Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những hoạt động thực tiễn và lí luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.6 KB, 20 trang )

0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH
------

BÀI THẢO LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI 1: NHỮNG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA
HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ TỪ CUỐI NĂM 1920 ĐẾN ĐẦU
NĂM 1930

 Giảng viên hướng dẫn: T.S Ngô Thị Minh Nguyệt
 Lớp học phần: 2110HCMI0111
 Nhóm thực hiện: 4


1

Hà nội, ngày 31 tháng 3 năm 2021

Mục lục
PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU....................................................................3
PHẦN II. PHÂN TÍCH NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI KÌ TỪ CUỐI NĂM 1920 ĐẾN ĐẦU NĂM 1930..................4
1. Hoạt động thực tiễn............................................................4
2. Hoạt động lí luận................................................................6
3. Thời kì hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam..........................................................9
PHẦN 3. KẾT LUẬN.....................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo



STT
31

MSV
19D250158

Họ tên
Nguyễn Cao
Huy

Công việc

Đánh giá

Hoạt động
thực tiễn

nộp bài đúng
hạn, tham gia
tích cực

32

19D1300
19

Lê Thị
Khánh Huyền


Lí giải đây
là thời kì hình
thành những
nội dung cơ
bản TTHCM về
CMVN

nộp bài đúng
hạn, tham gia
tích cực

33

19D2501
59

Phạm Thị
Huyền (nhóm
trưởng+thư kí)

Hoạt động
thực tiễn+làm
word

nộp bài đúng
hạn, tham gia
tích cực

34


19D2500
92

Phần mở
đầu+phần kết
thúc+lí giải

nộp bài đúng
hạn, tham gia
tích cực.

Bùi Vân
Khánh


2
35

19D2501
62

Điền Thị
Lan

Hoạt động
thực tiễn

nộp đúng hạn,
tham gia tích
cực.


36

19D2500
24

Tống Thị
Thanh Lan

Lí giải đây
là thời kì hình
thành những
nội dung cơ
bản TTHCM về
CMVN

Nộp bài đúng
hạn, tham gia
tích cực.

37

19D2501
63

Đinh Thị
Diệu Linh

Ưu
điểm+thuyết

trình

tham gia tích
cực, nộp bài
muộn

38

19D2501
46

Lí giải đây
là thời kì hình
thành những
nội dung cơ
bản TTHCM về
CMVN

Nộp đúng hạn,
tham gia tích
cực.

39

19D2501
64

Hoạt động
thực tiễn


Nộp đúng hạn,
tham gia tích
cực đầy đủ.

40

19D2500
96

Hoạt động
lí luận

Nộp bài muộn,
tham gia tích
cực đầy đủ.

Dương Diệu
Linh

Nguyễn
Thùy Linh
Trịnh Thùy
Linh

PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả đời Người cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, để lại cho nhân loại kho tàng di sản văn hóa quý
báu. Đó là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh sáng ngời. Tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm giữ vị trí vơ cùng

quan trọng trong kho tàng ấy bởi đó “là một hệ thống quan điểm
tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng Sản Việt Nam đúc
kết và hệ thống hóa. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà lý luận một
mặt làm rõ khái niệm, các nội dung cụ thể của Tư tưởng Hồ Chí
Minh, mặt khác cịn chia sự hình thành và phát triển của Tư tưởng
Hồ Chí Minh thành những giai đoạn khác nhau nhưng không rời rạc,
đứt đoạn bởi Tư tưởng Hồ Chí Minh là một q trình phát triển liên
tục, nhất quán, có kế thừa, phát triển, loại bỏ những quan điểm
khơng phù hợp, có những luận điểm tư tưởng của Người được hình


3
thành, bổ sung suốt đời.Việc phân chia các giai đoạn là dựa vào nội
dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh trong từng thời
kỳ cụ thể chứ không phải dựa vào các mốc thời gian hoạt động của
Người, qua đó nhằm làm rõ, phân tích và nhấn mạnh những nội dung
tư tưởng quan trọng của thời kỳ đó. Q trình hình thành và phát
triển Tư tưởng Hồ Chí Minh được chia thành năm giai đoạn, tuy nhiên
giai đoạn từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 giữ một vai trị đặc
biệt quan trọng bởi đó chính là thời kỳ hình thành những nội dung cơ
bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam, là khởi nguồn cho nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhằm trả lời câu hỏi tại sao giai đoạn từ cuối
năm 1920 đến là giai đoạn cơ bản hình thành những nội dung tư
tưởng về cách mạng Việt Nam, nhóm 4 lựa chọn đề tài “Phân tích
những hoạt động thực tiễn, hoạt động lý luận của Hồ Chí
Minh trong thời kỳ cuối năm 1920 tới đầu năm 1930, qua đó
lý giải đây là thời kì hình thành những nội dung cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam”
Với nội dung như vậy, bài thảo luận được chia làm 3 phần:

“Phân tích hoạt động thực tiễn của chủ tịch Hồ Chí Minh từ cuối năm
1920 đến đầu năm 1930”, “Phân tích hoạt động lý luận của chủ tịch
Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930” và “Lý giải và
những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt
Nam hình thành trong giai đoạn từ cuối năm 1920 đến đầu năm
1930”.
Bằng tinh thần nghiên cứu & tìm hiểu nghiêm túc, nhiệt tình và
sự hướng dẫn tận tình của giảng viên Ngơ Thị Minh Nguyệt, thành
viên nhóm 4 đã hoàn thành bài thảo luận một cách trau chuốt, tỉ mỉ
nhất. Mặc dù vậy nhóm khơng thể tránh khỏi sai sót. Nhóm 4 rất
mong nhận được phản hồi, góp ý từ cơ Ngơ Thị Minh Nguyệt để bài
thảo luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


4
PHẦN II. PHÂN TÍCH NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHÍ
MINH TRONG THỜI KÌ TỪ CUỐI NĂM 1920 ĐẾN ĐẦU NĂM 1930
1. Hoạt động thực tiễn
-

Hoạt động ở Pháp (1921 – 1923):

Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp
lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des
indigènes de toutes les colonies). Năm 1922, ông cùng một số nhà
cách mạng thuộc địa ra báo Le Paria (Người cùng khổ).Tờ này ra
được 38 số với mỗi số bán được quãng 1000 tới 5000 bản, một con
số thuyết phục vào lúc bấy giờ.Ngồi ra, ơng viết bài cho hàng loạt
báo khác. Tác phẩm Bản án ch thc dõn Phỏp (Le procốs de la

colonisation franỗaise) do ông viết được xuất bản năm 1925, đã tố
cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Ơng là trưởng Tiểu ban Đơng
Dương của Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông ra tranh
cử vào Hạ viện Pháp, nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia
bầu cử Quốc hội đó, Đảng Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu
phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử tri, nhưng Nguyễn Ái
Quốc trượt chân dân biểu Quốc hội.
Trong tồn bộ thời gian sống trên đất Pháp, ơng trang trải cuộc sống
bằng cách làm việc nửa ngày. Thoạt đầu, ông làm thuê tại một tiệm
rửa ảnh và được Phan Văn Trường nhượng quyền cho thuê lại một
căn phòng. Sau đó, ơng đi vẽ khốn cho một xưởng vẽ truyền thần
và thuê một phòng tại căn nhà số 9 ngõ Compoint, Quận 17,
Paris.Ơng theo học dự thính tại Đại học Sorbonne và được coi là mọt
sách tại Thư viện Quốc gia Pháp.
-

Hoạt động ở Liên Xô (1923-1924):

háng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại
trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội lần
thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông,
phụ trách Cục Phương Nam.
Nếu như Marx bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản, Lenin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,
thì Nguyễn Ái Quốc dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội lần
thứ năm của Quốc tế Cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc chỉ ra sự to
lớn của hệ thống thuộc địa: "Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa

thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện


5
tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, cịn
dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân
thuộc địa Anh đơng gấp hơn 8,5 số dân nước Anh cịn đất đai rộng
gấp 252 lần của nước Anh..."
Ngày 23-6-1924, phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội 5, Nguyễn Ái
Quốc nói: "Tơi đến đây khơng ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến
một sự thật là: thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế
Cộng sản thấy rằng: cách mạng, ngoài vấn đề tương của các thuộc
địa cịn có cả nguy cơ của các thuộc địa. Song, tơi thấy rằng hình
như các đồng chí chưa hồn tồn thấm nhuần tư tưởng rằng vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Vì vậy, tơi sẽ tận dụng mọi cơ
hội có được, gợi ra những vấn đề và nếu cần, tơi sẽ thức tỉnh các
đồng chí về vấn đề thuộc địa".[23]
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ viết bài cho các
báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière),
Sự thật (Pravda), Người cùng khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế
(Inprékor), Tạp chí Cộng sản vv.v.. Các bài báo tập trung nói về các
vấn đề liên quan đến giai cấp công nhân, đến cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân ở các thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng vô
sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm đến chiến lược quân sự của các
nước lớn đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sau khi phân tích
những động thái quân sự của Nhật Bản ở đảo Yap, Mỹ tăng cường
tàu chiến ở Thái Bình Dương, Pháp củng cố hệ thống thuộc địa vành

đai Thái Bình Dương, Nguyễn Ái Quốc dự đốn chính xác rằng khu
vực này "tương lai có thể trở thành lò lửa của cuộc chiến tranh thế
giới mới"
-

Hoạt động ở Trung Quốc (1924 – 1927):

Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng
Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của
chính phủ Liên Xơ bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc.
Thời gian này ông cũng gặp mặt một số nhà cách mạng lão thành
người Việt đang sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc,
trong đó có Phan Bội Châu. Trong một báo cáo gửi đoàn chủ tịch
Quốc tế Cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ơng viết về Phan
Bội Châu:
"Ơng ấy khơng hiểu chính trị và lại càng không hiểu việc tổ
chức quần chúng,tôi đã giải thích cho ơng ấy hiểu sự cần thiết
của tổ chức và sự vơ ích của những hành động khơng có cơ sở.


6
Ơng ấy đã đưa tơi một bản danh sách của 14 người Việt Nam
đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu."
Trong nhóm 14 người này có một số thành viên của Tâm tâm xã một tổ chức cấp tiến hoạt động từ 1923 với những thành viên như
Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong,
Lâm Đức Thụ,...thành viên đầu tiên của Tâm tâm xã là Lê Hồng
Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Trương
Quốc Huy, Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn; đến đầu năm 1924 thì Lê
Hồng Phong và Phạm Hồng Thái được kết nạp.
Năm 1925, ông (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần

tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó,
lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn mà
thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn
gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội này
phái người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu
đào tạo. Cho tới 1927, hội mở được 3 khoá gần 10 lớp huấn luyện,
đào tạo 75 hội viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái
Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng. Việc làm
quan trọng nhất của hội trong thời gian này là cử được người đi
học tại Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính
Hồng Phố của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần và
Vũ Hồng Khanh cũng từng làm việc hoặc học tập ở trường Hoàng
Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Cơng Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê
Thiết Hùng, Nguyễn Sơn,… là những người được đưa đi đào tạo tại
một trong hai trung tâm trên. Phần lớn người khác, như Nguyễn
Lương Bằng, sau đó về nước hoạt động. Chương trình học tập
gồm:


Học "nhân loại tiến hóa sử", nhưng chủ yếu học thời kì tư bản
chủ nghĩa cho tới đế quốc chủ nghĩa; sau đó học lịch sử vận
động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ, lịch sử mất
nước của Việt Nam.



Chủ nghĩa Mác-Lenin, học có phê phán chủ nghĩa Tam dân và
chủ nghĩa Gandhi.




Phần sau là về tổ chức: lịch sử và tổ chức ba Quốc tế Cộng sản,
các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ,
quốc tế nông dân.



Phần cuối là về vận động quần và tổ chức quần chúng, bài tập
là các buổi thực tập. Sau mỗi tuần có "báo cáo học vấn" tại các
tiểu tổ, học viên tự kiểm tra, phê bình và tự phê bình lẫn nhau.


7
Ông cũng lập ra tờ Thanh niên làm cơ quan phát ngôn của hội tới
tháng 2 năm 1930, tờ này ra được 208 số. Cuốn Đường Kách
mệnh tập hợp các bài giảng của ông, được Hội Liên hiệp các dân
tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Ông cho rằng để cách
mạng thành công, phải coi học trị, nhà bn, điền chủ nhỏ đều là
bầu bạn của cách mạng. Tư tưởng này của ông trong đầu thập
niên 1930 đã vấp phải sự phê phán của một số người cộng sản
Việt Nam khác. Ngoài ra, trong thập niên 1920, một trong những
quan điểm của ông về cách mạng là: cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa có thể bùng nổ và gi0ành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.
Tháng 5 năm 1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đặt những
người cộng sản ra ngồi vịng pháp luật, ông rời Quảng Châu đi
Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi
Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống
chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12
năm 1927 tại Bruxelles, Bỉ. Sau đó, ơng cũng qua Ý.

2. Hoạt động lí luận
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm có giá trị có
thể kể đến như: Đơng Dương (1923-1924), Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927), Công tác quân sự của Đảng
trong nhân dân (1928), Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều
lệ vắn tắt (1930).
a. Đặc biệt, năm 1927, Người xuất bản “Bản án chế độ thực
dân Pháp” là một lời buộc tội rất mạnh mẽ. Người đưa ra luận
điểm nổi tiếng: Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có hai vịi,
“một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái
vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa”. Vậy nên,
“nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thơi, thì cái vịi kia vẫn
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống
và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Từ đó Người vạch rõ chủ
nghĩa thực dân khơng chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức,
mà đồng thời là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động chính quốc.

b. Bên cạnh đó tác phẩm Đường Kách mệnh cũng có vai trị
quan trọng trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức
cho sự thành lập chính Đảng cách mạng ở Việt Nam.


8
-

Tư cách một người cách mệnh: Nội dung gồm 3 phần: Tự mình
phải cần kiệm - liêm chính - vị công vô tư. Giữ chủ nghĩa cho
vững…; Đối người phải: với từng người thì khoan thứ. Trực mà

khơng táo bạo. Hay xem xét người; - Làm việc phải: Xem xét
hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đốn, dũng cảm, phục tùng đồn
thể.

-

Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới đạo đức của người cộng sản. Đó là phải có đức và tài, trí và
dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng sản. Đó là con
người một lịng một dạ. Đó là con người có tổ chức, gắn bó với
tổ chức, với đồn thể. Đồng thời biết phát huy năng lực cá
nhân. “Tư cách người cách mệnh” có giá trị khoa học và giáo
dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam.

-

Con đường cách mệnh: Tác giả xác định các loại cách mạng: Tư
bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh
độc lập năm 1776; Nhật cách mệnh năm 1864; Dân tộc cách
mệnh như: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu đuổi Mãn
Thanh 1911; Giai cấp cách mệnh như cơng nơng Nga đuổi tư
bản và giành lấy chính quyền 1917. Tác giả giải thích nguyên
nhân sinh ra các loại cách mệnh ấy. Tác giả phân tích kỹ Cách
mạng tư sản Pháp 1789, Cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách
mạng Tháng Mười Nga 1917 và chỉ ra kinh nghiệm lịch sử của
các cuộc cách mạng này. Từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đã
định hướng cho cách mạng Việt Nam là đi theo con đường Cách
mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.

-


Về lực lượng cách mệnh: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ:
Cơng nơng là người chủ cách mệnh “là vì cơng nơng bị áp bức
nặng hơn, là vì cơng nơng là đơng nhất cho nên sức mạnh hơn
hết, là vì cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất
một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan
góc”. “Học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp
bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu
bạn cách mệnh của cơng nơng thơi”.

-

Về đồn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng
Việt Nam phải đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn: Cách mạng Việt Nam phải đứng
hẳn về phía phong trào cơng nhân và phong trào giải phóng
dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế
giới; Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới,
giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này;
Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính
quốc là tác động qua lại. Cách mạng thuộc địa không thụ động


9
ngồi chờ cách mạng chính quốc. Với những luận điểm trên, tác
phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế của
Đảng, và đặt cơ sở cho sự giúp đỡ của quốc tế trong thời kỳ
thành lập Đảng.
-

Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng,

phương pháp cách mạng giữ vai trò hết sức quan trọng. Đó là:
Phải làm cho dân giác ngộ; Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa
cho dân hiểu; Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược
cho dân; Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả
dân chúng chứ không phải việc của một hai người”; Phải biết tổ
chức dân chúng lại; Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.

-

Về Đảng Cộng sản, Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho
sự thắng lợi của cách mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
“Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí
khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
*Ý nghĩa của tác phẩm “Đường Kách mệnh”
- Tác phẩm Đường Kách mệnh có vai trị quan trọng trong việc
chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính
Đảng cách mạng ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ và đông đảo
quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng sự thống nhất trong
nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng. Tác phẩm khắc
phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương,
chủ nghĩa quốc gia; xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai
cấp cơng nhân.
Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai
cấp công nhân cho cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra

được đường hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cơ sở
cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tác phẩm
Đường Kách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu
nước, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ.


10
Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới
chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ
thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng như công
hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để Đảng tập hợp quần
chúng, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
- Tác phẩm Đường Kách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận
cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt
Nam đã được hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng
rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương
pháp lịch sử và lơgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách
mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga,
rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có
cách mạng vơ sản mới giải phóng được dân tộc.
Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của tác giả. Ví dụ: Lênin cho
rằng, cách mạng thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi
có sự giúp đỡ của cách mạng chính quốc, khi cách mạng vơ
sản chính quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác phẩm phát hiện
thêm rằng, cách mạng thuộc địa có thể thành cơng trước cách
mạng vơ sản ở chính quốc và tác động tích cực đối với cách
mạng chính quốc.

Chủ nghĩa Mác - Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân
tộc. Tác phẩm chỉ rõ dân tộc và giai cấp kết hợp với nhau, giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản...
Tác phẩm Đường Kách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn
lao, tạo ra sự chuyển biến căn bản, nhanh chóng trong nhận
thức và hành động cách mạng của cán bộ và đông đảo quần
chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở Việt Nam đã có sự thống nhất
về tư tưởng chính trị và tổ chức. Đó là điều kiện trực tiếp giữ
vững sự thống nhất trong Đảng ngay từ khi mới thành lập cũng
như sau này. Tác phẩm Đường Kách mệnh là một kho tàng tri
thức lý luận cách mạng Việt Nam, là sự thể hiện tư tưởng cơ
bản của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Giá trị của tác phẩm càng được
khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác -


11
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động.
c. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt
(1930) do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành
lập đảng thơng qua là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng
Cộng sản Việt Nam. Những điểm chủ yếu của Cương lĩnh chính
trị đầu tiên:
- Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định các giai đoạn, đối
tượng và nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở Việt
Nam:
Chánh cương vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo,

nêu rõ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tiến trình cách mạng Việt Nam gồm
hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là tư sản dân quyền cách mạng
trong đó có nhiệm vụ thổ địa cách mạng và giai đoạn thứ hai là thế
giới cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Chánh cương vắn tắt khẳng định đế quốc và phong kiến đều là
đối tượng phải đánh đổ trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai
nhiệm vụ này không thực hiện đồng loạt. Nhiệm vụ chống đế quốc,
giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống
phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước,
nhằm tập trung vào kẻ thù chính là bọn đế quốc xâm lược và bọn
phong kiến và bọn tay sai.
Chánh cương vắn tắt chỉ rõ những nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng về các phương
diện xã hội, chính trị và kinh tế.Chánh cương xác định, về phương
diện xã hội là dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố; về phương diện chính trị
cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hồn tồn độc lập, dựng
ra chính phủ cơng - nơng binh, tổ chức ra quân đội công nông; về
phương diện kinh tế phải thu hết sản nghiệp lớn như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng, v.v. của đế quốc Pháp giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo, v.v..
-

“Sách lược vắn tắt của Đảng” đề ra đường lối tập hợp và lôi
kéo quần chúng

Sách lược vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, gồm
năm điểm, xác định Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải

thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình và làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng. Đồng thời, Đảng phải thu phục cho


12
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ
địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên và
Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe giai cấp vơ sản. Cịn đối với bọn
phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, rồi làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Xuất phát từ đường lối đã xác định trong Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt chủ trương thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân,
phát huy sức mạnh đoàn kết rộng rãi của toàn dân tộc chống đế
quốc. Đồng thời, Sách lược vắn tắt vẫn nhấn mạnh nguyên tắc hợp
tác giai cấp của Đảng, trong khi liên lạc với các giai cấp, phải thận
trọng, khơng nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
con đường thoả hiệp. Đảng phải đồng thời tuyên truyền và liên lạc
với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp
vô sản Pháp.
-

“Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” quy định
những vấn đề quan trọng về mục tiêu, tổ chức, hoạt động và
kỷ luật của Đảng

Điều lệ vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác
định tên gọi, tôn chỉ mục đích, lệ vào Đảng, hệ thống tổ chức, trách
nhiệm đảng viên, quyền lợi đảng viên, các cấp uỷ Đảng, kinh phí và

kỷ luật của Đảng. Những vấn đề ghi trongĐiều lệ vắn tắt của Đảng
đã xác định tính chất và nguyên tắc tổ chức của chính đảng mácxít
chân chính và cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
*Ý nghĩa của tác phẩm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, điều lệ vắn tắt
Các tác phẩm, các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, là sự kế thừa và kết tinh những quan
điểm lý luận mà Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên trong Báo cáo về Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ và Đường cách mệnh. Với sự ra đời của các
tác phẩm này, đường lối và phương pháp, chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam - nhất là của cách mạng giải phóng dân
tộc, tính chất và ngun tắc tổ chức Đảng - đội tiền phong của giai
cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và từng bước cụ thể
hố. Đây thực sự làCương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có ý
nghĩa chỉ đạo đối với tồn bộ q trình cách mạng, nhất là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Các tác phẩm này thể
hiện tinh thần cách mạng triệt để và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc
khi kết hợp lý luận với thực tiễn, nhất là vận dụng chủ nghĩa Mác -


13
Lênin vào việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trước hết là thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đã chứng minh tính khoa học và cách
mạng của những tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong các tác phẩm
quan trọng này.
3. Thời kì hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam
a. Con đường cách mạng Việt Nam

Trong giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc có
những hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú,
sôi nổi trên địa bàn nước Pháp (1921-1923), Liên Xô (1923-1924),
Trung Quốc (1924-1927), Thái Lan (1928- 1929). Trong khoảng thời
gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình
thành về cơ bản.
Người viết nhiều bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân, đề cập đến
mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ
sản ở chính quốc. Khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927), Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng (Chánh cương vắn tắt. Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt) (1930) và nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là
sự phát triển và tiếp tục hồn thiện tư tưởng, cách mạng về giải
phóng dân tộc. Những tác phẩm có tính chất lý luận nói trên chứa
đựng những nội dung căn bản sau đây :
Bản chất của chủ nghĩa thực dân là "ăn cướp" và "giết người". Vì
vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Cách
mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường
cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới.
Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động,
giải phóng giai cấp cơng nhân. Cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng
khít với nhau, nhưng khơng phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải
phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vơ
sản chính quốc. Ở đây, Nguyễn Ái Quốc muốn nhấn mạnh vai trị
tích cực, chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh
giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân.



14
b. Về Mục tiêu của cách mạng
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo
con đường cách mạng vơ sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với
giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân, phải
kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với
một xuất phát điểm duy nhất là lòng yêu nước thương nòi. Người
muốn ra nước ngoài, “xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào
rồi sẽ về giúp đồng bào mình”. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã
hội Pháp vì đó là tổ chức duy nhất bênh vực quyền lợi của các thuộc
địa mà chưa hề có nhận thức rõ ràng về Chủ nghĩa Mác – Lênin, về
Chủ nghĩa xã hội. Đúng như sau này, Người đã thổ lộ: “Lúc bấy giờ,
tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tơi
chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tơi kính u Lênin vì
Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình;
trước đó, tơi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết.
Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ơng bà” ấy(hồi đó tơi gọi các đồng chí của tơi như thế) – đã tỏ đồng tình với tơi,
với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Cịn như Đảng là gì,
cơng đồn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tơi
chưa hiểu.” (Con đường dẫn tơi đến chủ nghĩa Lênin – Bài viết cho
tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân dịp kỷ niệm lần thứ
90 ngày sinh của V.I.Lênin, năm 1960.)
Tháng 7 năm 1920, một sự kiện có tính chất bước ngoặt xảy ra
với Hồ Chí Minh, khi lần đầu tiên Người đọc trên báo Nhân đạo của
Đảng xã hội Pháp “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin. Theo Người thì tuy bài báo có những khái niệm chính trị khó
hiểu nhưng “cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tơi cũng hiểu được

phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao? Tơi vui mừng đến phát khóc lên”.
Từ đó, Người hồn tồn tin theo Lênin, ủng hộ Quốc tế III.
Đó cũng là cơ sở cho quyết định lịch sử của Hồ Chí Minh 5 tháng
sau đó, tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp tại
Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và
tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người trở thành người cộng
sản Việt Nam đầu tiên. Người đã đi từ Chủ nghĩa yêu nước đến với
Chủ nghĩa Mác Lênin.
Hồ Chí Minh khẳng định: bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết
nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Mác – Lênin. Người viết: muốn giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác là con đường cách mạng vơ sản. “Chỉ có chủ


15
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”.
Từ đó, Hồ Chí Minh ra sức tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin
vào trong nước, thành lập Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi đến thành công.
c. Lực lượng lãnh đạo
Giai đoạn 1920 -1930 là những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
cho việc tập hợp lực lượng của các dân tộc thuộc địa, và sự phát
triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thúc đẩy việc
thành lập các cơ quan liên hiệp hành động giữa các nước thuộc địa
và giữa phong trào cách mạng các dân tộc bị áp bức với phong trào
cơng nhân ở chính quốc. Với vai trị tích cực của Nguyễn Ái Quốc,
"Hội Liên hiệp thuộc địa" ra đời (1921). Với sự uỷ nhiệm của Quốc tế
Cộng sản và trong cương vị Uỷ viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục

phương Nam của Quốc tế III và với tư cách là Uỷ viên Hội đồng Quốc
tế Nơng dân, Người đã góp phần cổ vũ, giúp đỡ phong trào cách
mạng và tham gia vào việc thành lập một số đảng công nhân ở vùng
Đông Nam Á; tham gia với tư cách là một thành viên trong phái đồn
cố vấn của Liên Xơ bên cạnh Chính phủ Tơn Trung Sơn, v.v.. Người
cũng có điều kiện tham dự nhiều diễn đàn lớn, nơi hội tụ trí tuệ của
các trào lưu cách mạng thời đại, đấu tranh cho sự đoàn kết và thống
nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và giữa các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Sau Đại hội Tua, Nguyễn Ái
Quốc cịn tham dự và đấu tranh sơi nổi ở Đại hội lần thứ nhất của
Đảng Cộng sản Pháp (1922), Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất
(1923), Đại hội "Liên đoàn chống đế quốc" (Brúcxen, 1927) và các
Đại hội của tổ chức Công hội, Thanh niên , Phụ nữ quốc tế, các diễn
đàn và tổ chức khu vực như Hội nghị thành lập "Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức" (phương Đông) ở Trung Quốc, ... nhưng quan trọng
nhất là Người đã tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (1924)
- đại hội đầu tiên của Quốc tế Cộng sản có đại biểu người Đông
Dương và cũng là đại biểu duy nhất của các nước thuộc địa của thực
dân Pháp tham dự.
Trong giai đoạn này, Nguyễn Ái Quốc là người đã không dừng ở
tố cáo chế độ thực dân mà bằng nhiều biện pháp khác nhau góp
phần thức tỉnh, động viên nhân dân các dân tộc bị áp bức cũng như
đồng bào ở xứ sở mình đứng lên đấu tranh theo con đường mới, bảo
đảm đem đến thắng lợi cuối cùng. Nguyễn ái Quốc ln chǎm lo đến
việc xây dựng lực lượng nịng cốt, lãnh đạo cuộc đấu tranh và đưa
phong trào giải phóng thuộc địa đi vào quỹ đạo cách mạng vơ sản.
Bằng nhiều phương thức hoạt động khác nhau, Người đã góp phần
tạo ra cơ sở nhận thức đúng về sự cần thiết phải phối hợp giữa cách



16
mạng ở các nước thuộc địa với phong trào cách mạng địi quyền dân
sinh, dân chủ ở chính quốc.
d. Lực lượng tham gia
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu do vậy nông dân là lực
lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột
nặng nề. Vì vậy muốn cách mạng thắng lợi cần phải thu phục, lôi
cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối công nông liên minh
làm động lực cho cách mạng. Đồng thời phải tập hợp rộng rãi các
giai tầng khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh viết:
“Đảng phải thu phục cho đươc đại đa số dân cày và phải dựa vững
vào hạng dân cày nghèo”. Đồng thời lại “phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức trung nơng…để lơi kéo họ về phe vơ sản giai
cấp. Cịn đối với phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho
họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh
đổ”. Đây là quan điểm thể hiện tầm cao của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người đã vượt qua được những hạn chế của các đồng chí đương thời
của mình, thường nhấn mạnh q cao vấn đề đấu tranh mà không
chú ý tận dụng được sức mạnh đoàn kết dân tộc để đánh đổ kẻ thù
chung, đáp ứng yêu cầu khẩn thiết nhất của lịch sử.
e. Phương pháp cách mạng
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, của cả dân
tộc đại đồn kết. Vì vậy, cần tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu
tiên của Nguyễn Ái Quốc về nghệ thuật vận động quần chúng đấu
tranh cách mạng. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền,
giành lại độc lập tự do bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng
phượng thức khởi nghĩa dân tộc.

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm lịch sử từ các
vị tiền bối. Người luôn khâm phục, đánh giá các cụ Phan Đình Phùng,
Hồng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là những vị
anh hùng dân tộc, yêu nước thương dân nhưng phương pháp đấu
tranh của các cụ chưa đúng và Người khơng đồng tình.
Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu Người Pháp thực hiện cải lương.
Người nhận ra điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng
thương.
Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó
rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.


17
Cụ Hồng Hoa Thám cịn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh
chống Pháp nhưng nặng cốt cách phong kiến.
Hồ Chí Minh thấy rằng chỉ có bằng bạo lực của quần chúng nhân
dân, và phải tự dựa vào mình “đem sức ta mà giải phóng cho ta”,
chứ khơng thể ỷ lại trơng chờ bên ngồi. Đó là những nhận thức
đúng đắn đem lại nền độc lập cho nước ta ngày nay.


18
PHẦN 3. PHẦN KẾT LUẬN
Có thể nói trong 10 năm hoạt động sôi nổi, từ cuối năm 1920
đến đầu năm 1930, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
vô sản trên thế giới cũng như phong trào giải phóng dân tộc trong
nước, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất tích cực, sơi nổi. Người đã nhận
thức và hiểu được các quy luật vận động và phát triển của phong
trào cách mạng trong nước và thế giới, từ đó Người tiếp cận với ánh
sáng Chủ nghĩa Mác- Lênin, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam,

đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từ một người có lịng u nước chân chính trở thành
người cộng sản. Trong q trình ấy, các tư tưởng cơ bản về cách
mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển, được
chính Người vận dụng và rèn dũa, trong đó có rất nhiều điểm sáng
tạo với chủ nghĩa Mác Lênin. Sau một thế kỷ, cho tới nay những tư
tưởng ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp. Để
phát huy, học hỏi và củng cố hệ thống tư tưởng ấy, ngày nay chúng
ta cần vừa nghiên cứu tiếp tục thực hiện, vừa bổ sung những nội
dung mới vào hoạt động thực tiễn đang thay đổi theo từng ngày,
từng giờ, phù hợp với sự tiến bộ và phát triển của xã hội.


19
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh/Bộ giáo dục và đào tạo. Chủ
biên Mạch Quang Thắng.
2. />


×