Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

CƠ sở lý LUẬN của QUẢN lí HOẠT ĐỘNG tự học ở TRƯỜNG đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.97 KB, 55 trang )

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC
1.1.Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, vấn đề tự học đã được nhiều nhà giáo dục quan tâm. Song, ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, ở mỗi quốc gia nhất định, vấn đề được nghiên cứu, đề
cập dưới nhiều góc độ khác nhau.
Ở nước ngồi
Ở phương Đơng, ngay từ thời Trung Hoa cổ đại, nhà giáo dục lỗi lạc - Khổng
Tử (551-479 TCN) đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của tự học . Ơng đã dạy
trị: “Khơng khao khát và khơng muốn biết thì khơng gợi cho, khơng cảm thấy xấu
hổ vì khơng rõ thì khơng bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà
khơng suy ra được ba góc kia thì khơng dạy nữa”. Ơng cũng nói: “Học mà khơng
suy nghĩ là mù tịt, khơng hiểu gì, nghĩ mà khơng học thì tốn cơng vơ ích” hay
“Học nhi bất tư tắc vong, tư nhi bất học tắc đãi” (học mà khơng tư duy thì uổng
phí, tư duy mà khơng học thì nguy hiểm). Khi dạy học, ơng ln đề cao sự tích
cực, độc lập suy nghĩ của người học và cách dạy của ông cũng hướng đến phát huy
khả năng học mọi lúc mọi nơi.
Ở phương Tây có Soctrate (469-390 TCN), Aristote (384-322 TCN) đã đề ra
phương pháp giảng dạy là dùng các câu hỏi để người học phát hiện vấn đề. Đây
cũng là phương pháp kích thích sự tư duy, suy nghĩ ở người học và là phương pháp
được nhiều nhà giáo dục áp dụng đến ngày nay.
S.A.Comenxki (1592-1670) - Ông tổ của nền giáo dục cận đại đã khẳng định:
“Khơng có khát vọng độc lập thì khơng thể trở thành tài năng, cần phải làm thức
tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh”. Từ đó, ơng có chủ trương “Người
dạy phải thiết kế, tạo hứng thú học tập để người học nỗ lực nắm bắt kiến thức”.
Như vậy, ông đã đánh giá rất cao vai trò của tự học, sự tích cưc, chủ động của
1


người học trong hoạt động học tập của mình và người dạy sẽ là người tổ chức cho


các em.
Hiện nay, vai trò của hoạt động tự học (HĐTH) càng được các nhà giáo dục
hiện đại khẳng định.
Tại Nhật, MaKigachi cho rằng: “Giáo dục là quá trình hướng dẫn tự học mà
động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc cho
bản thân và cho cộng đồng”.
Trong tác phẩm “Phương pháp dạy học ở đại học” của tác giả S.D.Sharman và
Shakti Ahmed đã viết: “Hoạt động tự học là một hình thức dạy - học có hiệu quả
cao…”.
Ở Việt Nam
HĐTH ở nước ta cũng đã được nhiều người quan tâm từ lâu.
Thời phong kiến, các bậc thầy như: Chu Văn An, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm…đã chú ý đến người học, đến đặc điểm của từng người học
để có những cách dạy phù hợp. Bên cạnh đó, các thầy ln động viên các trị phải
khơng ngừng học hỏi, học mọi lúc để trau dồi kiến thức.
Trong thời đại ngày nay, vấn đề tự học càng được quan tâm như là yếu tố
không thể thiếu được của dạy học hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương
sáng về ý chí quyết tâm trong tự học và tự rèn luyện. Người đã động viên toàn dân:
“Phải tự nguyện, tự giác xem công việc tự học là nhiệm vụ của người cách mạng,
phải cố gắng hồn thành cho được, do đó phải tích cực, chủ động hồn thành kế
hoạch học tập”. Người cũng chỉ rõ: “Phải lấy tự học làm cốt…” Những tư tưởng
giáo dục của người đã trở thành tư tưởng và lý luận cho đường lối chính sách giáo
dục của nước ta.
Vào năm 1969, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: “Biến quá trình
giáo dục thành quá trình tự giáo dục”, “biến quá trình dạy học thành quá trình tự
học”.
2


Nghị quyết hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII

đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao khả năng tự học, tự
nghiên cứu của người học”.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ phát huy tinh
thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh - sinh viên, đề cao năng lực tự học,
tự hoàn thiện học vấn và tay nghề , đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân..”
Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm gần đây đã có nhiều luận văn
quan tâm nghiên cứu về hoạt động tự học nhằm khai thác và vận dụng vào thực
tiễn những biện pháp tăng cường hoạt động tự học ở một số trường góp phần nâng
cao hiệu quả, chất lượng dạy học nói chung và q trình tự học nói riêng, tiêu biểu
như:
+ Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mạng Dương: “ Hình thành và phát triển năng
lưc tự học cho sinh viên ngành Toán hệ cao đẳng sư phạm”.
+ Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trương Thị Kim Hạnh: “ Một số hoạt động quản
lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Sư phạm nghệ thuật Trường Đại học Đồng
Tháp”.
+ Luận văn Thạc sĩ của tác giả Đặng Ngọc Thông: “Một số giải pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên hệ vừa học vừa làm tại Đại học Sài gòn”.
+ Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Thị Hồng : “ Hướng dẫn học sinh tự học
trong dạy học mơn chính trị ở Trường cao đẳng nghề cơng nghiệp Thanh Hóa.”
Như vậy, có thể thấy vấn đề tự học đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu
và các tác giả đều khẳng định được vị trí, vai trị HĐTH của SV, nêu lên thực trạng
HĐTH của SV, tìm ra được nguyên nhân từ đó đưa ra được một số biện pháp nhằm
phát huy những tích cực, khắc phục được những hạn chế ảnh hưởng đến HĐTH
của người học.
1.2.Một số khái niệm cơ bản của đề tài
3


1.2.1. Tự học và hoạt động tự học của sinh viên
1.2.1.1. Tự học

Theo Giáo sư - viện sĩ Nguyễn Cảnh Tồn: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, suy nghĩ, phân tích, tổng hợp ...) và có
khi cả cơ bắp khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất rồi cả động cơ, tình
cảm, cá nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ,
khơng ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại lịng say mê khoa học, ý muốn, thi đỗ,
biết biến khó khăn thành thuận lợi …) để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình suy nghĩ sử dụng các năng
lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định”.
Tác giả Lưu Xuân Mới khi nói về vấn đề tự học ơng cho rằng: “Tự học là
hình thức hoạt động của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do
chính sinh viên tiến hành trên lớp, ở ngồi lớp hoặc khơng theo chương trình và
sách giáo khoa quy định. tự học là hình thức dạy học cơ bản ở bậc Đại học có tính
độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với q trình
dạy học”.
Theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh: “Tự học là học một cách chủ động” và “Phải
biết tự động học tập”.
Theo Người: “Tự động học tập” tức là tự học tập một cách hoàn toàn tự giác,
tự chủ không ai nhắc nhở, không cần ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch
ra kế hoạch học tập, rồi tự triển khai, tự thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự
mình làm chủ thời gian học và việc kiểm tra đánh giá quá trình tự học của mình.
Như vậy, tự học được các tác giả cho rằng đó là q trình tự vận động của
người học, độc lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao, mà trong đó chủ thể là người
học phải tự biến đổi mình bằng cách huy động các chức năng tâm lý, tiến hành
hoạt động nhận thức nhắm đạt được mục tiêu. tự học là “nội lực” quyết định chất
4


lượng học tập và hoạt động sáng tạo.giả trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu,
1.2.1.2. Hoạt động tự học của sinh viên

Theo từ điển Tiếng Việt: “Sinh viên là những người đang theo học tại các
trường Đại học, cao đẳng”.
SV là một nhóm xã hội đặc biệt, là những người đang trong q trình tích lũy
kiến thức nghề nghiệp để trở thành những người có trình độ chun mơn, đây là
nguồn nhân lực quan trọng trong việc xây dựng đất nước.
Tuổi SV là thời gian nở rộ nhất của sự phát triển nói chung và tâm lý, nhân
cách nói riêng. Một trong những đặc điểm quan trọng của SV là sự phát triển của
tự ý thức. Các em hầu hết phải xa gia đình, bạn bè, người thân, xa những thứ đã
quen thuộc, gắn bó với mình để đến học một nơi khác. Ở đây, SV phải tập làm
quen với môi trường mới, phải sống tự lập hơn. Cũng nhờ đó, SV dần tập cho mình
cách sống độc lập, rèn luyện ý thức, biết suy nghĩ, tự chủ. Thành phần quan trọng
tạo nên sự tự phát triển ý thức của SV là năng lực tự đánh giá, nó sẽ giúp SV suy
xét việc làm, điều chỉnh hành vi cho đúng. Hơn nữa, được rèn luyện trong môi
trường đại học, cao đẳng đòi hỏi cao sự tự học của SV. Bởi học đại học, cao đẳng
là để đi sâu vào một chuyên ngành để chuẩn bị những kiến thức làm việc sau này.
Do đó, SV phải biết tự trang bị cho mình những hiểu biết về nghề đó. Việc tự học
của SV phải được diễn ra liên tục với sự nỗ lực, tự giác cao, làm chủ được thời
gian tự học của mình.
Hiệu quả HĐTH của SV chủ yếu dựa vào ý thức bản thân SV đó thực hiện,
nhưng sẽ hiệu quả hơn nếu được GV hướng dẫn, quản lý các vấn đề liên quan đến
HĐTH như hướng dẫn SV cách xây dựng KHTH phù hợp, quản lý việc thực hiện
HĐTH, nội dung, phương pháp tự học …
Trong xu hướng các trường đại học, cao đẳng chuyển đổi từ phương thức đào
tạo truyền thống sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ thì HĐTH của SV càng được
đánh giá quan trọng hơn.HĐTH khơng phải hồn tồn là sự tự nguyện của SV nữa
5


mà tự học đã trở thành một nội dung trong chương trình đào tạo. Đào tạo theo hệ
thống tín chỉ, SV phải vừa phải tiếp thu kiến thức trên lớp thông qua bài giảng của

GV, làm bài tập trên lớp. vừa phải tham gia hoạt động nhóm và chương trình đào
tạo cũng quy định số giờ tự học cho SV, cứ trung bình một tiết lý thuyết trên lớp sẽ
có hai tiết tự học. Như vậy, SV phải dành nhiều thời gian tự học mới có thể theo
kịp chương trình lý thuyết trên lớp. Tuy nhiên, mặc dù thấy được tầm quan trọng
của HĐTH nhưng SV các trường đại học thực hiện HĐTH vẫn còn rất thấp.
1.2.2. Quản lý
Quản lý đã trở thành vấn đề được nhiều tác giả trong và ngồi nước quan tâm,
nghiên cứu, cũng vì vậy mà khái niệm quản lý đã được nêu rõ trong nhiều cuốn
sách, tác phẩm như: sách Quản lý giáo dục của PGS.TS Bùi Minh Hiền (chủ biên)
cùng với các tác giả GS.TSKH Vũ Ngọc Hải – PGS.TS Đặng Quốc Bảo (Nhà xuất
bản Đại học sư phạm); giáo trình Đại cương khoa học quản lý và Quản lý giáo dục
của tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Xuân Thực (Nhà xuất bản Đại học sư phạm, 2012);
Đổi mới quản lý nhà trường đại học Việt Nam, thực trạng và giải pháp (Đây là kết
quả nghiên cứu của chủ đề “Đổi mới quản lý nhà trường đại học Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế”) do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi (Chủ biên), PGS.TS
Phạm Minh Hùng – PGS.TS Thái Văn Thành, ThS. Phan Chí Thành (Nhà xuất bản
Đại học Vinh)…Trong đó các tác giả khơng chỉ đưa ra những cách hiểu về khái
niệm quản lý mà còn làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý như bản
chất, đặc điểm của quản lý…có thể khái quát như sau:
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con
người. Khái niệm quản lý được hình thành từ xa xưa, khi loài người xuất hiện sự
hợp tác, phân công lao động. Quản lý là các hoạt động do một hay nhiều người
điều phối hoạt động của nhiều người khác nhằm đạt mục tiêu đã định trước.

6


Mác nói: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều
hòa những hoạt động cá nhân…Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy

mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Có nhiều định nghĩa về quản lý:
Theo F.W Taylor: Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau
đó thấy rằng họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Giáo Dục, 1998) là: Tổ chức, điều
khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan.
Cùng với sự phát triển của đất nước, quản lý diễn ra ngày càng phức tạp
hơn.Vì vậy, khái niệm quản lý cũng được biết đến, sử dụng nhiều hơn. Xuất phát từ
những góc độ nghiên cứu, nhiều nhà học giả đã đưa ra giải thích khơng giống nhau
về quản lý:
-

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1996) lại cho rằng

“Quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong một tổ chức nhằm cho tổ chức vận hành đạt được mục đích của tổ
chức”.
-

Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ (1998) lại cho rằng: “Quản lý là quá trình

định hướng, có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng
thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”.
-

Ở góc độ Tâm lý học, quản lý được hiểu là sự tác động có định hướng, có

mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thơng tin của chủ thể đến khách thể của nó.
-


Trong lĩnh vực giáo dục - Đào tạo, quản lý là tập hợp các hoạt động của con

người nhằm lãnh đạo, lập kế hoạch, tổ chức lực lượng và điều hành các tác nghiệp
cụ thể, huy động nguồn nhân lực có thể, giám sát và kiểm tra các hoạt động của

7


một tổ chức, một đơn vị để chúng phát triển phù hợp với các quy luật, các nguồn
nhân lực hiện có để đạt tới các mục tiêu đã định.
Qua các định nghĩa và quan niệm về quản lý ở trên, ta thấy rằng trong hoạt
động quản lý luôn tồn tại chủ thể quản lý và khách thể quản lý.Trong đó chủ thể
quản lý là những người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận
hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác động, chỉ
đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt những mục tiêu chung.
Từ những khái niệm về quản lý nêu trên, ta có thể hiểu: Quản lý là sự tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt kết quả cao bằng cách vận dụng
các hoạt động, kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện.
Như vậy, quản lý là một phạm trù rất rộng.Trong quan hệ quản lý giữa chủ thể
quản lý và khách thể quản lý luôn tồn tại các mối quan hệ qua lại với nhau với
những tác động tương hỗ lẫn nhau. Chủ thể quản lý giỏi, sắc sảo, nhạy bén là
người biết ra quyết định đúng đắn, giải quyết linh hoạt từng tình huống quản lý,
phù hợp với khách thể quản lý và để tiến hành quản lý. Chủ thể quản lý phải tiến
hành đồng bộ nhiều chức năng.
Có thể khái quát thành 4 chức năng chính:
-

Kế hoạch: Là chức năng hạt nhân quan trọng nhất của quá trình quản lý,


giúp ta tiếp cận mục tiêu một cách hợp lý và khoa học. Kế hoạch được hiểu là tập
hợp các mục tiêu cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định, logic với một
chương trình hành động cụ thể đế đạt được những mục tiêu đã được hoạch định,
trước khi tiến hành thực hiện những nội dung mà người quản lý đề ra. Kế hoạch
đặt ra xuất phát từ tình hình cụ thể của tổ chức và những mục tiêu định sẵn mà tổ
chức có thể hướng tới và đạt được theo mong muốn, dưới sự tác động có định
hướng của chủ thể quản lý.

8


-

Tổ chức: Là quá trình phân phối, sắp xếp và bố trí một cách khoa học nguồn

lực (nhân lực, vật lực và tài lực) theo những cách nhất định để đảm bảo tốt các mục
tiêu đề ra.
Đây là một chức năng quan trọng, tạo thành sức mạnh của tổ chức đế thực
hiện thành cơng kế hoạch.Để thể hiện vai trị này,chức năng tổ chức phải hình
thành một cấu trúc tổ chức tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất hệ
thống quản lý và hệ thống bị quản lý.
-

Chỉ đạo: Chỉ đạo là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm tạo cho

tổ chức vận hành đúng kế hoạch. Đó là sự tác động đến cá nhân hoặc nhóm người
làm cho họ tích cực, sáng tạo làm việc theo sự phân công và kế hoạch đã định một
cách lý tưởng. Mọi người cần được khuyến khích để phát triển khơng chỉ sự tự
nguyện làm việc mà còn tự nguyện làm việc với tất cả khả năng và nhiệt tình.

-

Kiểm tra: là những hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể

quản lý, nhằm đánh giá và xử lý các kết quả vận hành của tổ chức. Đây là một
chức năng quan trọng và khơng thể thiếu của q trình quản lý.
Vai trị của nhà quản lý
-

Vai trò giao tiếp, quan hệ
Đối với bên ngoài là đại diện cho tập thể mà người đó quản lý.
Đối với bên trong là lãnh đạo, liên kết mọi người để hồn thành mục tiêu

chung.
-

Vai trị thơng tin
Thu thập thông tin từ cấp dưới
Phổ biến thông tin từ cấp trên
Cung cấp thơng tin cho bên ngồi

-

Vai trị quyết định
Đây là vai trò quan trọng nhất của người quản lý. Nhà quản lý là người có

quyền quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
9



Phẩm chất cần có của người quản lý
-

Giao tiếp tốt với mọi người

-

Ra quyết định một cách nhanh chóng

-

Năng lực phân tích và lập luận vấn đề một cách chặt chẽ, logic.

-

Có khả năng động viên; lãnh đạo; thuyết phục mọi người làm việc.

-

Làm việc hiệu quả; nhanh chóng.

-

Có hiểu biết về một chuyên môn nhất định.

1.2.2.2. Quản lý hoạt động tự học
Khái niệm quản lý hoạt động tự học
HĐTH là một nội dung trong hoạt động học tập của người học thế nên quản lý
HĐTH cũng là một trong những nội dung quản lý q trình đào tạo nói chung và
quản lý hoạt động dạy – học nói riêng.

Với ý nghĩa tự học là quá trình chiếm lĩnh tri thức của người học dưới tác
động của các nhân tố bên ngoài và bên trong và với quản lý với ý nghĩa là q trình
tác động tích cực của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý để định hướng, giúp đỡ,
tổ chức, thúc đẩy…tạo điều kiện giám sát, kiểm tra…hoạt động của đối tượng
nhằm đạt được mục đích. Có thể hiểu khái niệm quản lý HĐTH: Quản lý HĐTH là
sự tác động của chủ thể quản lý đến quá trình tự học của người học làm cho người
học tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức bằng cố gắng, nỗ lực của chính mình.
HĐTH của SV nước ta vẫn đang rất kém. Phương pháp học kiểu đối phó, theo
phong trào, học để thi…vẫn rất phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân
làm giảm chất lượng giáo dục đại học, SV ra trường không đủ kỹ năng, sáng tạo,
khơng chủ động được trong mọi hồn cảnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
kinh tế - xã hội. Do vậy, việc quản lý HĐTH của SV là rất cần thiết.
Quản lý HĐTH của người học gắn liền với việc phát triển nhà trường. Vì vậy,
phạm vi hoạt động của cơng tác này được mở rộng, địi hỏi phải có sự hợp tác với
phịng, khoa, đồn thể, nhất là giữa những giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy
10


trong quá trình đào tạo. HĐTH của người học liên quan chặt chẽ với quá trình tổ
chức dạy học của người dạy. Nên bài khóa luận này, người viết chủ yếu trình bày
hoạt động quản lý của GV đối với HĐTH của SV ngành Quản lý giáo dục –
Trường Đại học Vinh.
Nội dung quản lý HĐTH ở SV được tiếp cận dưới các quan điểm:
-

Theo quan điểm hệ thống thì gồm: quản lý các yếu tố đầu vào (tài liệu,

chương trình, nội dung, phượng tiện…); quản lý quá trình tự học, quản lý kết quả
tự học.
-


Theo các thành tố của HĐTH gồm: quản lý việc xây dựng và thực hiện

KHTH, quản lý việc bồi dưỡng phương pháp tự học, quản lý việc thực hiện các
hình thức tự học, quản lý việc kiểm tra đánh giá kết quả tự học.
-

Theo cách tiếp cận của chức năng quản lý gồm: quản lý lập kế hoạch

HĐTH; tổ chức HĐTH; chỉ đạo HĐTH; kiểm tra, đánh giá HĐTH của SV.
Các cách tiếp cận tuy trình bày khác nhau nhưng đều có điểm chung đó là
quản lý HĐTH của SV bao gồm quản lý thời gian và chất lượng tự học, quản lý
tinh thần, thái độ và phương pháp tự học, nói cách khác đó là việc thực hiện tốt các
nhân tố: mục tiêu tự học, nội dung tự học, phương pháp tự học, Điều kiện –
phương tiện tự học…
1.3. Hoạt động tự học của sinh viên ở trường đại học
1.3.1. Vai trò của hoạt động tự học của sinh viên ở trường đại học
Trong nhà trường, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn cho người học
nhưng “Khơng ai có thể học thay cho người khác”. Vì vậy, người học phải tự thân
vận động, lắng nghe giáo viên giảng bài, tự suy ngẫm tiếp thu thì mới có thể tiếp
nhận tri thức cho mình. Chỉ có hình thành thói quen tự học cho bản thân, người học
mới có những kỹ năng cần thiết, những kinh nghiệm đúc rút cho bản thân, những
bài học đáng nhớ…vì thế, tự học có vai trị quan trọng nhằm giúp người học thói
11


quen lao động trí óc, khả năng suy nghĩ, phán đoán độc lập, rèn luyện phẩm chất tự
giác, tự giáo dục, xây dựng thái độ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng tự hồn thiện
bản thân.
Hình thành thói quen tự học còn giúp người học tận dụng được mọi thời gian có

thể, ở bất kỳ chỗ nào để có thể tự học. Bởi tự học xuất phát từ ham muốn khao khát
nhận thức nên sẽ khơng có rào cản nào nếu người học muốn chiếm lĩnh tri thức đó.
Bằng việc học này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực.
Bằng niềm say mê học hỏi, tự nghiên cứu tài liệu, khám phá tri thức hoạt
động tự học tạo điều kiện để người học hiểu sâu và mở rộng kiến thức, vận dụng tri
thức để giải quyết các nhiệm vụ học tập mới và dần đưa người học tiếp cận với
nghiên cứu khoa học.
HĐTH cũng là một trong những nhân tố đóng vai trị quyết định tới sự hình
thành và phát triển nhân cách người học.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang phát triển và có xu hướng hội nhập với thế
giới càng địi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng, sáng tạo. Người thầy không thể
trang bị đầy đủ cho người học những kiến thức cần thiết. Vì vậy, HĐTH của người
học sẽ là yếu tố bù đắp những khoảng trống đó, giúp người học rèn luyện được khả
năng thích ứng, hòa nhập và khẳng định bản thân trong xã hội.
Bàn về vai trị của HĐTH, ngun Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Tự
học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời, mỗi con người trong điều kiện
kinh tế xã hội nước ta hiện nay và mai sau, đó cũng là truyền thống quý báu của
người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng
cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học khi biến được quá trình giáo
dục thành tự giáo dục…”.

12


Như vậy, HĐTH có vai trị đối với việc phát triển tri thức người học, rèn
luyện phẩm chất, nhân cách người học góp phần vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục.
1.3.2. Nội dung phương pháp hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
- Nội dung hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
Nội dung học tập trong nhà trường đã được xác định căn cứ vào mục đích đào

tạo, nội dung đó bao gồm các khối kiến thức cơ bản, cơ sở và chuyên ngành. Ngồi
nội dung học tập bắt buộc, SV có thể tự học, tự nghiên cứu những lĩnh vực khác.
Để quản lý được nội dung tự học, giáo viên cần hướng dẫn nội dung tự học cho SV
tập trung vào hai hướng:
+ Hệ thống các nhiệm vụ tự học có tính chất bắt buộc.
+ Tư vấn nội dung tự học cho SV, định hướng mở rộng tri thức từ các vần đề
trong nội dung học.
-

phương pháp hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
Phương pháp tự học có tính chất đặc thù đối với môn học và người học. Tuy

nhiên, các phương pháp tự học cũng có những điểm chung đó là phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, quy nạp…bên cạnh đó có các phương pháp
riêng đối với mỗi môn học.
Việc quản lý các phương pháp tự học của SV được thực hiện thông qua việc
chỉ đạo, tổ chức, thực hiện các phương pháp dạy học tích cực, việc hướng dẫn
phương pháp tự học của SV, việc tổ chức cho SV thực hiện như thế nào cho hiệu
quả hoặc nêu gương những bạn SV biết cách áp dụng phương pháp TH hiệu quả để
các bạn khác học theo.
Giáo viên hướng dẫn cho SV xây dựng KHTH và giúp các em quản lý
phương pháp tự học của mình.Để giải quyết vấn đề quản lý phương pháp tự học
phải bắt đầu từ việc xác định mục đích, động cơ học tập đúng đắn, lựa chọn cách
13


học, phương pháp học cho phù hợp. Do vậy, người học phải biết cách quản lý
phương pháp tự học của mình theo một kế hoạch hợp lý, biết tạo điều kiện cần
thiết để đảm bảo cho việc tự học suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc.
1.3.3. Đánh giá hoạt động tự học của sinh viên

- Đánh giá hoạt động tự học của sinh viên
Vấn đề tự kiểm tra, tự đánh giá trong HĐTH của SV là một trong những yếu
tố quyết định thắng lợi của việc học tập nói chung và tự học nói riêng. Mọi sự tác
động bên ngồi như từ phía thầy (cơ), bạn bè chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả tự việc kiểm học bao gồm:
+ Kiểm tra HĐTH của SV.
+ Kiểm tra việc thực hiện KHTH theo các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ tự học,
phát hiện sai lệch giúp SV điều chỉnh HĐTH.
+ Quản lý tổ chức thi, đánh giá kết quả học tập của SV.
1.4. Quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trường đại học
1.4.1. Sự cần thiết phải quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trường đại
học
Tự học là hình thức học tập khơng thể thiếu được của người học, đặc biệt là sinh
viên.Tổ chức quản lý hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng,
hiệu quả, là trách nhiệm không chỉ của người học mà còn là sự nghiệp đào tạo của
nhà trường.
Tự học là một phần có ý nghĩa rất quan trọng để sinh viên hoàn thiện vốn kiến thức
khoa học và kĩ năng nghề nghiệp.Kiến thức mà người thầy cần truyền thụ phải
được hoàn thiện trong hoạt động tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện của sinh
viên.Tự học yêu cầu người học có tính độc lập tự giác cao.
1.4.2. Nội dung quản lý hoạt tự học của sinh viên ở trường đại học.

14


Theo lý luận về quản lý thì bất kỳ một hoạt động quản lý nào cũng bao gồm:
Chủ thể quẩn lý và đối tượng bị quản lý.
Chủ thể quản lý hoạt động tự học của sinh viên là những bộ phận chịu trách
nhiệm tác động vào quy trình tự học của sinh viên theo quy định của Bộ giáo
dục và Đào tạo.

Mục tiêu quản lý hoạt động tự học của sinh viên là làm cho quá trình tự học
được vận hành đồng bộ, có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng học tập, làm
thay đổi theo chiều hướng tích cực của sinh viên ở cả 3 bình diện: nhận thức,
thái độ và hành vi
Quản lý hoạt động tự học của sinh viên bao gồm:
+. Xây dựng động cơ tự học cho sinh viên
+. Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học của sinh viên
+. Quản lý nội dung phương pháp tự học của sinh viên
+. Quản lý việc bồi dưỡng kỹ năng tự học
+. Quản lý hình thức tự học
+. Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự học của sinh viên
+. Quản lý việc duy trì, đẩy mạnh cơng tác kiểm tra,đánh giá hoạt động tự
học của sinh viên.
1.4.3. Các yếu tố tác động tới hoạt động tự học của sinh viên trường đại học
HĐTH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, phân thành hai nhóm chính:


Nhóm yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan của HĐTH là các yếu tố bên ngoài chủ thể tác động ảnh

hưởng đến hoạt động của chủ thể bao gồm:
+ Ảnh hưởng của GV đến HĐTH
Hiện nay, giáo dục nước ta chủ trương “lấy người học làm trung tâm”, nhưng
khơng phải vì vậy mà chúng ta phủ nhận vai trò của người thầy giáo. Trong
HĐTH, người học nếu được giáo viên định hướng, giúp SV lập kế hoạch thực hiện
15


một cách cụ thể thì HĐTH sẽ có hiệu quả cao hơn. Mặt khác, thực tế cho thấy nếu
SV được quan tâm theo dõi thường xuyên, giám sát quá trình học cũng như tự học

một cách chặt chẽ thì người học sẽ có động lực, hứng thú để phát triển khả năng tự
tìm tịi, nghiên cứu của mình.
+ Điều kiện cơ sở vật chất – phương tiện dạy học
HĐTH không thể thực hiện tốt nếu không đảm bảo các điều kiện cần thiết về
cơ sở vật chất - phương tiện dạy học
Cơ sở vật chất ở đây là hệ thống các phương tiện vật chất, kỹ thuật khác nhau
để phục vụ cho HĐTH bao gồm: thư viện, phòng học, khung cảnh tự nhiên xung
quanh nhà trường…
Phương tiện dạy học là những phương tiện được trực tiếp sử dụng trong quá
trình giảng dạy và giáo dục bao gồm: đồ dùng thí nghiệm, giáo trình, máy tính,
mạng internet….
SV nếu được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, đáp ứng được say mê tìm tịi,
nghiên cứu thì cũng sẽ thúc đẩy hứng thú ở họ mong muốn khám phá tri thức. Mặt
khác, cơ sở vật chất - phương tiện kĩ thuật còn có vai trị đổi mới phương pháp học
tập, giúp người học chủ động, tích cực hoạt động hơn cụ thể như: Ngồi giờ học
trên lớp sinh viên có thể đến thư viện đọc sách, nghiên cứu tài liệu, lên mạng tìm
kiếm thơng tin…Giáo viên nhờ cơ sở vật chất - phương tiện dạy học khác nhau để
đa dạng hóa các hình thức dạy học khác nhau thay vì chỉ duy trì một lối dạy duy
nhất. Điều này tăng cường sự chú ý của người học, giúp người học thấy hứng thú,
khơng bị nhàm chán, khơi dậy lịng say mê học tập.
+ Tổ chức nhóm
Nhóm là hạt nhân cơ bản của việc tự quản. Nếu người học được đặt vào một
vị trí trong nhóm để cùng tham gia vào hoạt động của nhóm sẽ có tác dung tích
cực hóa người học, qua đó giúp họ chủ động tìm tịi, khám phá kiến thức, SV sẽ
hiểu được nhiều hơn. Trong quá trình làm việc nhóm cịn giúp SV rèn luyện tính tự
16


chủ trong cơng việc (nhóm phân cơng) và biết cách phối hợp với các thành viên
khác trong nhóm.

Ngồi ra những đường lối của Đảng, nhà nước, những chính sách của Bộ giáo
dục & Đào tạo, nội dung chương trình đào tạo cũng là những yếu tố khách quan
ảnh hưởng đến HĐTH của người học.


Yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan được xem là những yếu tố “nội lực” ảnh hưởng rất nhiều tới

HĐTH gồm:
+ Việc xác định đúng động cơ, mục đích, thái độ học tập
Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người. Để hình thành hoạt động
học cần hình thành động cơ học tập, mục đích học tập, các hành động học tập.
Riêng đối với HĐTH, ngoài những yếu tố trên người học cũng cần phải hình thành
cả thái độ tự học.
Động cơ tự học là tất cả các yếu tố thúc đẩy người học tự học, có những loại
động cơ như: tự học để hồn thiện tri thức (động lực mang tính nhận thức); động
cơ quan hệ xã hội (đáp ứng mong đợi của cha mẹ, có điểm số cao, lịng hiếu
danh…). Những động cơ này đều kích thích, tạo hứng thú cho người học muốn tìm
kiếm tri thức.
Thái độ, nhận thức của người học về HĐTH cũng là yếu tố chủ quan quyết
định nhiều đến chất lượng học. Chỉ khi người học có thái độ tự học đúng đắn, kiên
trì thì HĐTH mới diễn ra hiệu quả.
Tóm lại, HĐTH của người học diễn ra như thế nào, tích cực hay khơng…cịn
phụ thuộc vào các yếu tố khác. Nếu các nhà quản lý hiểu rõ và nắm bắt được các
yếu tố chi phối HĐTH thì sẽ đưa ra được những biện pháp hiệu quả hơn.

17


CHƯƠNG II

CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH
VIÊN NGÀNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
2.1. Vài nét về ngành Quản lý giáo dục Trường Đại học Vinh
Ngày 29 tháng 10 năm 2010, Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh ký Quyết định
số 2682/QĐ-ĐHV-TCCB về việc thành lập khoa Giáo dục. Khoa gồm hai ngành
đào tạo là Sư phạm Mầm non và Sư phạm Tiểu học. Sau nhiều năm đào tạo, khoa
đã đạt được nhiều thành cơng, góp phần vào đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
Trong những năm gần đây, Nhà trường đã nhận thức được vai trò quan trọng
của quản lý giáo dục trong giáo dục hiện nay và được Bộ giáo dục & Đào tạo cho
phép thành lập ngành Quản lý giáo dục. Năm học 2012–2013, Trường Đại học
Vinh đã đón nhận khóa 53 ngành Quản lý giáo dục đầu tiên. Do mới thành lập nên
ngành còn gặp rất nhiều khó khăn. Song các thầy, cơ giáo đã khơng ngừng cố gắng
học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm tài liệu, phương pháp dạy học…đảm bảo cho SV
ngành Quản lý giáo dục đạt hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, khoa Giáo dục có 37 cán bộ, trong đó: 34 Giảng viên và 2 Cán bộ
hành chính. Riêng bộ mơn Quản lý giáo dục có: 1 GV.TS, 4 GV.ThS, 2 Chun
viên hành chính. Cho tới nay, ngành Quản lý giáo dục đang đào tạo 4 khóa học
quản lý hệ cử nhân. Nhìn chung, SV ngành Quản lý giáo dục đều rất năng động,
ham học hỏi và dưới sự chỉ dẫn của các thầy, cô giáo SV ngày càng phát huy hơn
nữa tính tích cực của mình.
Chuẩn đầu ra của sinh viên ngành Quản lý giáo dục hệ cử nhân gồm:
Kiến thức

18


-

Nắm vững kiến thức giáo dục đại cương, bao gồm các nguyên lí cơ bản của


Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; có chứng chỉ Giáo dục Thể chất và Giáo dục Quốc phịng;
-

Có kiến thức cơ bản, chun sâu về hành chính giáo dục và quản lý giáo dục

trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác; có đủ kiến thức chuyên ngành sư
phạm liên quan đến quá trình giáo dục và dạy học ở các cơ sở giáo dục;
-

Nắm vững các kiến thức cơ bản, hiện đại và cập nhật về chính trị, văn hóa,

quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng;
-

Nắm vững những kiến thức cơ bản, hiện đại về phương pháp luận và phương

pháp nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục:
-

Có kiến thức tin học tương đương trình độ B;

-

Có trình độ ngoại ngữ Bậc 3 Khung năng lực ngoại ngữ dùng cho Việt Nam.
Kĩ năng

-

Có năng lực vận dụng kiến thức vào hoạt động hành chính giáo dục và quản


lí giáo dục ở các cơ sở văn hóa - giáo dục, các tổ chức kinh tế - xã hội;
-

Có khả năng giám sát, đánh giá kết quả hoạt động giáo dục và việc thực hiện

các chức năng quản lý giáo dục;
-

Có kĩ năng tự học, nghiên cứu khoa học giáo dục nói chung và khoa học

quản lý giáo dục nói riêng;
-

Có khả năng đáp ứng các dịch vụ giáo dục cho các cá nhân và các tổ chức xã

hội có nhu cầu về phát triển và quản lý giáo dục;
-

Có kĩ năng làm việc nhóm; khả năng tự học, tự nghiên cứu; khả năng thích

ứng với yêu cầu nghề nghiệp và làm việc độc lập.
Thái độ
-

Có phẩm chất đạo đức tốt, có tác phong mẫu mực của người cán bộ quản lý

giáo dục, giáo viên;
19



-

Có ý thức trách nhiệm cơng dân, có ý thức kỉ luật và tác phong cơng nghiệp.
Vị trí và khả năng công tác sau khi tốt nghiệp

-

Chuyên viên trong các cơ quan quản lý giáo dục và các cơ sở đào tạo;

-

Chun viên phụ trách cơng tác văn hóa - giáo dục trong các cơ quan, chính

quyền các cấp và các tổ chức văn hóa - giáo dục cộng đồng;
-

Cán bộ nghiên cứu trong các cơ quan nghiên cứu về quản lý giáo dục.

-

Giảng viên chuyên ngành quản lý giáo dục trong các cơ sở đào tạo và bồi

dưỡng cán bộ quản lý giáo dục.
Khả năng học tập, nâng cao trình độ sau khi tốt nghiệp
Có thể tiếp tục học tập và nghiên cứu chun mơn ở trình độ thạc sĩ và tiến sĩ
chuyên ngành tương ứng.
Để nghiên cứu thực trạng hoạt động tự học của SV, tôi đã tiến hành phát phiếu
điều tra sinh viên ngành quản lý giáo dục Trường Đại học vinh –với tổng số 138
phiếu, trong đó có 2 phiếu khơng hợp lệ.

2.2.Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên ngành Quản lý giáo dục
Trường Đại học Vinh
2.2. 1 Thực trạng nhận thức của sinh viên về HĐTH
SV muốn TH đạt kết quả thì phải nhận thức đúng về tầm quan trọng, nội dung
và vai trị, ý nghĩa của HĐTH đối với mình. Để nghiên cứu thực trạng nhận thức
của SV về HĐTH, tôi đã phát phiếu hỏi và thu được kết quả sau:
Bảng 1: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của hoạt động tự học
Ý nghĩa Tầm quan trọng của hoạt động tự học
1
2
3

Rất quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng

Tỷ lệ (%)
35
59.5
5.5
20


Nhận xét:
Qua phân tích số liệu bảng trên ta thấy rằng phần lớn SV đã nhận thức được
tầm quan trọng của HĐTH: 35% SV cho rằng HĐTH rất quan trọng, 59.5% SV
cho rằng HĐTH là quan trọng. Việc nhận thức được điều này sẽ giúp SV có thái độ
tích cực trong thực hiện TH cho mình. Tuy nhiên, vẫn cịn 5.5% SV thấy rằng
HĐTH không quan trọng. Mặc dù con số này nhỏ chỉ chiếm khoảng 8/138 SV
nhưng nó cũng chỉ ra rằng còn một số SV chưa thấy được tầm quan trọng của

HĐTH trong môi trường học đại học hiện nay, làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu
quả học tập.
Bên cạnh điều tra nhận thức của SV về tầm quan trọng của HĐTH thì tơi cịn
điều tra thực trạng nhận thức của SV về nội dung tự học. Bởi nội dung tự học cũng
là một trong những yếu tố quyết định tới việc hoàn thành nhiệm vụ tự học, hiệu
quả học tập của SV. Kết quả điều tra thu được được trình bày qua bảng 2:
Bảng 2. Nhận thức của sinh viên về nội dung tự học
Stt

Nội dung tự học

Số
sinh
viên

1

Học thuộc các bài cần học, làm đủ các bài tập theo yêu cầu của

10

giảng viên.
2

Tìm sách, báo, tài liệu để đọc them

29

3


Ngoài việc ghi chép, lắng nghe giảng viên giảng bài trên lớp; sinh

39

viên phải tự mình động não, suy nghĩ, nghiên cứu tài liệu mọi lúc,
mọi nơi để hiểu sâu hơn các vấn đề đã học, mở rộng tầm hiểu biết
4

Tìm hiểu thêm các bài tập liên quan đến bài học, thực hành các phần

60

lý thuyết đã được học tại lớp
Nhận xét:
21


Câu hỏi điều tra này nhằm hệ thống những cách hiểu của SV về nội dung tự
học gồm những vấn đề nào (có thể lựa chọn nhiều đáp án). Từ bảng 2 ta thấy: nội
dung “Ngoài việc ghi chép, lắng nghe giảng viên giảng bài trên lớp; sinh viên phải
tự mình động não, suy nghĩ, nghiên cứu tài liệu mọi lúc, mọi nơi để hiểu sâu hơn
các vấn đề đã học, mở rộng tầm hiểu biết” được nhiều SV lựa chọn nhất (39 SV)
chiếm hơn 38%. Đây là nội dung bao quát được HĐTH trên lớp và ngoài giờ lên
lớp. Từ đó cho biết, SV đã hiểu được phạm vi tự học khơng chỉ gói gọn trên lớp mà
cịn diễn ra ở ngồi giờ lên lớp và nó gồm các nội dung: ghi chép, lắng nghe giảng
viên giảng bài trên lớp, tự mình động não, suy nghĩ, nghiên cứu tài liệu mọi lúc,
mọi nơi. Nội dung được SV chọn nhiều ở thứ hai là “Tìm hiểu thêm các bài tập
liên quan đến bài học, thực hành các phần lý thuyết đã được học tại lớp” (60 SV)
chiếm gần 31%. Ở đây, các bạn SV chú trọng đến phần bài tập và thực hành trong
nội dung tự học. Đây là nội dung giúp SV rèn luyện, nắm vững kiến thức hơn. Vì

vậy, nó là một nội dung quan trọng trong nội dung tự học. Có 29 SV chiếm gần
28% chọn “Tìm sách, báo, tài liệu để đọc thêm”. Nội dung này nhấn mạnh đến học
liệu tự học cũng đã được các SV biết đến. Nội dung được ít bạn chọn nhất đó là
“Học thuộc các bài học, làm đủ các bài tập theo yêu cầu của giảng viên” (10 SV)
chiếm hơn 3%. Nội dung này phản ánh nhận thức của SV cịn hạn chế, chỉ bó hẹp
trong u cầu của giảng viên mà chưa có ý thức tự học của bản thân. Ngồi những
nội dung trên, một số SV cịn đưa ra ý kiến về nội dung tự học:
Bảng 3. Nhận thức của sinh viên ngành Quản lý giáo dục về vai trò của HĐTH
Stt
1
2
3
4

Vai trò của HĐTH

Số sinh

Mở rộng và hiểu sâu kiến thức
Hình thành và phát triển nhân cách cho bản thân
Kiểm tra và thi đạt kết quả cao
Giúp SV phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong

viên
40
20
28
40
22



học tập
Nhận xét:
Nhận thức của SV về vai trò của HĐTH có mối quan hệ chặt chẽ với nhận
thức của SV về tầm quan trọng của HĐTH theo tỷ lệ thuận với nhau. Điều tra thực
trạng nhận thức của SV về vai trò của HĐTH được kết quả ở bảng 3. Trong đó, có
100% SV cho rằng HĐTH có vai trò trong việc giúp SV mở rộng, hiểu sâu kiến
thức và giúp SV phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập.
Điều này cho thấy SV đã nhận thức được vai trò quan trọng của HĐTH. Ngồi ra,
có 20 SV (chiếm hơn 13%) cũng nhận thức được vai trò của tự học đối với bản
thân người học trong hình thành và phát triển nhân cách cho bản thân. Bên cạnh
đó, có 28 SV (chiếm hơn 17%) nhận thức rằng, HĐTH có vai trị giúp SV đạt được
điểm số cao trong kỳ thi, kiểm tra. Trong học tập, chúng ta thừa nhận rằng điểm số
là một yếu tố quan trọng. Nó phản ánh trình độ, năng lực của người học nhưng
nhiều người chỉ chuộng hình thức bên ngồi, thích điểm cao mà qn rằng vai trị
cốt lõi của HĐTH là kiến thức thu được. Như vậy, chúng ta khơng thể phủ nhận vai
trị này nhưng để HĐTH diễn ra với vai trò đúng nghĩa đòi hỏi GV, cán bộ quản lý,
nhà trường phải nâng cao nhận thức c ho SV về vấn đề này để tránh những nhận
thức lệch lạc từ SV.
Thăm dò ý kiến của giảng viên bộ môn về nhận thức tự học của SV, các thầy
cô cũng cho rằng mức độ nhận thức của hầu hết SV ở mức bình thường (83%); cịn
lại là yếu.
Qua 3 bảng trên ta thấy rằng, hầu hết SV đã nhận thức được tầm quan trọng,
vai trò và hiểu được nội dung của HĐTH. Hiểu và nhận thức được điều này sẽ giúp
SV xác định được động cơ, hình thành thái độ học tập, làm cơ sở định cho q
trình tự phấn đấu, rèn luyện. Tuy nhiên, cịn một ít SV còn chưa hiểu và thấy được
tầm quan trọng và vai trò thực sự của HĐTH đối với bản thân làm ảnh hưởng xấu
tới sự tích cực tự học của SV. Một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế là:
23



Thứ nhất, môi trường học ở phổ thông khác với môi trường học ở đại học. Khi
mới bước vào đại học, đa số SV vẫn giữ thói quen học theo phương pháp truyền
thống, do đó SV thường ỷ lại vào GV q nhiều, chưa rèn cho mình tính tích cực,
chủ động, chưa thích nghi được với cách học ở đại học.
Thứ hai, là tâm lý e ngại, không tự tin của SV, SV vào giờ học ít phát biểu, ít
thể hiện quan điểm riêng của mình mà chỉ thụ động ngồi nghe và chép.
Kết quả điều tra thời gian dành cho HĐTH của SV được trình bày ở bảng 4
sau:
Bảng 4. Thời gian dành cho HĐTH trong một ngày của sinh viên ngành Quản
lý giáo dục – Trường Đại học Vinh
Stt
1
2
3
4

Thời gian
Dưới 2 tiếng
Từ 2 đến 3 tiếng
Từ 3 đến 4 tiếng
Trên 4 tiếng
Nhận xét:

Tỷ lệ (%)
10
60
20
10


Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT
ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín
chỉ” trong đó một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lí thuyết; 30-45 tiết thực
hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại cơ sở; 45-60 giờ làm tiểu
luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.
Đối với những học phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được
một tín chỉ, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Như vậy, có thể khái quát cứ 1 tiết lý thuyết trên lớp thì sẽ có 2 tiết tự học ở
nhà. Trong khi thực tế đăng ký số tín chỉ kỳ 1 của năm thứ nhất ngành Quản lý

24


giáo dục thường là 16 tín chỉ, kỳ 2 là 18 tín chỉ thì trung bình mỗi ngày SV phải
dành hơn 4 tiếng để thưc hiện HĐTH mới đáp ứng được yêu cầu đào tạo.
Qua kết quả trên, SV dành thời gian khoảng từ 2 đến 3 tiếng/ngày là nhiều
nhất chiếm 60%, SV dành 3 đến 4 tiếng/ngày chiếm 20%. Qua con số này, ta có thể
thấy SV đã dành thời gian cho HĐTH nhưng vẫn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu
đào tạo. Chỉ có 10% SV dành thời gian hơn 4 tiếng/ ngày TH, ở đây SV đã nhận
thức được HĐTH trong quá trình học tập của mình, đáp ứng được yêu cầu về thời
gian TH nhưng con số này không được nhiều. Ngược lại, một bộ phận SV dành
thời gian TH/ngày q ít chỉ có dưới 2 tiếng/ngày làm ảnh hưởng đến chất lượng
và hiệu quả học tập.
Như vậy, thời gian dành cho HĐTH của SV ngành Quản lý giáo dục nhìn
chung vẫn cịn rất ít so với yêu cầu đào tạo đại học theo hệ thống tín chỉ. SV chưa
tranh thủ hết thời gian, chưa có ý thức tự học liên tục để tích lũy kiến thức. Nguyên
nhân dẫn đến SV chưa dành nhiều thời gian cho tự học một phần do SV chưa có
động cơ tự học đúng nghĩa. Điều tra động cơ của việc tự học thì 15% SV xuất phát
từ động cơ ham học hỏi, chiếm lĩnh tri thức; 22.5% do mong muốn vượt qua khó
khăn, dành kết quả cao trong học tập; 37.5% do muốn đạt kết quả cao trong các kỳ

thi, kiểm tra; 25% học do hứng thú. Vào môi trường đại học, SV khơng có động cơ
tự học đúng đắn, tự học chủ yếu để được điểm cao. Vì vậy, SV chỉ học khi có kiểm
tra, thi và học đối phó đang là nguyên nhân sâu xa làm giảm chất lượng đào tạo.
2.2.2 Thực trạng lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch hoạt động tự học của
sinh viên
Hoạt động tự học chỉ đạt kết quả cao khi SV biế t quản lý việc tự học của
mình thơng qua việc xây dụng và thực hiện kế hoạch, nghĩa là lượng hóa thời gian

25


×