Có thể nói, đằng sau những trang viết phản ánh hiện thực đó là cả một tấm lòng, sự cảm thông trước bao đau khổ của người dân lao động nghèo thấp cổ bé họng. Nguyễn Quang Sáng đã đau cùng nỗi đau của đời. Trong truyện Cái gáo mù u là sự cảm thông cho những mảnh đời nhỏ nhoi sống trong tàn tạ, đó là số phận, là cảnh đời cô gái bán cháo đậu ở thành phố sau cuộc chiến: “Rồi cô ngửa mặt cười, người xung quanh cười theo. Cô chấp nhận cái nợ đời ấy thật hồn nhiên, không hờn, không giận, không tủi như chấp nhận cái thân phận của mình là cô bán cháo.
<span class='text_page_counter'>(78)</span> đậu. Mờ sáng tôi đã thấy cô từ một cái hẻm nhỏ bên kia đường, trên vai chiếc đòn gánh cong quằn, đầu trước là một rổ tô chén, đầu sau là nồi cháo. Vừa bé lại vừa thấp, hai cái đầu gánh cứ nhún nhẩy theo bước chân là dưới mặt đường. Chẳng biết nồi cháo lời được bao nhiêu mà nhọc nhằn quá. Tôi hỏi, cô không nói rõ số tiền mà nói đắp đổi qua ngày”.[43,59] Đó còn là bi kịch của người lính trở về sau chiến tranh, trong chiến đấu họ là những anh hùng, lập được nhiều chiến công, anh dũng xem thường cái chết, nhưng trở về với cuộc đời thường họ lại lạc lõng bơ vơ và không thể hòa nhập, bị đẩy qua bên lề xã hội, khó khăn trong cuộc sống, chật vật tìm kiếm miếng ăn: “Từ chiến trường Campuchia trở về, mất sức, anh xin chuyển ngành, về phụ trách tổ chức cho một xí nghiệp. Qua một năm, Tấn thấy công việc không hợp mình. Anh tự thấy mình không đủ sức hiểu người trên, người dưới và người chung quanh. Họ không dễ hiểu dễ nhận như những người lính của anh. Người ta tặng quà, anh không dám nhận, được mời đi tiệc tùng cũng e ngại. Anh thấy đằng sau những buổi tiệc linh đình là một cái gì đó sẽ đến với anh. Có được một bữa nhậu tình nghĩa thật hiếm hoi. Đã đến cái tuổi muốn thảnh thơi, anh xin hưu. Hưu sống sao đây? Vợ chồng anh sống sao cũng được, không đòi hỏi gì, chỉ thương hai đứa con bị thua thiệt muốn xem tivi màu phải xem nhờ hàng xóm, đi học thì nhờ bạn bè chở giúp. Vợ anh, thỉnh thoảng lại bị sốt rét rừng tái phát, vẫn xanh xao, mỗi ngày mỗi yếu, không xông xáo như chị em.Cũng may, nhà có được cái sân, anh che mát, làm trại mộc. Khởi đầu là sửa bàn ghế cho lối xóm, sau đóng bàn đóng ghế cho các quán cà phê, quán bia vỉa hè. Chỉ cần đóng ghế cóc thôi cũng đã có đồng ra đồng vào. Dần dần, khách đến đặt bàn, đặt tủ. Một mình làm không xuể, anh về quê, kéo lên những tay nghề đang thất nghiệp ” . Trong Bàn thờ tổ của một cô đào: Cặp nhân vật Vân Tiên - Nguyệt Nga trong truyện ngắn Bàn thờ Tổ của một cô đào là Châu và Thanh Sa- Thanh Sa là một cô đào cải lương. Vai tuồng của cô là một nàng tiên vì khao khát đời sống.
<span class='text_page_counter'>(79)</span> trần gian nên được Phật Bà cho xuống hạ giới một năm . Hết hạn một năm cô tiên bay về trời. Bay trên sân khấu chẳng phải là cái gì khó khăn. “Tuồng bay” đã một độ tha hồ hốt bạc. Khốn nỗi anh chàng kéo sợi dây để tiên bay không đủ sức, dù anh đã buộc thêm cả một cục đá ở đầu dây cho thêm sức nặng. Hay nhất là lớp tiên bay mà tiên không bay lên được thì thất bại to. Tệ hơn là vì bay lên lại nhào xuống thì vừa khôi hài, vừa nguy hiểm. Thanh Sa lo quá. May thay “lâm nguy mà được giải nguy” Châu xuất hiện và động lòng nghĩa khí. Anh chỉ chồm phóng lên chụp sợi dây và sức nặng của thân hình rắn chắc của anh kéo Thanh Sa ở đầu kia sợi dây bay vút lên trời thật ngoạn mục. Cô đào thành công rực rỡ. Thế nhưng một lần sợi dây bay vì dùng quá nhiều, bị ải và đứt, Châu ngã đập đầu vào tảng đá chết. Từ đó Thanh Sa lập bàn thờ Châu bên cạnh bàn thờ Ông Tổ chung của các đoàn hát. Thanh Sa thờ Châu như Nguyệt Nga thờ Vân Tiên vậy. Câu chuyện kết thúc với một nỗi buồn man mác. Khi Châu đã tắt thở, đôi mắt anh vẫn mở như muốn nói một lần nữa với Thanh Sa câu anh đã từng nói cổ vũ cô đào: “Tôi sẵn sàng hạ xuống để Thanh Sa bay lên”. Và tác giả bình luận thêm: chúng ta dù lớn dù nhỏ nhưng ai là người đang có một sự nghiệp nhất định, chắc rằng trong mỗi chúng ta đều có một người nào đó đã “hạ xuống cho ta bay lên”. Câu nói nhắn gởi rất nhiều. Đối diện với ông lúc này không phải là đề tài sống, chết trong trận chiến ác liệt mà là số phận cá nhân, là thế giới nội tâm vốn rất phong phú và phức tạp của con người, trong đó bao hàm những mặt đối lập giữa cái tốt và cái xấu, cái cao cả và cái thấp hèn, cái thật và cái giả . . . Những mặt đối lập đó có khi tồn tại đan xen, khuất lấp nhau trong mỗi cá nhân, mỗi con người. ta có thể thấy được điều đó qua các truyện như: Tôi thích làm vua, Thế võ, Con chim quên tiếng hót,… Giữa cuộc sống xô bồ, ồn ả ấy, nhiều khi người ta chạy theo những giá trị vật chất hiện hữu nào đó mà quên đi sự tiềm ẩn bên trong một con người, một cá.
<span class='text_page_counter'>(80)</span> nhân nào đó. Tư sang trong Thế võ là một minh chứng. Người ta chỉ biết anh ta là một người “ gầy đen đúa” và “ làm nghề chăn vịt ở xóm dưới”. Nhưng khi cần lên võ đài để cứu nhục cho cả làng thì anh đã thể hiện sức mạnh của mình. Đó là sức mạnh của sự chính chắn, khiêm tốn và hiểu người, hiểu ta. Chiến thắng của anh cho thấy: Giữa cái mạnh mẽ, tiềm tàng bên trong của một con người, một cá nhân nhiều khi không đồng nhất với cái vỏ hình thức bên ngoài. Đó cũng chính là sự khẳng định giá trị của một cá thể, một bản thể người theo cách riêng của Nguyễn Quang Sáng . Linh Đa trong truyện ngắn cùng tên là cô gái có cá tính mạnh mẽ, giàu nghị lực. Nhưng chiến tranh đã cướp đi cuộc sống bình yên của gia đình cô từ một quả bom trộm làm chết “ ba đứa em bị vùi sâu dưới hố”. Gia đình dắt dìu nhau về Sài Gòn sinh sống, ba cô bị trúng bom vào nhà thương, nhà cửa bị bom đánh tan hoang. Nhất là chiến tranh đã cướp đi chàng trai tốt bụng, mối tình đầu của cô “mối tình trong mơ tưởng đầy hạnh phúc, mối tình không có chỗ cho khỏ đau”. Sự mất mát của gia đình cùng sự ra đi của người yêu đã biến Nguyễn Thị Đa chân chất thành Linh Đa đầy ngang tàng, trụy lạc. Cô sống trong “tiếng nhạc âm u dưới ánh đèn mờ”, “ từ cái vốn của sòng bạc” và thậm chí bằng cả cuộc đời trắng trong của người con gái chỉ để có tiền “ tiền để chạy thuốc cho cha, tiền để sửa lại ngôi nhà”.Cuộc đời người con gái truân chuyên này sẽ ra sao nếu không có sự gặp gỡ bất ngờ với nhan vật “tôi”- “người kể chuyện, người chứng kiến” là anh ruột của người yêu cô đã cho cô biết về sự hi sinh cao cả của đứa em mình, người mà cô dành trọn tình yêu thương và sự trân trọng. Cuộc gặp gỡ và câu chuyện với nhân vật “tôi” về với cuộc sống lương thiện, làm lại cuộc đời mình. Nhà văn đã nhấn mạnh đến hai mặt tưởng như trái ngược nhau nhưng vẫn là một con người, một số phận: vừa liều lĩnh bất cần không hy vọng ở tương lai, lại có những khát khao được sống hạnh phúc như một người phụ nữ bình thường..
<span class='text_page_counter'>(81)</span> Trong truyện Con ma da, nhân vật Hiền là hiện thân của sự bất hạnh, trái ngang. Nỗi đau của bi kịch “ lầm lỡ” được gia tăng khi nhà văn đưa chi tiết “con ma da” lồng vào câu chuyện. Chi tiết này đã gợi lên những điều sâu xa có ý nghĩa trong cuộc sống. Những hủ tục, mê tín lạc hậu đã làm cho con người tin mù quáng, bảo thủ. Cái chết của thân phận đã khép lại một kiếp người nhỏ nhoi. Những “ cái cũ”, “ định kiến” của những người có tư tưởng bảo thủ, ít rộng lượng đã đẩy nhân vật rơi vào bế tắc của cuộc đời. Qua những nhân vật trên, có thể nói nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thành công giọng điệu xót thương,cảm thông cho những phận người, nhất là những phận người bé nhỏ. 3.1.3. Giọng triết lý Giọng điệu triết lí không phải lúc nào cũng được khái quát thành câu văn phơi bày trên trang giấy mà đôi khi nó còn ẩn sau câu chữ. Qua sự lắp ghép những câu chuyện, nhà văn thể hiện quan niệm về số phận của con người trong xã hội. Sau năm 1980, một số truyện ngắn thường có kiểu kết thúc mang đậm tính triết lí của nhà văn về những vấn đề đạo đức, thế sự và nhân sinh (Con chim quên tiếng hót, Con mèo của Foujita, Con khướu sổ lồng, Thế võ, Tôi thích làm vua, Con khỉ mồ côi, Gà sanh đôi, Bài học tuổi thơ …). Ở những tác phẩm này việc xây dựng cốt truyện thường ngắn gọn, hàm súc, giàu sức biểu hiện. Ở đó, một chi tiết, một hình ảnh hay một sự kiện được tác giả sử dụng nhiều lần, có tác dụng gây ấn tượng tạo nên chủ âm của tác phẩm, đặc biệt là cấu kết. Khi kết thúc tác phẩm, nhà văn buông một vài lời tán tụng hay khuyên răn giáo huấn. Điển hình là truyện Con chim quên tiếng hót chỉ vẻn vẹn hai trang kể lại việc ông nội “tôi” có nuôi một con nhồng. Con nhồng biết nói những câu “chào khách”, “em ơi em”. Nhưng dần, những đứa nhỏ dạy thêm những câu “đồ đểu, cút đi”, nó nói miết thành quen và quên dần tiếng hót. Một hôm, quan huyện đến nhà, nó cất.
<span class='text_page_counter'>(82)</span> tiếng nói: “đồ đểu, cút đi”, vì sợ quan, ông nội đã đập chết ngay con nhồng. Sau cái chết của con nhồng bà rút ra lời răn dạy: “Cho nên, biết thì nói, không biết thì đừng nói theo lời người khác, chết oan đó các con”. Qua câu chuyện con chim có ý nghĩ khuyên răn: con người hãy sống đúng với chính mình đừng đánh mất bản thân. Truyện Thế võ kết thúc bằng câu chuyện chiêm nghiệm về thói đời: “Thế võ không bằng cái thế ở đời”. Kết thúc truyện Bài học tuổi thơ là một triết lí nhẹ nhàng: “Chuyện của đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị không điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học, bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt. Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bàn viết”.. Và cuối cùng Nguyễn Quang Sáng lại chọn loại truyện phúng dụ, nhưng truyện phúng dụ của ông không nhằm mục đích châm biếm đả kích một hiện tượng xã hội cụ thể, mà gần với những truyện ngụ ngôn chứa đạo lý ở đời gần với ngụ ngôn Esope, La Fontaine, Krưlốp và những truyện trong Cổ học tinh hoa Nhật. Con mèo của Foujita tả một anh chàng ranh mãnh đã biết cách lùng được bức tranh con mèo của họa sĩ Foujta trong cuộc triển lãm ở Sài gòn năm 1944, để bán được giá cao đến chóng mặt nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Foujta, và đã nhận ra chân lý: “đồ chơi bán đắt tiền hơn đồ thật”. Và ông cũng bày tỏ quan niệm về nghệ thuật của mình : “ Từ đó đôi lúc tao nghĩ, hình như người nghệ sĩ không chấp nhận cái xấu. Mà cái xấu và cái đẹp lại song song tồn tại với con người. Và đó là bi kịch của người nghệ sĩ”. Lối kết thúc mang nội dung giáo dục đạo đức toát ra từ việc truyền đạt qua một hiện tượng, một nhân vật được tác giả nhắc lại nhiều lần. Bài học đạo đức thường được kết thúc thành những lời khuyên răn giáo huấn, chứa đựng hàm ý sâu xa của tác giả, có ý nghĩa nhận thức, giáo dục rất thâm thúy.Nhìn chung, các.
<span class='text_page_counter'>(83)</span> kiểu kết thúc bất ngờ, kiểu kết thúc mang tính triết lí trong tác phẩm là kết tinh của một ngòi bút giàu chất trí tuệ, nó mở rộng ý nghĩa của câu chuyện, của tác phẩm, gợi ra những phương diện nào đó của cuộc đời, chứa đựng những suy nghĩ, cảm xúc của nhà văn về cuộc sống và con người. 3.2. Ngôn ngữ trần thuật Văn học là nghệ thuật ngôn từ và nhà văn là nhà sáng tạo nghệ thuật bằng chính ngôn từ. Hơn bất cứ thứ chất liệu và phương tiện nghệ thuật nào, ngôn ngữ là chất liệu và là phương tiện tối ưu của nhà văn trong sáng tác. Ngôn ngữ cho phép nhà văn sử dụng nó để thể hiện vẻ đẹp sống động, lung linh của thế giới tự nhiên, của đời sống xã hội và cả nội tâm con người – tùy thuộc vào chỗ đứng, cách nhìn, cách cảm khác nhau với đủ mọi sắc thái cung bậc. Ngôn ngữ còn có ưu thế về tính khái quát, tính trừu tượng và tính đa nghĩa, là nhân tố chắp cánh giúp cho nhà văn nhân lên rất nhiều lần hiệu lực của sản phẩm mà họ sáng tạo nên. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng và điều đáng lưu ý là ngôn ngữ bao giờ cũng gắn với thái độ và giọng điệu của nhà văn. Khi xem xét ngôn ngữ nghệ thuật, Khrapchenko đã nêu ý nghĩa của nó “ không phải chỉ như là những cơ sở đầu tiên của tác phẩm văn học mà còn như là một hiện tượng của phong cách văn học” và “ với tư cách là một hiện tượng của phong cách” [34,109 ]. Đối với trần thuật, ngôn ngữ người trần thuật “ chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả”[13,235 ]. Sự biến đổi linh hoạt của giọng điệu góp phần làm nên màu sắc đa dạng ở bình diện ngôn từ. Ngôn ngữ của Nguyễn Quang Sáng là thế, nhà văn toàn tâm toàn ý với văn chương, dồn tụ cảm xúc vào cả văn chương. Lúc ca ngợi câu văn dồn dập, mức độ tình cảm mãnh liệt, lúc thương cảm câu văn thống thiết, xót xa, lúc bình dị chân chất đời thường . . . Suốt một đời cầm bút, gắn bó thủy chung với văn chương, Nguyễn.
<span class='text_page_counter'>(84)</span> Quang Sáng rất ý thức sự sáng tạo trong sáng tác để tìm cho mình hướng đi riêng, trong đó có ngôn ngữ trần thuật. Ở đây trước hết là nhà văn có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ kể và ngôn ngữ tả trong lời trần thuật. 3.2.1. Kết hợp linh hoạt ngôn ngữ tả và kể Ngòi bút truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật. Trước hết là miêu tác chân dung nhân vật. Trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng loại nhân vật tính cách có đặc điểm chung là lạc quan, yêu đời tràn đầy niềm tin và hy vọng ở tương lai. Nhà văn Nguyễn Sáng đã từng nói: “Càng đến những nơi bom đạn ác liệt, thì con người ở những nơi đó lại càng tươi trẻ, lạc quan” [43, 759]. Chính sự tươi trẻ lạc quan là sức mạnh tinh thân to lớn nâng đỡ con người vượt qua mọi khổ đau của bản thân, sự khắc nghiệt của khói lửa chiến tranh đã hòa vào dòng thác cách mạng. Nguyễn Sáng đã khắc họa một loạt hình ảnh của nhiều lớp người khác nhau xuất hiện và lớn lên trong cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam: những thanh thiếu niên nhanh chóng trưởng thành trong cuộc kháng chiến (Mì, Thu, Nhung, Dung); những người chiến sĩ cách mạng, cán bộ cơ sở chịu nhiều mất mát nhưng một lòng vẫn hướng về cách mạng (Ba Hoành, ông Năm Hạng); những con người quần chúng căm thù giặc sâu sắc, gắn bó với đời sống kháng chiến (mẹ củ Mì, chị Bảy, anh Bảy Ngàn). Tác giả nêu bật tính chất quần chúng của chiến tranh nhân dân ở miền Nam, tô đậm thêm chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở chính hành động anh hùng và phẩm chất anh hùng. Cảm nhận nhà văn về những con người này được thể hiện qua việc khắc họa những đặc điểm chân dung nhân vật – chân dung con người lac quan yêu đời. Trong miêu tả ngoại hình nhân vật , trạng thái con người lạc quan yêu đời, nhà văn thường chú trọng các chi tiết ánh mắt, nụ cười của nhân vật. Nhà văn chú trọng miêu tả những nét ngoại hình này không chỉ gợi lên sự hình dung về.
<span class='text_page_counter'>(85)</span> dáng vẻ nhân vật mà còn gợi lên cả tâm tính, bản chất bên trong cả nhân vật. Con người lạc quan yêu đời được tác giả miêu tả đẹp nhất khi đối mặt với đạn bom, với kẻ thù nguy hiểm, qua những khuôn mặt luôn tươi tắn rạng rỡ nụ cười, ánh mắt luôn tràn đầy niềm tin mãnh liệt. Nhân vật cô giao liên Thu (Chiếc lược ngà) được tác giả khắc họa vẻ đẹp chân dung đầy đặn từ hình thức đến nội dung. Một vẻ đẹp giản dị, thanh khiết đối lập với bối cảnh thời chiến tranh khói lửa, bom đạn và bóng đen thần chết luôn rình rập xung quanh. Trong suốt chuyến đi với sự chứng kiến của người kể, nhân vật đã thể hiện được những phẩm chất, tính cách cao đẹp của mình. Vẻ đẹp của Thu được tác giả tập trung miêu tả sau khi Thu chặn địch, vừa bước ra khỏi chổ nguy hiểm mà “mặt cứ phơi phới”. Tác giả chỉ miêu tả một chi tiết ngoại hình qua khuôn mặt cứ phơi phới để nói lên tính cách lạc quan của cô giao liên, bên cạnh tính cách thông minh, bình tĩnh của cô. Nhân vật Dung (Chị xã đội trưởng) dũng cảm và rắc rối nhưng khuôn mặt luôn nở nụ cười. Chị nhìn cây bá đỏ “Mĩm cười một mình”: chị gặp gỡ mọi người “cười mĩm mĩm một mình”; trao lá thư gởi cho người yêu “chị bổng cười một mình”; bắt gặp hoa ô môi đỏ thắm “chị reo lên mừng rỡ”. Nhân vật cô giao liên Ánh (Chị xã đội trưởng) được tác giả miêu tả thông qua dáng vẻ “đầu đội mũ giải phóng màu xanh lá cây, ngồi dựa lưng vào cột nhà, hai chân dũi thẳng trên đệm, cây bá đỏ gát ngang qua ghế” cũng phần nào nói lên bản tính hồn nhiên, nhí nhảnh của nhân vật. Không những thế, nụ cười luôn in dấu trên khuôn mặt cô “cô giao liên cười … reo lên” … “anh nhìn tôi nheo một mắt bụm miệng cười”. Hai cô giao liên Nhung (Chị Nhung) sau tám năm không gặp giữa anh Tám Sơn (người kể chuyện) và Nhung ở tuổi trưởng thành nhưng đọng lại trong anh vẫn là “cái nét quen thuộc tôi có thể nhớ và từ đó mà lần ra hình ảnh ngày xưa của cháu là cái ánh lung linh trong đôi mắt”. Nhà văn đã miêu.
<span class='text_page_counter'>(86)</span> tả đôi mắt ngày xưa của Nhung qua những sắc thái khác nhau: “một đôi mắt lung linh”… “đôi mắt nhìn xoáy”… “đôi mắt bổng biến đi như cút bắt”… “đôi mắt lung linh đầy nước mắt”. Đôi mắt ấy bộc lộ được tâm nguyện của Nhung lúc bé “ chú phải hứa là chú phải giao cho cháu một công tác”. Anh Bảy Ngàn (Một chuyện vui) kể lại chuyện một mình “suốt một ngày chống chọi với tàu chiến tối tân của giặc mà như “một chuyện vui” cứ “ngứa cổ cười hè hè”, “tự nãy giờ cứ cười hì hì”. Anh Ba Hoành (Quán rượu người câm) cũng có nụ cười khó quên “ông cười mặt ông thảm hại làm sao. Mặt ông nghiêm, nhắm một con mắt, miệng méo”, “lịch sự theo người câm nhe răng cười ú ớ”. Như vậy, nhà văn Nguyễn Sáng có cách thức riêng trong khắc họa chân dung nhân vật. Ông chú trọng miêu tả khuôn mặt, nụ cười và ánh mắt, không mô tả dài dòng, chỉ nhấn mạnh một nét nào đó của bề ngoài nhân vật. Đó là hình ảnh được nhắc lại nhiều lần qua “đôi mắt” của Thu, của Nhung (Chiếc lược ngà), (Chị Nhung); “Nụ cười mỉm một mình” của Dung (Chị xã đội trưởng). Với lối miêu tả này, chân dung dường như hòa tan vào hành động được miêu tả và phần nào trở thành sự biểu thị hành vi, tính cách của nhân vật. Nguyễn Sáng đi vào những nét bình thường để miêu tả nhân vật, những cái bình thường đó không kém phần độc đáo ở việc nhà văn tỏ ra nhạy cảm trong miêu tả đối tượng từ ánh mắt, khuôn mặt gắn liền với tính cách, chân dung của một tầng lớp người chịu nhiều mất mát đau thương nhưng biết vươn lên dưới ánh sáng cách mạng. Miêu tả chân dung nhân vật theo cách đó, Nguyễn Sáng chỉ ra được những nét tính cách lạc quan yêu đời của người Nam Bộ, lí giải được sức mạnh tinh thần to lớn của con người đã chiến thắng kẻ thù xâm lược. Không những đối với các nhân vật tính cách, Nguyễn Quang Sáng chú ý khắc họa những chi tiết ngoại hình về “ánh mắt”, “nụ cười” đối với những nhân vật đời tư – thế sự “nụ cười” và “ánh mắt” cũng được tác giả miêu tả rõ nét khi.
<span class='text_page_counter'>(87)</span> con người gặp phải hoàn cảnh trái ngang, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi, gợi lên niềm tin hy vọng ở tương lai. Nhân vật Bảy Quyên (Tên của đứa con) suốt câu chuyện tác giả không miêu tả nụ cười của cô nhưng cuối cùng (cô cười), nụ cười ánh lên niềm tin yêu hy vọng: “trước sau gì cũng có ngày trời quang đãng, cái nỗi oan của mẹ con tôi, của gia đình chị Ba Phấn là điều bí ẩn của vợ chồng tôi sẽ sáng ra” [43, 250]. Nhân vật Linh Đa được khắc họa qua hình ảnh đôi mắt: “Đôi mắt đen nhưng ánh xanh qua lớp son trên khóe mắt, mũi dọc dừa, với đôi môi ước mọng xinh xinh” – đó là chân dung của một con người từng trải, lăn lộn trong cuộc đời son phấn để mưu sinh, hình ảnh “ánh xanh qua lớp son màu” đã nói lên được bản chất phóng túng, ngang tàng của tính cách nhân vật. Nhưng bên cạnh tính cách ngang tàng, Linh Đa vẫn là một cô gái có tính cách kín đáo, xúc động “cười nụ cười hiền và quyến rũ” … “Đôi mắt mở tròn và ngỡ ngàng bổng trào lên từng giọt nước mắt lăn ra, nối nhau chảy dài xuống đôi má”. Cô khóc không phải vì đau khổ, cô khóc vì niềm tin hy vọng ở tương lai giúp cho cô vững bước đi lên đi trên đường đời để xứng đáng với người yêu cô “người đã hy sinh cho tổ quốc”. Nhìn chung, những chi tiết miêu tả ngoại hình trong truyện ngắn Nguyễn Sáng điều là những chi tiết sống động và hàm chứa bao điều ẩn giấu bên trong. Việc dụng chi tiết ngoại hình để khắc họa tính cách nhân vật không phải là biện phải nghệ thuật mới mẻ, nhưng nét độc đáo của Nguyễn Sáng là đã vận dụng một số nét chi tiết ngoại hình về “ánh mắt”, “nụ cười” thành hành vi biểu cảm của nhân vật. Cũng như nhiều nhà văn khác, không chỉ miêu tả ngoại hình mà Nguyễn Quang Sáng và đây mới điều quan trọng, đi sâu miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Sáng miêu tả nội tâm nhân vật bằng việc sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong của tâm hồn nhân vật, là lời nhân.
<span class='text_page_counter'>(88)</span> vật tự bộc lộ ở những trạng thái suy tư, dằn vặt, những cảm xúc, xúc động của nhân vật tự nói với chính mình. Đây là việc nhà văn “thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [12,106]. Trong truyện ngắn trước năm 1975, Nguyễn Sáng thường miêu tả thế giới nội tâm nhân vật thể hiện qua sự chuyển biến tâm lý, tình cảm con người một lòng hướng về cách mạng, về đời sống kháng chiến. Nhà văn miêu tả nội tâm nhân vật qua lời độc thoại bằng các từ ngữ trực tiếp tái hiện cảm xúc nhân vật như: “nghĩ thầm”, “thường nghĩ”, “tự an ủi”, “phân vân” … Đoạn đối thoại nội tâm thể hiện dòng tâm tư tự nhiên của chị Bảy (Người đàn bà Tháp Mười) trước cảnh chồng chị đi vắng một mình nuôi sáu đứa con thật xúc động: “những lúc bị bom trực thăng chị thường nghĩ nếu có anh bảy ở nhà chắc chị đỡ vất vả hơn, chị đỡ lo đỡ sợ hơn. Vừa ôm đứa con nhỏ hai tuổi chị vừa mong anh Bảy, chị tưởng như anh đang vượt qua bom đạn mà trở về với chị, với con. Trong tưởng tượng của chị, hễ có anh Bảy là bọn giặc sẽ rút đi và mọi việc sẽ trở lại yên lành chị vừa nghĩ vừa định bụng khi máy bay rút đi, bước ra khỏi hầm chị sẽ viết thư cho anh Bảy về ngay: [43, 74]. Nhà văn còn để nhân vật chị Bảy tự như đối thoại với chính mình với tâm trạng phân vân trước cảnh nên hay không nên về chuyện lãnh súng: “Lãnh súng mà không chiến đấu thì lãnh súng làm gì? Lãnh súng cho ra vẻ và làm oai với hàng xóm chăng? Mỗi lúc nhắc lại chuyện lãnh súng là mỗi lần chị nghĩ như vậy, ý nghĩ ấy cứ quần quanh trong đầu chị, dần như một bóng đen. Thôi! Thà nằm yên như vậy mà hơn. Chị tự an ủi như vậy, nhưng lòng cứ bứt rứt không yên” [43, 77-78]. Sự tái hiện độc thoại theo dòng ý thức tự nhiên của nhân vật đã cho chúng ta thấy được sự vận động, phát triển tâm lí và tính cách của nhân vật chị Bảy vừa mang tính lôgic nội tại, vừa chịu sự tác động của hoàn cảnh khách quan. Nhà văn miêu tả mâu thuẩn trong tâm lí nhân vật chị Bảy không dữ dội, giằng co dia dẳng mà tâm lý nhân vật diễn ra theo mạch suy nghĩ tự nhiên, chất phác. Cuộc đối thoại với chính.
<span class='text_page_counter'>(89)</span> mình: một bên là gia đình, một bên là chuyện lãnh súng là sự thể hiện thái độ của nhân vật ở sự lựa chọn giữa cái chung và cái tôi cá nhân trong cuộc kháng chiến. Chính cuộc đối thoại là điều kiện nảy sinh những suy nghĩ mới để chị Bảy nhận ra: “Thời bây giờ đánh với Mỹ người mẹ nuôi con cũng phải có súng, chị nghĩ như vậy”. Chị Bảy là hình ảnh tiêu biểu của người mẹ, người phụ nữ Việt Nam ở vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn. Lòng yêu thương chồng con và yêu thương quê hương là biểu hiện cao đẹp nhất của nhân cách chị Bảy, chị đã góp một phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Nhà văn khắc họa tính cách Dung (Chị xã đội trưởng) dưới hình thức một bức thư của Dung gửi cho người yêu, nhưng thực chất là tâm trạng, cảm xúc mà cô muốn giải bày: “Hôm trước thư anh hỏi ai bị cháy em muốn trả lời ngay để anh yên lòng. Nhưng em nghĩ, làm như vậy té ra mình quá mừng được thoát nạn hay sao. Trong cái quá mừng đó có ẩn cái sợ, em nghĩ như vậy. Bởi vì, nếu hôm đó, nhà cháy gần chổ em, em cũng chạy chữa thôi, biết đâu em cũng bị cháy. Bom đạn của Mỹ có chừa ai, có phải không anh? Vì nghĩ mình có thể bị cháy nên em muốn thử thách một chút” [43,69]. Lời độc thoại của Liên (Bông cẩm thạch) trước nỗi đau khổ của mẹ Mì “người đàn bà có vẻ phúc hậu với vẻ mặt đầy đặn và vẫn còn giữ nguyên vẻ một người đàn bà ở nông thôn. Tóc chảy gọn, mái tóc chải láng, áo bà ba trắng, quần dài đen ống rộng – người đàn bà như vậy mà sao lại … Liên nghĩ thầm” [43,103]. Độc thoại nội tâm của nhân vật được thể hiện bằng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lí tình cảm một cách xác thực, tự nhiên. Nguyễn Sáng khám phá được chiều sâu tâm hồn con người ở chính vẻ đẹp của tình yêu đất nước. Trong miêu tả nội tâm nhân vật, nhà văn còn chú ý ở biện pháp dùng lời nửa trực tiếp – lời người kể chuyện mang ý thức của nhân vật. Bằng thủ pháp.
<span class='text_page_counter'>(90)</span> này, nhà văn vừa thể hiện nội tâm nhân vật, vừa thể hiện sự đồng cảm của tác giả đối với nhân vật. Tác giả miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật ba Hoành (Quán rượu người câm) qua tâm trạng của anh khi nghe kể về tội ác của giặc: “ông lắng nghe chuyện, mặt hơi nhếch lên ngơ ngác như một người điếc. Những người khách vừa nói vừa uống, vừa chửi vừa nắm quả đấm muốn đập nát cái vạt tre để đồ nhắm, hoặc thở dài, hoặc đang nói thì bị nghẹn. Còn ông chủ quán câm ông nghe mà như điếc, chẳng ai thấy ông bị xúc động, mặt cứ trơ. Hay là tạo hóa thương ông cho ông điếc luôn? Chẳng biết nữa. Lâu lâu ông cúi xuống, rút giấy ra ghi. Ông ghi tiền rượu cho khách hay ghi những chuyện đáng cười đáng giận đó. Chẳng ai hiểu nỗi, mà hiểu làm gì mới được chớ! Từ câm đến ngớ ngẩn có khó gì. Lúc ông ta cúi cái đầu bùm xùm xuống quầy, hai tay khuỳnh ra mặt nghiêng nghiêng, tay ghi ghi, miệng há hốc, dáng điệu của ông ta đúng là dáng điệu của một thằng ngớ ngẩn, lúc ghi lúc viết miệng ông ta như không ngậm lại được” [43,90]. Với thủ pháp này, nhà văn đã miêu tả được tâm trạng đau xót, căm thù đến như trở thành dị dạng của nhân vật Ba Hoành nhằm tô đậm tính cách kiên trì của nhân vật. Để khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật ông Năm Hạng trong truyện ngắn cùng tên, Nguyễn Sáng vận dụng lời văn gián tiếp nhưng ý thức vẫn của nhân vật. Tác giả đã diễn tả tâm trạng đau khổ, cô đơn, chán nản của ông trước cái chết của đứa con: “Mấy năm trời nay không có nó ông đã chết mòn vì cô độc. Bà vợ ông mất khi nó mới mười lăm, mười sáu. Cuộc đời của ông có gì đâu? Một miếng đất cấm dùi cũng không có. Ông chỉ có nó nhà thì nghèo, ông thì già nên nó mới bỏ làng ra chợ đi kiếm lấy cái ghe buôn bán. Năm ba hôm nó mới về thăm ông một lần. Có hôm nó về với ông hẩm hiu với ông hàng tháng. Bây giờ nhà của ông đây khi ông đi, không có ai để dặn dò, khi ông về cũng không có ai.
<span class='text_page_counter'>(91)</span> chờ, ai hỏi, ai thưa” [43, 200-201]. Trước cuộc đối thoại với tên Lý, tâm trạng ông Năm Hạng diễn ra vừa lạnh lùng, vừa hoài nghi: “Khẽ lắc đầu và lẩm bẩm. Lầm!Hừ!...”. Sau đó là hoài nghi “ông đã bất chợt được một cái gì khó hiểu lạ lùng” đến xúc động “ngã xuống vai tôi thổn thức”. Những đau khổ, hoài nghi, vằn vặt, hi vọng diễn ra trong tâm hồn ông Năm Hạng đã thể hiện sự biến chuyển vươn lên của con người dưới ánh sáng cách mạng. Hay tâm trạng vừa bồn chồn, lo lắng vừa day dứt của người cha khi đặt tay kí vào tờ giấy cam kết cho đứa con trai mười lăm tuổi theo Vệ Quốc đoàn (Người đi xa) cũng được tác giác thể hiện qua lời nữa trực tiếp: “Nếu tờ giấy cam kết chỉ viết là bằng lòng cho con then vệ Quốc đoàn thôi rồi chấm hết thì ông kí rồi. Đằng này trong tờ giấy cam kết lại có mấy câu dựng lên trước mắt ông cảnh thằng nhỏ con ông mười lăm tuổi ngã gục xuống chiến trường và theo trí tưởng tượng của ông ngực con ông đẫm máu, bàn tay học trò bé nhỏ của nó đưa lên bụm lấy vết thương … Vợ ông mất sớm, nó là đứa con trai út của ông. Lòng sông xốn xang, hai con mắt cay cay” [43, 107]. Nhìn chung, Nguyễn Sáng vận dụng lời nửa trực tiếp vừa miêu tả được tâm trạng nhân vật, vừa thể hiện rõ cách nhìn, ý thức của tác giả trước sự kiện và con người. Nhân vật của Nguyễn Sáng tuy có trăn trở, băn khoăn, suy tính nhưng có chung đặc điểm tính cách, phẩm chất của người lao động: yêu chính nghĩa, ghét gian tà, sẵn sàng hi sinh vì lợi ích chung của dân tộc. Mỗi nhà văn đều có cách thức riêng trong miêu tả nhân vật. Nếu như ngòi bút Nguyễn Thi có khả năng thâm nhập rất sâu vào đời sống nội tâm nhân vật và diễn tả chính xác quá trình tâm lí của con người thì Nguyễn Sáng đã thể hiện được khả năng nhạy bén của mình trong sự kết nối giữa miêu tả ngoại hình và miêu tả nội tâm nhân vật. Sự kết hợp hai biện pháp xây dựng nhân vật trên đã.
<span class='text_page_counter'>(92)</span> làm cho nhân vật luôn xuất hiện trong những chân dung với ngoại hình đầy đặn và thê giới nội tâm phong phú, đa dạng. Đọc Mùa gió chướng, nhà thơ Hoàng Trung Thông nhận xét: “Chúng ta thấy Nguyễn Quang Sáng kể chuyện, dẫn chuyện giỏi hơn dựng chuyện, thể hiện nhân vật trong hành động giỏi hơn đi sâu vào nội tâm, miêu tả sinh hoạt hay hơn miêu tả chiến đấu. Một đặc điểm nữa là Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng ngôn ngữ địa phương vào trong tác phẩm của mình một cách nhuần nhuyễn. Tiếng địa phương dùng trong cuốn tiểu thuyết này không phải là ít đâu nhưng mà chúng được dùng đắc địa. Chúng ta đọc đến những tiếng địa phương này có thể hiểu được và không thấy chỏi vì trong câu dùng tiếng địa phương mỗi nhân vật lại có cách nói riêng của mình một cách nhuần nhuyễn”. Đọc một truyện ngắn gần đây nhất của Nguyễn Quang Sáng – Vểnh râu nhà văn Tô Hoài nhận xét: “Lần này đọc của Sáng, tôi thấy đã thuần lắm của cốt cách văn phong một trung tâm - miền Nam là một trung tâm, mà trong văn không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Người ta đã nói và nhắc lại nhiều lần trên sách báo: Văn là người. Trường hợp này rơi đúng vào đời-văn - đời-người của Nguyễn Quang Sáng. Mặc dù phải xa đến mấy mươi năm dòng sông Cửu Long mạnh khỏe đỏ rực phù sa, nhưng trong văn chương anh vẫn là văn chương của kẻ tha thẩn trên những dòng sông Nam Bộ. Nếu tôi không nhầm lẫn quá thì hình như địa lý của mỗi miền thường ảnh hưởng thâm chí quy định độ bền, chiều sâu, độ dài của tác phẩm mỗi con người viết Văn học miền Nam, theo tôi ít người viết truyện ngắn. Chín con rồng đầy đủ phù sa như thế làm sao mà thu gọn súc tích trong vài trang giấy cho được. Nguyễn Quang Sáng là kẻ muốn đánh lạc mình ra ngoài địa lý và ở ngoài không gian quy định để làm người kể chuyện mộc mạc và tinh tế những.
<span class='text_page_counter'>(93)</span> chuyện mình và chuyện đời như một quà tặng gọn ghẽ muốn chuyển đến cho mọi người một cách thầm lặng”. Đúng như vậy. Những truyện viết từ 1980 trở đi, Nguyễn Quang Sáng đã nới lỏng bố cục ra một chút cho câu chuyện được tự nhiên hơn, và cố gắng gắn ý nghĩa triết lý vào trong mỗi truyện. Những truyện như: Thế võ, Tôi thích làm vua, Nhi đồng cụ, Nhân vật ấy không được chết, Cây gậy ba số, Thua trận, Con khướu sổ lồng, Con mèo của Foujita, Dân chơi… mỗi truyện đều chứa đựng một bài học đạo lý về lẽ sống ở đời, khiến người đọc thấm thía dư vị của nó và gợi lên những suy nghĩ sâu xa. 3.2.2. Đặc điểm lời văn trần thuật 3.2.2.1.Sử dụng lời nửa trực tiếp Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “lời nửa trực tiếp là biện pháp diễn đạt lời văn khi lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả ( về mặt chấm câu, ngữ pháp) nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật” [13,129]. Phương thức tu từ này được sử dụng khá phổ biến trong văn xuôi nghệ thuật, tác dụng của nó là “ gây ấn tượng về sự “ hiện diện” của ý thức nhân vật cho người đọc và cho phép người đọc thâm nhập vào các ý nghĩ thầm kín của nhân vật”. Như vậy, về cơ bản đây là lời của nhân vật ( dù cho nhà văn sáng tạo ra) và qua lời nói này giúp người đọc thấy và hiểu được suy nghĩ tâm trạng nhân vật. Văn Nguyễn Quang Sáng thường có xu hướng xóa nhòa khoảng cách trong lời trần thuật, khoảng cách giữa người trần thuật và đối tượng trần thuật là rất mong manh. Hiện tượng mập mờ khoảng cách là hệ quả của các nguyên tắc tổ chức lời văn. Trong đó sử dụng lời nửa trực tiếp là một trong những cách hữu hiệu để nhà văn vừa xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật, vừa tạo điều kiện cho độc giả gần gũi, đồng cảm với nhân vật. Biện pháp này chỉ xuất hiện ở điểm nhìn trần thuật không tham dự, khi người kẻ chuyện là “kẻ thứ ba” đứng ngoài cuộc.
<span class='text_page_counter'>(94)</span> chứng kiến diễn biến câu chuyện về cuộc đời nhân vật. Để nhập cuộc, tác giả phải cần đến lời nửa trực tiếp. Trong một số truyện ngắn, Nguyễn Quang Sáng đã thành công với thủ pháp nghệ thuật này. Thuật lại cuộc đời đầy bất hạnh của Bào, nhà văn đã làm cho người đọc có thiện cảm, hiểu và cảm thương Bào là nhờ hiểu và thâm nhập vào ý nghĩ của Bào. Bào phải ở đợ cho nhà thằng Quyên để trừ khoản nợ mà gia đình Bào đã vay, bị mắng nhiếc, hành hạ không thương tiếc. “Cũng con chim này, đối với Bào thì khác hẳn. Bào rất căm ghét con chim vàng. Có lúc nghĩ thấy con chim bị bắn nát đầu, rơi xuống, vài sợi lông vàng bay theo, Bào hả dạ lắm ! Thằng Quyên mười tuổi là con nhà chủ. Cha nó là hương quản trong làng. Bào mười hai tuổi là đứa ở chăn trâu cho nhà này. Đêm ngủ, Bào trằn trọc tìm mưu bắt cho con "bà chủ". Bắt không được chim, không được ăn cơm. Hai năm trước, mẹ Bào mắc nợ nhà này hai thúng thóc, nó đòi ngặt, Bào phải đến ở đợ. Nhưng nợ đó không bằng nợ con chim vàng. Gặp Bào nó đòi, Bào chịu đòn để thế. Bào sợ quá, bữa nào cũng rình cũng bắt. Nhưng bắt làm sao được, nó có cánh, vừa leo lên là nó vụt mất, có khi còn ỉa xuống mặt Bào. Hết phương cách rồi ! Chiều đó Bào về, thằng Quyên đòi chim, Bào hai tay bưng chiếc nón lá rách đựng đầy đồ chơi...”. Còn trong Quán rượu người câm là câu chuyện anh Ba Hoành bị địch bắt năm 1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà ở với vợ, dọn một hàng rượu. Ở quán rượu “người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của kẻ thù, về sức câm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi, nhân dân chờ đợi người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang. Nhưng không ngờ người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tôi không nói, không phải tôi câm, mà tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa !”.
<span class='text_page_counter'>(95)</span> Bốn năm im lặng trong tư thế một người câm ! Một tiếng nói cất lên đúng vào hôm đồng khởi cùng với tiếng hò reo, tiếng súng nổ dậy trời của nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù ! Cái thế giới mà người đọc được Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ ! 3.2.2.2.Câu văn trần thuật Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thấy tác giả thường sử dụng kiểu câu ngắn để liệt kê dưới dạng kể hay tả hành động, sự việc hay sự vật. Với cách viết này, lời tuy ít nhưng nội dung phong phú, câu văn rắn rỏi, diễn đạt gọn, rõ nghĩa. Nhưng nếu một tác phẩm tự sự chỉ dùng toàn kiểu câu ngắn thì không thể diễn đạt hết ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy, Nguyễn Quang Sáng sử dụng khá nhiều câu văn dài. Ở kiểu câu này cho phép nhà văn thỏa lòng tuôn trào dòng chảy cảm xúc, ý nọ kế tiếp ý kia... 3.2.2.2.1. Sử dụng câu văn ngắn Kiểu câu văn ngắn thường được tác giả dùng trong trường hợp kể vắn tắt sự kiện, nội dung, miêu tả hành động, lời nói của nhân vật. Chính qua những kiểu câu ngắn đó giúp người đọc nhận diện ra được bản chất từng nhân vật trong truyện. Nhà văn sử dụng câu văn ngắn, ít từ mà nhiều nội dung thông báo như trong Con mèo của Foujita: “ Một hôm, người bạn họa sĩ nổi tiếng ở đất Sài Gòn vốn cũng quen với tôi, đến tìm tôi: - Nghe nói anh quen với anh Nam? - Bạn học từ nhỏ. - Vậy là may cho tôi. - Sao? - Tôi nghe nói ông Nam có mấy bức tranh của Foujita?.
<span class='text_page_counter'>(96)</span> - Có, tôi có xem. - Vậy là đúng rồi. Tôi muốn nhờ anh giới thiệu tôi với ông Nam. - Để xem tranh?” [43, 28]. Hay như trong Con khướu sổ lồng: “- Ba ơi! Chim bay rồi. - Cái gì? - Chim bay rồi! - Chim nào bay? - Con Khướu nhà mình đó, nó sổ lồng, nó bay mất rồi. - Thiệt sao? - Thiệt! “ Tương tự như thế, trong Cái gáo mù u “- Cậu ăn cái gì mà đỏ đỏ vậy? - Cháo đậu đỏ. - Có gì lạ đâu mà hai con mắt anh sáng lên. - Nhà cậu nấu à? - Không! ở chợ Cây Xoài. Khi cần liệt kê những hành động, suy nghĩ thì kiểu câu văn ngắn rất thích hợp. Điển hình như trong Chiếc lược ngà “ -Ba con, sao con không nhận? -Không phải - đang nằm mà nó cũng giẫy lên. -Sao con biết là không phải? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì? -Ba không giống, cái hình ba chụp với má, -Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi..
<span class='text_page_counter'>(97)</span> -Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy . . .. -Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về. Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ: -Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược. Con bé lại ôm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo: -Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba! - Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống”. 3.2.2.2.2. Sử dụng kiểu câu văn dài Bên cạnh kiểu câu ngắn để diễn đạt rõ nghĩa hơn và liệt kê những hành động, suy nghĩ, sự vật, sự việc...nhà văn còn dùng khá nhiều kiểu câu văn dài để kể hoặc tả. Tập trung nhất trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng là ở truyện ngắn Chị Nhung: “Chờ khi trời sẩm tối, xuồng của chúng tôi mới tách bến và rặng lá hai bên bờ sông vàm Cỏ Đông như cũng chờ đến lúc trời tắt nắng mới rì rào chuyển động, khiến cho ta có cảm tưởng như gió chiều không phải từ xa thổi tới mà dậy lên từ trong những ngọn lá lao xao.Tiếng bom pháo, tiếng gầm rú của máy bay, tiếng cánh quạt rầm rộ và nặng nề của các loại trực thăng trong suốt một ngày nắng gắt như phải tắt lặng đi, khi trên nền trời vừa bật lên những vì sao đầu tiên. . . Người muốn gặp ban chỉ huy là cô gái cỡi xe Honda lúc nãy. Cô khoảng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, ăn mặc theo thời trang của người Sài Gòn, quần ống hẹp, áo bà ba màu hột gà bó sát lấy thân, người thon thả với dáng nhanh nhẹn, tôi không nhìn rõ được mặt cô. Tóc uốn cao, nhưng mái tóc lại rủ xuống che mất cả vầng trán và cô lại mang kính mắt đen. Tôi đoán là cô cố ý diện như vậy để người khác không nhận ra mình. Cô khẽ cúi đầu chào tôi với vẻ lịch sự và kính cẩn, rồi đặt chiếc giỏ mây bên bàn cạnh chiếc bản đồ quân sự, lấy ra chiếc bánh mì, bẻ làm đôi, đưa cho tôi một tờ giấy nhỏ. Đó là thư của ban chỉ.
<span class='text_page_counter'>(98)</span> huy trung đoàn lệnh cho các cánh quân của chúng tôi phải chuyển đến vị trí X, vào giờ G để hợp đồng chiến đấu với đơn vị bạn và cô là người dẫn đường” . Chị Nhung, Đạo tưởng,Dân chơi...Đọc những tiểu thuyết này, người đọc thấy phục tài năng của Nguyễn Quang Sáng trong việc sử dụng kiểu câu dài với ý thức nghệ thuật rõ ràng nhất. Khi nhà văn bắt gặp nguồn cảm hứng hay mạch cảm xúc thì giọng văn ông tuôn trào như một dòng chảy, ý nọ nối tiếp ý kia trên trang giấy. Chẳng hạn như trong Dân chơi : “Nói vậy rồi anh rời khỏi võng, trong tay một cái túi may bằng áo mưa màu xanh đã cũ nát, bước ra đám cỏ dưới cơn mưa lất phất, rồi anh giả dọng nhái, anh giả giọng thế nào mà nhái từ đâu trong đám cỏ, như thót bụng dọt qua ngọn cỏ tới anh, anh đưa tay chớp gọn, nhốt vào bọc ni lông, rồi lại giả giọng và nhái lại bươn bả nhảy lại dưới chân anh” .Trong truyện ngắn Đạo tưởng: “Chẳng bao lâu, vào một đêm mưa gió, những đêm mà sông Tiền như con rồng chuyển mình, dậy sóng hàn đập ì ầm, sau những ngày bần thần rã rượi, biếng nói biếng cười, cặp mắt như lờ đờ, khi đỏ ngầu, thân xác ông như bị một vị khuất mặt nào đó hành hạ ông, ông la, ông hét, ông đấm ngực, ông đụng đầu vào cột nhà, rồi ông "phát huệ", ông lại xưng là "ta là tướng núi"và đủ thứ danh tánh. ”. [43, 109]. Bình quân mỗi câu trên 70 âm tiết. Những kiểu câu có từ 50 âm tiết trở lên dạng bắc cầu nối tiếp ý cũng được sử dụng khá thành công trong khi kể: “Tôi bắt chước anh, cũng đốt một điếu thuốc, cũng hút trong tiếng lạch bạch của trực thăng, nhưng mỗi người hút mỗi cách khác nhau, điếu thuốc trên miệng anh cháy đều, khói cũng nhẹ nhàng, còn điếu thuốc trên miệng tôi thì ngùn ngụt, khói thuốc từ cửa miệng tôi cũng ngùn ngụt như ống khói. . . Nè, gần mười năm hoạt động trong nội thành, mình nghiệm thấy trong một khía cạnh nào đó của tâm lý, thằng Mỹ, thằng nguỵ mắc một sai lầm lớn, khi nghĩ đến Việt cộng chúng nó thường nghĩ đến những thằng nghèo, thằng dốt, nó ít nghĩ đến người có học, người giàu, dân chơi thì hầu như nó không bao giờ nghĩ tới . . .Anh Tư nhà văn, anh chỉ hơn 40 mà sao ai.
<span class='text_page_counter'>(99)</span> cũng gọi anh Tư già? ở chung nhà với anh một tuần, tôi đoán chừng, một là trong cơ quan văn nghệ R ai cũng trẻ, hai là anh lúc nào cũng thong thả, thong thả đến chậm chạp, nghe có tiếng máy bay, ai cũng ào một cái là xuống hầm, còn anh, anh cứ đi từng bước chậm chạp, thứ ba là trong các buổi nhậu anh em trẻ, ai cũng "dô"trăm phần trăm, còn anh, anh từ từ nâng ly lên, nói chậm rãi: A " nh Tư già rồi, tha cho anh Tư, để cho thằng già lai rai”. [43, 31]. Còn trong Người đàn bà đức hạnh “Vị công tử biết tôi tuồng nào cũng diễn cặp với Năm Thanh, khi Năm Thanh trong vai Lữ Bố, tôi là Đổng Trác, khi đào Năm Thanh là hoàng tử cầm quân ra biên ải thì tôi là tướng giặc, khi Năm Thanh là cô gái quê thì tôi là chàng sở khanh, khi Năm Thanh trong vai người đàn bà đài các thì tôi là đức lang quân, và biết tôi là bậc đàn anh của Năm Thanh, đêm nào vị công tử cũng nài nỉ mời tôi và Năm Thanh đi nhà hàng sau đêm biểu diễn. . . Đêm đầu hát ở Bạc Liêu, sau khi hạ màn, giãn hát, thì có một thanh niên ăn mặc sang trọng quần tây trắng, áo sơ mi lụa lèo màu hột gà, người tầm thước, nước da trắng hồng, mái tóc hớt xanh, tay cầm một bó hoa hồng rực rỡ lên sân khấu xin được tặng cho cô đào Năm Thanh”. Tóm lại, với kiểu câu văn dài nhà văn chỉ sử dụng tập trung trong một số truyện ngắn để miêu tả tận chiều sâu diễn biến tâm trạng nhân vật. Những truyện ngắn còn lại chỉ được sử dụng một cách rãi rác, khi cần thiết phục vụ cho dụng ý nghệ thuật Nguyễn Quang Sáng mới dùng đến, chính điều đó đã làm nên tài năng trần thuật Nguyễn Quang Sáng. 3.2.3. Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ Không phải kiểu Nam Bộ quê rặt, địa phương tính, văn chương của Nguyễn Quang Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái khoáng đạt, giản đơn của con người miền sông nước. Và quan trọng hơn hết là, ông thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam Bộ..
<span class='text_page_counter'>(100)</span> “Bao giờ cũng vậy, hễ một chuyện nguy hiểm qua rồi thì chuyện đó trở thành chuyện vui. Đó cũng là trường hợp của anh Bảy Ngàn. Trong một ngày, anh suýt chết đến mấy lần, thoát chết rồi, bây giờ anh coi đó như một trò đùa. Âu cũng là cái tính lạc quan của người miền Nam vậy ! Nhiều người nấp trong chỗ kín nhìn thấy rõ cái cảnh gian nan của anh từ đầu đến cuối, nhưng vẫn cứ muốn nghe anh kể lại. Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông. Trời trăng sáng. Đúng là cảnh trăng nước của Tháp Mười. Năm, bảy chiếc xuồng kề lại gần một tàm cây. Họ đang nhậu và nói chuyện. Hình như có cả nữ nữa. - Ở cái chiến trường Tháp Mười này mà không nhanh trí, không táo bạo thì làm sao mà sống được ? Anh Bảy đang nói đấy, giọng oang oang. Một anh bạn nhà báo của tôi liền rạp mình, thọc sâu mái dầm bơi nhanh lại. Xuồng đang trớn, mũi va vào lái xuồng khác đánh cốp một tiếng, xuồng này thúc xuồng kia, chòng chành, có người chới với và nhiều tiếng hỏi. Đang lúc vui, chẳng ai muốn nổi giận. . . - Anh Bảy, kể lại từ đầu đi! Anh Bảy, người kể chuyện, đang ngồi giữa chiếc xuồng cui lớn. Cạnh bên anh là một rổ ốc bươu, một chai rượu đã cạn, và một cái cốc, một bình tích nước trà. Anh khoảng ba mươi hai tuổi, người hơi thấp, vai ngang, da nâu, bắp thịt nổi cuồn cuộn. Anh ở trần, lồng ngực phồng lên như cái ức chim. Mặt anh vuông, tóc rễ tre, cắt ngắn và dựng đứng.” [43,334] Từ ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, mang màu sắc Nam bộ rõ nét: - Nhà chúng tôi ở cạnh nhau, gần vàm kinh (vùng của kênh, rạch đổ ra sông) nhỏ đổ ra sông Cửu Long..
<span class='text_page_counter'>(101)</span> - Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông (áo vải hoa) đỏ đang chơi nhà chòi (trò chơi cất lều con của trẻ em) dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhúng chân nhảy thót lên… - Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết thẹo (vết sẹo) dài bên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trong rất dễ sợ… - Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng (nói trống không với người khác, không dùng đại từ xưng hô): Vô ăn cơm. - Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui (lúi húi) dưới bếp. - Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá (cái mui) múc ra từng vá nước… - Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói (dây xích sắt hoặc dây chão lớn dùng để buộc tàu, thuyền) cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông - Biết chớ. Người ở ngoải (ngoài) về, cái gì cũng chiếc, chiếc. - Con bị đụng ( tông) xe. - Mạnh ( khỏe) rồi, nhưng hai chân còn yếu, không gánh nổi, bận( lượt) đi con đi xe xích lô, bận ( lượt) về nhẹ con gánh. - Bịch ( bao ni-lông) cháo năm trăm lần này tôi thấy ít hơm một muỗng. - Bỗng một hôm có một chiếc xe hơi ( xe ô tô) đậu lại trước nhà. - Nó quơ ( múa) cây rượt theo Bào, liệng ( ném) vun vút. - Lúc đó lu bu ( bận rộn) quá, tao phải đón gia đình. - Xe đò ( xe vận chuyển hành khách)..
<span class='text_page_counter'>(102)</span> - Lịch sử sang trang, những thằng như tao bị phá sản, còn giới mua vàng giữ làm của thì bây giờ lại sống phây phây ( béo tốt). 3.2.3.1. Tiếng nói hàng ngày của con người Nam Bộ được Nguyễn Quang Sáng sử dụng nhuần nhuyễn Ngôn ngữ Nam Bộ dày đặc trong truyện ngắn là một trong những đặc điểm của văn chương Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Quang Sáng đã làm giàu thêm vốn từ vựng văn chương bằng cách mạnh dạn đưa rất nhiều từ trong lới nói của nhân dân Nam Bộ vào trang văn của mình. Có những từ rất lạ với người đọc ở những miền khác trên đất nước. Nhưng những từ này được đặt trong văn mạch quen, nhờ thế người đọc vẫn có thể hiểu được. Những từ đó cũng tạo nên âm sắc riêng của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng . Chẳng hạn như “Chớp nhay nháy như đom đóm trên cây bần”, “Tròn như hột mít” (Linh Đa), “Đỏ ngầu như mắt cá chày”, “Giương hai con mắt ếch” (Ông Năm Hạng)…Việc sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo ngôn ngữ một mặt làm tăng sự linh hoạt và hình ảnh cho lời văn, mặt khác góp phần thể hiện một chiều sâu văn hóa đặc thù trong tâm lí, tính cách nhân vật - tính cách con người Nam Bộ trong đấu tranh và trong đời thường.“Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp.. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua - nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên: - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! - Nó cũng lại nói trỏng: Tôi lên tiếng mở đường cho nó: - Cháu phải gọi: “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy. Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên:.
<span class='text_page_counter'>(103)</span> - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ! . . .” [43,163] Đưa ngôn ngữ nói của nhân dân vào văn chương là một trong những cách tạo nên tính nhân dân cho tác phẩm, đó cũng là xu hướng chung của văn chương Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu đến Nguyễn Quang Sáng. Sự khác nhau của mỗi nhà văn là ở tài năng làm cho ngôn ngữ nói địa phương ấy trở thành ngôn ngữ nghệ thuật chung. Đọc truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, chúng ta thấy ông có lối kể chuyện rất bình dân, kết hợp với ngôn ngữ rất đời thường, mang phong cách Nam Bộ. “Anh Tám Sơn kể đến đây thì phải dừng lại vì một. đoàn xuồng máy đuôi tôm đang chạy ngược qua xuồng chúng tôi. Anh Tám Sơn dù có say chuyện, nếu anh có muốn kể tiếp, tôi cũng không thể nào nghe. Tiếng máy đuôi tôm nổ vang, chiếc này nối theo chiếc kia quẫy lên từng đợt sóng lớn. Đó là đoàn xuồng dân công chở lương thực và đạn dược cho các chiến trường. Những người chèo thuyền chở khẳm vừa la ó vừa bấm đèn pin làm hiệu cho những chiếc xuồng đuôi tôm nhỏ máy lại. Đoàn xuồng đuôi tôm vừa dứt, tiếng máy nổ mỗi lúc mỗi xa, tiếng la ó của người đi trên sông im đi, những đợt sóng đuối sức lặng an dần, dòng sông vừa trở lại yên tĩnh, …” “Tôi đạp tung cửa, vọt ra, tay cầm súng ngắn bắn vào những tầng nhà. có bọn lính. Mũi quân của tôi hơn ba mươi tay súng liền vọt qua bãi gạch đổ, hét dậy lên. Như đang sống lại cảnh ấy, anh Tám Sơn vừa kể vừa ra bộ móc súng, người chồm dậy. Còn tôi thì dang tay đập mạnh vào mái chèo, mũi xuồng cất lên, lướt tới như con thoi. Anh Tám Sơn bỗng kêu to: - Quá rồi, quay lại !.
<span class='text_page_counter'>(104)</span> Tôi vừa rà một mái chèo cho mũi xuồng quay lại vừa hỏi: - Còn chị Nhung thì sao anh? - Hãy khoan ! Để cho tôi tìm cái bến vô đã. Anh nắm be xuồng, ngồi hơn nghiêng một bên, nhìn vào rặng lá. - Quẹo vô ! Tới rồi ! Tôi cho xuồng rẽ vào một bến nhỏ, mũi xuồng vừa cỡi lên bãi đất lài, anh bước lên bờ, bảo tôi : - Ơở đây chờ tôi nhé ! Tôi sẽ gọi cháu xuống. Cô ấy kể cho anh nghe rõ hơn.Tôi vẫn đứng trên lái xuồng, nhìn theo ánh đèn pin sáng xanh của anh xa dần vào những ngôi nhà trong khu vườn. Thấy ánh đèn pin xanh quay trở lại, tôi bỗng hồi hộp khi nghĩ đến lúc gặp mặt chị Nhung. . .”.[43,209 ] 3.2.3.2. Sự phong phú các từ ngữ biểu thị đồng bằng sông nước. Văn hóa Nam Bộ mang nét đặc trưng của văn hóa vùng sông nước. Cho nên, đặc trưng về từ vựng của tiếng Việt Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây chính là sự phong phú về các từ ngữ chỉ các loại hình và hoạt động sông nước: sông, lạch, kinh, rạch, xẻo, mương, rãnh, ao, hồ, đìa, bàu, láng, bưng, biền, vũng, xáng, vàm, cù lao, cồn, bãi, . . .; nước lên, nước lớn, nước đứng, nước giựt, nước ròng, nước ngược, . . . “Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn khoăn và ngậm ngùi. Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ, tôi bị xúc động như lần ấy. Trong những ngày hoà bình vừa lập lại, tôi cùng về thăm quê với một người bạn. Nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. . .” [43,158].
<span class='text_page_counter'>(105)</span> “Ba năm sau. Trong ba năm ấy, tôi xê dịch ba nơi: ở chiến trường Đồng Tháp một mùa nước thì trở về R. Từ R theo một cách quân tiến về Sài Gòn năm Mậu Thân, rồi từ chiến trường Sài Gòn lại trở về R. còn anh Tư già thì ở Bến Tre, nhưng không ngồi yên một chỗ, khi ở cù lao này lúc ở cù lao khác, mỗi lần thay đổi cù lao là phải vượt sông trong tầm súng của tàu tuần, dưới tầm bay của trực thăng. Cả hai đều suýt chết nhiều lần nhưng không chết mà gặp nhau trên một cái hồ giữa rừng biên giới. Một cái hồ mênh mông có một dòng sông nhỏ nối liền sông Cửu Long, nhờ đó mà cá từ Biển Hồ xuôi theo sông Cửu Long, rẽ vào nhánh sông nhỏ, vào hồ trú ngụ sanh đẻ. Độ mươi cái nhà bè sống trên hồ, sống bằng nghề đánh cá . . .” [43,365]. Tiếng Việt Nam Bộ, một bộ phận của tiếng Việt thống nhất, đã có 4 thế kỷ hình thành, phát triển. Các yếu tố làm hình thành tiếng Việt Nam Bộ cũng là những yếu tố làm hình thành tập hợp cư dân ở nơi đây: di dân người Việt từ vùng Ngũ Quảng và Nam Trung Bộ, người Chăm, người Khmer, người Hoa. Người Pháp, người Mỹ, mặc dù đã rút đi sau khi kết thúc chiến tranh, nhưng cũng đã để lại nơi đây những dấu ấn sâu đậm về ngôn ngữ và văn hóa. Các nhóm cư dân ấy đã cung cấp cho nhau vốn liếng ngôn ngữ sẵn có của mình, đồng thời cùng nhau sáng tạo, phát triển vốn liếng ngôn ngữ sẵn có để nó có thể phản ánh không gian văn hóa mới và các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội gắn liền với không gian văn hóa mới. Chính vì vậy, tiếng Việt Nam Bộ ngày nay có những đặc trưng về ngữ âm và từ vựng rất khác biệt với phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung, hai phương ngữ chính đầu tiên hình thành trong tiếng Việt. Hiện nay, sự khác biệt đó vẫn đang tiếp tục gia tăng. Đó là vì ở nước ta, từ trước đến nay, các luồng di dân chỉ diễn ra một chiều từ Bắc vào Nam. Và từ thời kỳ đổi mới, hàng vạn người phương Tây, người phương Đông đã quay trở lại Việt Nam mà nơi thu hút nhiều nhất chính là Nam Bộ. Do đó,.
<span class='text_page_counter'>(106)</span> khác với tiếng Việt, văn hóa Việt ở miền Bắc, miền Trung, tiếng Việt cũng như văn hóa Việt ở Nam Bộ có điều kiện để phát triển, biến đổi nhanh hơn. “ … Sau khi nhà tôi bị bọn nó giết chết, tôi bồng bế hai chị em nó lên cái đất Sài Gòn này, chen vào cái chỗ đông người để lánh mặt. Tôi sống bằng nghề bán bánh lọt. Buổi trưa hôm ấy, cũng trên con đường ngoài ngoại ô này, tôi đang múc bánh bán cho một bà khách hàng nghèo ở bên đường. Có một chiếc xe con cóc chạy qua, tự nhiên xe thắng lết bánh dừng lại sát bên đường. Năm đó, mỗi lần thấy cái loại xe ấy bỗng nhiên mà dừng lại gần mình, ngại lắm các đồng chí. Nghe tiếng giày đi lại gần, liếc mặt thấy anh tài xế, tôi kéo khăn che mặt. Người tài xế đứng bên thúng bánh, biểu: - Cho tôi hai tô. - Mấy thầy cũng ăn bánh lọt nữa à ! – Người khách hàng nghèo hỏi. - Thầy ba muốn ăn, tôi cũng húp bậy một tô cho trơn cái cần cổ, cho thêm một gáo nước dừa nữa chị, tính thêm bao nhiêu tôi trả. . . Liên đang giàn giụa nước mắt, nhưng không đáp. Liên hối hận vì đã có một ý định xốc nổi với người mẹ. Và chưa lúc nào, Liên lo sợ Mì như lúc này. Nếu nó chưa gặp lại mẹ, chưa kịp hiểu mà phải hy sinh thì… Nghe tiếng súng nổ, ruột gan cô cứ thắt lại. Cô cất gánh vội vã bước nhanh. Liên dáng thâm thấp, gánh hai cái thúng bánh sà xuống mặt đường, vừa đi vừa chạy, vừa tránh, vừa lách qua những chiếc xe đang ngược lại trên đường. Rồi sau đó, trận đánh kéo ngọn lửa mỗi lúc lan ra. Một bầy trực thăng như một bầy nòng nọc chúi đầu, bơi luồn trong khói. Dưới tầm đạn hỏa tiễn của trực thăng, nhiều ngôi nhà bị sụp đổ, khu phố bốc lên nhiều đám cháy lớn . . .” [43,66].
<span class='text_page_counter'>(107)</span> Có thể nói, Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ, rất am hiểu và gắn liền với mảnh đất ấy. Ông hầu như chỉ viết về người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hòa bình..
<span class='text_page_counter'>(108)</span> KẾT LUẬN 1. Với hơn 50 năm cầm bút lao động sáng tạo nghệ thuật miệt mài, Nguyễn Quang Sáng đã để lại cho nền văn học Việt Nam một “món quà tinh thần” to lớn. Vượt lên chết chóc, khắc nghiệt của chiến tranh để tìm được ý nghĩa tồn tại bằng sự cao quý của văn chương, Nguyễn Quang Sáng đã trở thành tấm gương sáng về nhân cách sống và nghị lực sống. Đóng góp lớn của Nguyễn Quang Sáng cho văn học Việt Nam là nhà văn đã ca ngợi những con người bình dị và anh hùng mang đậm tính sử thi cũng như cảm thông cho những phận người nhỏ nhoi cả trong và sau cuộc chiến. Nhà văn viết về những điều đó bằng tất cả sự ngưỡng mộ và cảm thông sâu sắc. Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của nhà văn cũng không nằm ngoài “quỹ đạo” của đặc điểm nghệ thuật đó. Cái tâm trong sáng, nhân cách cao đẹp hòa với niềm đam mê sáng tác là cội nguồn cho thành công trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Quang Sáng. 2. Điểm nhìn trần thuật qua các truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng rất linh hoạt. Nhà văn biết cách điều tiết và dịch chuyển điểm nhìn ở các địa điểm khác nhau. Mỗi vị trí đều có những thành công nhất định nhưng nổi bật nhất là phương thức trần thuật khách quan (điểm nhìn bên ngoài) xuất hiện trong nhiều tác phẩm Nguyễn Quang Sáng. Vị thế điểm nhìn này rất thuận lợi để nhà văn phản ánh những hiện thực của đời sống và đã tạo nên kiểu trần thuật Nguyễn Quang Sáng: kiểu tự sự giấu mình. Hiện tượng di chuyển điểm nhìn cuối cùng đều hướng vào bên trong (điểm nhìn chủ quan) để nhà văn có thể tham dự vào câu chuyện. Vì vậy mà lời trần thuật thấm đẫm cảm xúc và thế giới nội tâm nhân vật được khai thác sâu sắc. Nhịp điệu trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng luôn có sự thay đổi linh hoạt. Nổi bật là nhịp điệu nhanh dồn dập và nhịp điệu chậm rãi, khoan thai. Nhịp điệu kể nhanh là khi nhà văn ghi nhận hiện thực cuộc sống căng thẳng, đầy biến.
<span class='text_page_counter'>(109)</span> cố, các sự kiện liên tiếp xảy ra, thường là khách quan phản ánh cuộc sống (trong Quán rượu người câm, Chiếc lược ngà, Chị Nhung, Dân chơi). Tốc độ kể chậm là khi Nguyễn Quang Sáng khắc họa những bức tranh tâm trạng ngổn ngang của các nhân vật triền miên trong suy tưởng. Khi ấy, truyện ít biến cố, ít sự kiện, câu chuyện có sự đan xen phối cảnh, phối tình (trong Linh Đa, Tôi thích làm vua, Bàn thờ tổ của một cô đào, Người đàn bà đức hạnh). 3. Giọng điệu là sở trường năng khiếu và phong cách của mỗi nhà văn. Đặc biệt là nghệ thuật kể (trần thuật) nhằm làm mê hoặc người đọc và làm người đọc cùng đứng về phía người trần thuật là việc làm không đơn giản. Thành công của Nguyễn Quang Sáng là đã kéo độc giả về gần người sáng tác. Nhìn chung khi trần thuật, Nguyễn Quang Sáng sử dụng ba giọng điệu cơ bản là giọng điệu sử thi hào hùng; giọng triết lí; giọng xót thương cảm thông. Đáng chú ý ở các truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng là giọng điệu sử thi hào hùng; giọng xót thương cảm thông là âm hưởng chủ đạo lay động tâm can người đọc. Bên cạnh đó, âm hưởng xót thương cảm thông đối những những người dân, những người chịu áp bức của thế lực kim tiền của người từng nếm trải nhiều xuất hiện trong tác phẩm (Linh Đa, Bàn thờ tổ của một cô đào, Con chim vàng, Con khỉ mồ côi, Người bạn lính). Nhất là khi hướng ngòi bút về hai đối tượng là phụ nữ và người dân nghèo khổ, hai giọng điệu đó càng tăng nồng độ. Đó là tiếng nói của một tình yêu thương chân thành, của sự xúc động cực điểm của nhà văn trước hiện thực xã hội bất công và nhiều cảnh đời ngang trái. Truyện ngắn của ông sẽ còn được nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục khai thác để khẳng định tài năng của ông. 4. Nghệ thuật trần thuật là một hướng tìm hiểu mới được giới nghiên cứu văn học chú ý nhiều thời gian gần đây. Tìm hiểu phương thức, kỹ thuật trong cách kể của mỗi nhà văn là giúp cho người tiếp nhận, khám phá đặc trưng thẩm mĩ của văn học nghệ thuật. Bởi nghệ thuật là sáng tạo và là lĩnh vực không có sự lặp lại mang tính nguyên bản. Nguyễn Quang Sáng đã có những “bước” tiên.
<span class='text_page_counter'>(110)</span> phong và đồng hành cùng với bao nhà văn tên tuổi khác là nhờ sự phấn đấu đó. Nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Quang Sáng sẽ góp thêm cơ sở khẳng định chính xác, khách quan tài năng và phong cách của nhà văn. Dẫu biết rằng tên tuổi Nguyễn Quang Sáng đã được khẳng định từ lâu: nhà văn đậm chất Nam Bộ. Bây giờ chúng ta có điều kiện để hiểu rõ hơn về toàn bộ văn nghiệp của ông. Trong văn nghiệp đó, chắc chắn truyện ngắn là phần đóng góp quan trọng nhất, có giá trị nhất của Nguyễn Quang Sáng cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Và tuyển tập Văn học Việt Nam ở thế kỷ XX không thể thiếu Nguyễn Quang Sáng bên cạnh các cây bút của dòng văn học sử thi như Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi..
<span class='text_page_counter'>(111)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạ Duy Anh (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Dân (2003), Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 4. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lê Tiến Dũng (1991), Tìm hiểu tác phẩm văn học, Nxb Tổng hợp Sông Bé. 6. Đinh Trí Dũng (2004), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Đinh Trí Dũng ( 2007), “ Thế Lữ - người vẽ tranh bằng ngôn từ thi ca”, Tạp chí ngôn ngữ và đời sống (8). 8. Phan Cự Đệ chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Hà Minh Đức biên soạn (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 10. Hà Minh Đức (1998), Khảo sát văn chương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 11. Anh Đức (2000), 17 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. G. N. Pospelov ( 1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội..
<span class='text_page_counter'>(112)</span> 14. Lê Bá Hán (1994), Một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản, Đại học sư phạm Vinh xuất bản. 15. Nguyễn Thái Hòa (1997), Từ điển Tu từ - Phong cách- Thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Nguyễn Thanh Hùng (1994), Văn học và nhân cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 17. Phùng Ngọc Kiếm (2001), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 19451975, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 18.Trần Thị Thúy Kiều (2008), Phong cách truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, Luận văn thạc sĩ, Thư viện Đại học Vinh. 19. Trần Đăng Khoa (2001), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 20. Phan Đắc Lập (2000), Lời ngỏ - Nguyễn Quang Sáng tuyển tập, Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh. 21.Đinh Trọng Lạc ( 1995), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22.Tôn Phương Lan ( 2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 23. Phong Lê (1963), “Mấy nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn xuôi”, Tạp chí Văn học,(4)- tr 8. 24. Phong Lê, Vũ Tuấn Anh,Tất Thắng, Vân Thanh, Thanh Phương (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 25. Phong Lê (1994), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 26. Phương Lựu chủ biên (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 27. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội..
<span class='text_page_counter'>(113)</span> 28. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 29. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Ngô Thảo (1995), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 30. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (1998), Văn học Việt Nam 1945 – 1975 (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 32. M. Bakhtin ( 1992), Phạm Vĩnh Cư dịch, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao- Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 33. M. Bakhtin ( 1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 34. M.B. Khrapchenko ( 2002), Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 35. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 36. Chu Nga (1997), “ Anh Đức với bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn của anh”, Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 37. Nguyễn Nghiệp (1969). “ Đất nước và con người miền Nam trong Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, Tạp chí Văn học, số 7. 38. Phạm Thị Phương (1998), “ Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn”, Tạp chí Văn học, (4)- tr 94. 39. Nguyễn Mạnh Quỳnh ( 2007), “Tìm hiểu nhịp điệu kể chuyện trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng”, Nghiên cứu văn học (6)..
<span class='text_page_counter'>(114)</span> 40. Vũ Tiến Quỳnh biên soạn (1994), Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam, Nxb Văn nghệ Tp Hồ chí Minh. 41. Nguyễn Sáng (1974), “Ý nghĩ nhỏ về truyện ngắn miền Nam”, Tạp chí Văn học, (4) –tr 10. 42. Nguyễn Quang Sáng (1999), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 43. Nguyễn Quang Sáng (2001), Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng, Nxb văn nghệ Tp Hồ Chí Minh . 44. Nguyễn Quang Sáng (2001), “ Một truyện ngắn chưa viết”, Tạp chí Nhà văn, (9) – tr 5. 45. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 46. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 47. Trần Đình Sử ( 1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Văn học, Hà Nội. 48. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội. 49. Trần Đình Sử (2001), “ Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học Việt Nam thế kỷ XX”, tạp chí Văn học, (8) – tr 6. 50. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú ( 2001), Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 51.Trần Đình Sử (2004), Tự sự học , Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. 52. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 53.Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội..
<span class='text_page_counter'>(115)</span> 54.Trần Đình Sử ( 2008), La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam ( 2008), Lý luận văn học tập 2, Tác phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội. 55. Sylvan Barnet, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu ( 1992), Nhập môn văn học, Nxb Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 56. Trần Đăng Suyền chủ biên (2007) , Văn học Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. 57. Phạm Văn Sỹ (1975), Văn học giải phóng miền Nam(1954-1970),Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 58. Trần Hữu Tá (1991), Phê bình, bình luận văn học, Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh. 59. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học, (2) – tr 13. 60.Vân Thanh (1977), Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, Tác giả văn xuôi Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 61. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 62. Bùi Việt Thắng (2000), Bình luận truyện ngắn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 63. Bùi Việt Thắng (2000), “ Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí nhà văn, (1) – tr 170. 64. Bùi Việt Thắng (2000), Nguyễn Quang Sáng- Đường đời đường văn, Tạp chí văn nghệ quân đội, (4) – tr 23. 65. Nguyễn Thi (1996), Truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội..
<span class='text_page_counter'>(116)</span> 66. Hữu Thỉnh chủ biên (1997), Việt Nam nửa thế kỷ văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 68. Trần Nho Thìn, Đinh Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 69. Phan Hoàng (1990), “ Phỏng vấn Nguyễn Quang Sáng” ,Tạp chí văn học, (1). 70. Hoàng Trung Thông (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 71. Hoàng Trung Thông (2002), “ Chờ đợi những mùa gió chướng”, Tạp chí nhà văn, (1)..
<span class='text_page_counter'>(117)</span>