Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thể chế kinh tế và môi trường pháp lý với vấn đề quản trị doanh nghiệp ở Việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.32 KB, 11 trang )

Thể chế kinh tế và môi trường pháp lý với vấn đề quản trị doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay
Luật gia Vũ Xuân Tiền (*)
“QTDN, là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng,
vận hành và kiểm soát mọi hoạt động của DN, bao hàm những quan hệ nội bộ
DN như các đồng sở hữu, giám đốc điều hành; HĐQT, các kiểm soát viên và
những quan hệ với các bên có lợi ích liên quan bên ngồi: cơ quan QLNN, các
đối tác KD và mơi trường, cộng đồng, xã hội”.
I- QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
1.

Khái niệm và nội dung quản trị doanh nghiệp

Thế nào là quản trị doanh nghiệp? Đó là câu hỏi rất quan trọng và đã có khá nhiều
cách lý giải khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Một cách lý giải đơn
giản nhất, xuất phát từ định nghĩa về quản trị theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông
như sau: Quản trị là quản lý và điều hành một tổ chức, một cơng việc nhất định.
Trong đó, Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu,
mục tiêu nhất định; Điều hành là điều khiển mọi bộ phận và quy trình hoạt động
theo những nguyên tắc nhất định. Từ đó: Quản trị doanh nghiệp là việc tổ chức
và điều khiển mọi bộ phận và hoạt động của doanh nghiệp theo những yêu cầu,
nguyên tắc nhất định để đạt những mục tiêu được đặt ra từ trước đối với doanh
nghiệp.
Ngoài cách lý giải nêu trên, cách lý giải sau đây có nội dung cụ thể hơn và được sử
dụng nhiều hơn: “Quản trị doanh nghiệp, là một hệ thống các thiết chế, chính
sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát mọi hoạt động của doanh
nghiệp, bao hàm những quan hệ nội bộ doanh nghiệp như các đồng sở hữu, giám


đốc điều hành; Hội đồng quản trị, các kiểm soát viên và những quan hệ với các bên


có lợi ích liên quan bên ngoài: cơ quan quản lý Nhà nước, các đối tác kinh doanh
và môi trường, cộng đồng, xã hội”.
Với những cách hiểu trên, quản trị doanh nghiệp có những nội dung cơ bản sau
đây:
- Hình thành một cơ cấu tổ chức và quản lý hợp lý, đảm bảo sự công khai, minh
bạch để vận hành doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt nhất hoạt động kinh doanh và
thu được lợi nhuận tối đa.
- Giải quyết mâu thuẫn quyền lợi giữa người quản lý doanh nghiệp với chủ sở hữu
( Cổ đơng, thành viên góp vốn)
- Giải quyết mâu thuẫn giữa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số//thành viên góp vốn
lớn,bé.
- Vai trị của quản trị viên độc lập, các tổ chức kiểm tốn độc lập.
- Chính sách đãi ngộ với các nhà quản lý.
- Thủ tục phá sản doanh nghiệp;
- Quyền tư hữu;
- Việc thực thi các điều khoản luật và hợp đồng so sánh hai mơ hình quản trị doanh
nghiệp phổ biến trên thế giới Quản trị doanh nghiệp hoạt động thông qua cơ chế
bên trong và cơ chế bên ngoài. Cơ chế bên trong bao bồm: (1) Cổ đơng và Đại hội
đồng cổ đơng/thành viên góp vốn, (2) Hội đồng quản trị/hội đồng thành vêin và
các nhà quản lý công ty, (3) Các hệ thống kiểm soát nội bộ và (4) Chế độ lương,
thưởng và khuyến khích khác.
Những nội dung nêu trên được thực hiện với những chuẩn mực, biện pháp khác
nhau và mức độ tiên tiến, hiệu quả cũng khác nhau.
2.

Những nhân tố ảnh hưởng

Từ khái niệm và nội dung được trình bày khái quát trên, quản trị doanh nghiệp và
việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của hai nhóm nhân



tố sau đây:
Nhóm 1: Những nhân tố bên trong của từng doanh nghiệp. Nhóm này bao gồm
những nhân tố cơ bản sau:
a. Những đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp như: Thời gian tham gia hoạt
động kinh doanh trên thị trường; loại hình; quy mơ, lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp…
b. Quan hệ giũa các cổ đơng, thành viên góp vốn: Doanh nghiệp gia đình có
phương thức quản trị và nhu cầu nâng cao năng lực quản trị hoàn toàn khác với
doanh nghiệp đại chúng (Công ty TNHH nhiều thành viên khơng có quan hệ gia
đình; Cơng ty cổ phần đại chúng…);
c. Trình độ nhận thức của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
Nhóm 2: Những nhân tố bên ngồi doanh nghiệp. Nhóm này bao gồm:
a. Thể chế kinh tế như sự phân biệt đối xử, các thiết chế để bảo vệ quyền tự do,
dân chủ, quyền sở hữu tài sản….
b. Môi trường pháp lý: sự minh bạch trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và
tư pháp;
c.

Môi trường tự nhiên như: bão, lũ, lụt, biến đổi khí hậu…

d.

Mơi trường xã hội: Cấu trúc xã hội, dân số, dân cư, văn hóa, đạo đức xã hội…

Tham luận này chỉ phân tích tác động của hai nhân tố đầu trong nhóm những nhân
tố bên ngồi doanh nghiệp là thể chế kinh tế và môi trường pháp lý.
II-TÁC ĐỘNG CỦA THỂ CHẾ KINH TẾ TỚI VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.
Thể chế kinh tế là gì? Là những luật chơi trong hoạt động kinh doanh được qui

định bởi luật pháp. Vì vậy, với những luật chơi khác nhau thì mơ hình quản trị
doanh nghiệp và việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp cũng khác nhau.
Có thể khẳng định rằng, thể chế kinh tế của nước ta hiện nay đã tạo cho đại bộ
phận doanh nghiệp, trong đó, chủ yếu là các doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100%


vốn điều lệ (Sau đây gọi là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước) không thật sự quan
tâm đến quản trị doanh nghiệp và lại càng không quan tâm tới việc nâng cao năng
lực quản trị doanh nghiệp. Kết luận như trên xuất phát từ những luận cứ sau đây:
1.Mặc dù trên văn bản, các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đều có những “chủ
sở hữu” như Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, UBND cấp tỉnh…Nhưng về thực chất,
các doanh nghiệp này là những doanh nghiệp khơng có chủ sở hữu. Bởi lẽ, những
“chủ sở hữu trên giấy” sẽ không thể đủ điều kiện (ít nhất là về thời gian) để thực
hiện quyền của chủ sở hữu. Hơn nữa, quy định chủ sở hữu doanh nghiệp là Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch UBND…là một sự áp đặt khiên cưỡng vì đó
là những chính khách, đang hoạt động trên chính trường, khơng thể là một doanh
nhân. Là chính khách, quan chức, cơng chức họ chỉ được phép làm những gì pháp
luật cho phép, ngược lại, là một doanh nhân thì được làm những gì pháp luật khơng
cấm. Đó là một mâu thuẫn khơng thể dung hịa. Vì vậy, quan tâm đến công tác
quản trị doanh nghiệp và việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp đối với các
“chủ sở hữu” này có lẽ chỉ là câu chuyện hình thức mà thôi.
2.Những người được cử làm Đại diện ủy quyền của Chủ sở hữu trong các doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước không phải là chủ sở hữu. Họ cũng không thật sự quan
tâm đến công tác quản trị doanh nghiệp và nâng cao năng lực quản trị doanh
nghiệp vì hai lý do: Một là, nếu làm tốt công tác quản trị doanh nghiệp thì lợi
nhuận thu được có cao hơn cũng không phải của họ và thứ hai, lý do quan trọng
hơn, nếu làm tốt công tác quản trị doanh nghiệp, bảo đảm cơng khai, minh bạch
hơn thì hành vi tham nhũng, lãng phí sẽ khó thực hiện hơn. “ Nước khơng đục thì
cị khơng béo”! Đó là lẽ thường tình.
Để chứng minh cho những luận cứ trên, xin nêu một thông tin quan trọng sau đây:

Ngày 12-11-2010, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức
hội thảo "Thảo luận kết quả điều tra về quản trị doanh nghiệp Nhà nước (DNNN),
giám sát tập đoàn kinh tế nhà nước và khuyến nghị chính sách". Ðiều tra này được


thực hiện để làm cơ sở cho việc xây dựng đề án ‘Ðổi mới quản trị doanh nghiệp
theo thông lệ kinh tế thị trường và cam kết gia nhập WTO‘ do Bộ Kế hoạch và Ðầu
tư thực hiện, sẽ được trình Chính phủ vào cuối năm 2010.
CIEM đã thực hiện điều tra tại 400 DNNN bao gồm cả 12 tập đồn kinh tế và các
tổng cơng ty 90, 91. Kết quả điều tra cho thấy, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất
trong cách hiểu và nhận thức về bản chất và vai trò của quản trị doanh nghiệp.
Quản trị doanh nghiệp trong các tập đoàn, DNNN hiện nay đang cách xa với các
quy định pháp luật của Việt Nam liên quan đến quản trị doanh nghiệp và cách xa
thông lệ thị trường, chưa đáp ứng thông lệ về minh bạch thơng tin... Việc giám sát
các tập đồn kinh tế nhà nước và DNNN quy mơ lớn gặp nhiều khó khăn và khó
thực hiện khi chưa có mục tiêu giám sát tổng thể...Báo cáo cũng cho rằng, với các
DNNN, Giám sát nội bộ bị buông lỏng do: 100% số DN được điều tra thiếu công
khai, minh bạch thông tin; thiếu quy chế quản lý nội bộ và giám sát từ bên ngồi
kém hiệu quả do Thanh tra, kiểm tốn khơng kết luận được sai phạm; đại diện chủ
sở hữu chỉ tồn tại về hình thức!
3.Với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, quản trị doanh nghiệp
và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Lý do cơ bản thuộc về thể chế kinh tế là ở sự phân biệt đối xử vẫn còn rất nặng nề.
Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam
tồn tại các doanh nghiệp thuộc 5 loại: Doanh nghiệp Nhà nước; Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi; Doanh nghiệp dân doanh; các Hợp tác xã và các Doanh
nghiệp thuộc các Tổ chức chính trị, Chính trị- xã hội, các Hội nghề nghiệp, Bộ
Quốc phịng, Bộ Cơng an. Sau khi gia nhập WTO và đặc biệt là từ 1/7/2010, về lý
thuyết, nền kinh tế nước ta chỉ còn các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp và Luật Hợp tác xã (một loại hình doanh nghiệp đặc biệt). Song, trên thực

tế, vẫn còn nguyên vẹn các loại doanh nghiệp như trước đây. Quan trọng hơn nữa,
cho đến nay, theo quy định của pháp luật, các doanh nghiệp đang hoạt động trên


thương trường là bình đẳng. Song, Dự thảo Báo cáo chính trị sẽ được trình bày tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: "Phát huy quyền tự
do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng
góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được
coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trị chủ đạo". Khi Nghị quyết Đại hội Đảng đã chỉ đích danh một
bộ phận trong cộng đồng doanh nghiệp là "chủ đạo" thì việc "các chủ thể tham gia
thị trường đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn
minh..." sẽ không thể trở thành hiện thực. Điều đó có nghĩa là sự phân biệt đối xử
vẫn tồn tại. Khi đã bị phân biệt đối xử, các doanh nghiệp thuộc diện “khơng ở vị trí
chủ đạo” sẽ yếu thế trong việc huy động các nguồn lực như đất đai, tài nguyên, lao
động, nguồn vốn…phục vụ kinh doanh. Trong một cuộc cạnh tranh không cân sức,
các doanh nghiệp “không chủ đạo” chỉ có thể hoạt động cầm cự, cố gắng duy trì
hoặc chụp giật chớp nhống. Do đó, việc cải tiến quản lý, tiếp cận đến việc quản trị
doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế sẽ chỉ là…”ước mơ xa”!
III- TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ TỚI VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Môi trường pháp lý là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới vấn đề
quản trị doanh nghiệp. Qua hơn 20 năm đổi mới, do đòi hỏi của thực tiễn khách
quan và sức ép khi gia nhập WTO, môi trường pháp lý của nước ta đã có những
tiến bộ đáng kể. Đó là điều khơng thể phủ nhận. Tuy nhiên, bàn về tác động của
môi trường pháp lý tới vấn đề quản trị doanh nghiệp, có thể khẳng định rằng, hiện
nay môi trường pháp lý của nước ta chưa tạo ra động lực để các doanh nghiệp phải
quan tâm tới việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, hướng tới những chuẩn
mực về quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế.
Trước hết, doanh nghiệp sinh ra là để kinh doanh và săn tìm lợi nhuận. Để đạt được

mục đích đó, các doanh nghiệp có nhiều cách khác nhau, ít nhất có thể nêu ba cách


sau đây:
1.Lách luật để trốn thuế, gian lận thuế, trốn tránh các nghĩa vụ đối với người lao
động và bảo vệ môi trường;
2.Liên kết và hoạt động dưới sự bảo kê của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực
để thu được những khoản lợi nhuận siêu ngạch;
3.Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp để tăng năng suất lao động, tăng chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường.
Trong ba cách đã nêu trên, cách thứ ba phức tạp hơn, đòi hỏi những điều kiện khắt
khe hơn và với một thời gian dài.Vì vậy, chỉ khi nào môi trường pháp lý không cho
phép hoặc bản thân chủ doanh nghiệp không đủ điều kiện để áp dụng cách thứ nhất
và thứ hai, thì doanh nghiệp mới tìm đến cách thứ ba. Đáng tiếc là, môi trường
pháp lý ở nước ta hiện nay đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều doanh
nghiệp áp dụng cách thứ nhất và thứ hai. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
của chúng ta rất đồ sộ nhưng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, rất dễ bị vô hiệu
bằng những công văn – một trong những văn bản dưới luật – và việc thanh toán
chủ yếu bằng tiền mặt hiện nay là môi trường vô cùng thuận lợi cho những hành vi
trốn thuế, gian lận thuế. Còn vi phạm nghĩa vụ nộp các loại bảo hiểm bắt buộc cho
người lao động và xả thải ra mơi trường thì gần như các doanh nghiệp đang vô tư
thực hiện mặc dù văn bản cấm thì khơng ít! Liên kết và hoạt động dưới sự bảo kê
của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực để thu được những khoản lợi nhuận siêu
ngạch cũng là phương thức rất hữu hiệu (và cũng không ít) của các doanh nghiệp
hiện nay.
Thứ hai, dấu ấn của cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp trước
đây vẫn còn rất nặng nề trong mối quan hệ giữa cơ quan công quyền thuộc bộ máy
Nhà nước. Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa thực sự là “Nhà nước dịch vụ” với
nhiệm vụ cung cấp cho nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp những dịch vụ công
thuận tiện nhất. Ngược lại, các cơ quan công quyền vẫn chủ yếu thực hiện việc



kiểm tra, giám sát với tư cách của một “Nhà nước cai trị”. Điều đó thể hiện ở hệ
thống khổng lồ những thủ tục hành chính, giấy phép con vơ lý…gây khó khăn cho
hoạt động kinh doanh. Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính đã triển khai
khá rầm rộ và cho biết, với 258 thủ tục ưu tiên cắt giảm đợt đầu, người dân và cộng
đồng doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được khoảng 30.000 tỷ đồng/năm. Song, con số đó
mới chỉ là “tính cua trong lỗ”. Bởi lẽ, để kết quả của Đề án đi vào thực tế phải sửa
trực tiếp 14 luật, 3 pháp lệnh, 44 nghị định, 8 quyết định của Thủ tướng và gần 100
quyết định cấp bộ.Ông Daniel Trnka, chuyên gia phân tích của Tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD), người chấp bút bản Báo cáo đánh giá về Đề án 30, theo
yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, nói “Người dân và giới doanh nghiệp địi hỏi
phải cụ thể hóa các tính tốn này bằng các thực thi thực tế”. Điều đó có nghĩa là,
việc đơn giản hóa thủ tục hành chính chưa có kết quả trên thực tế. Hệ thống các thủ
tục hành chính nhiêu khê, phiền hà và thiếu tính khả thi đã bắt buộc nhân dân và
cộng đồng doanh nghiệp phải “đối phó” bằng nhiều cách để được việc. Và, tất
nhiên, những “bài đối phó” đó khơng bao giờ trở thành chuẩn mực của quản trị
doanh nghiệp tiên tiến.
Thứ ba, tham nhũng - một trong những “ kẻ thù” của việc nâng cao năng lực quản
trị doanh nghiệp – vẫn đang là quốc nạn của nước ta. Dự thảo Báo cáo chính trị sẽ
được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định:
"Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện;
chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…. ". Tham nhũng
là vật cản vơ cùng lớn đối với việc thiết lập một hệ thống quản trị doanh nghiệp
tiến tiến theo thông lệ quốc tế. Bởi lẽ, tham nhũng sẽ thủ tiêu sự công khai, minh
bạch; làm rối loạn sổ sách kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp; tham
nhũng “cạnh tranh” gay gắt với các Nhà tư vấn – vốn được coi là “Bác sĩ” của
doanh nghiệp; tham nhũng cũng có thể đưa một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật
một cách nghiêm trọng thành những gương điển hình với những danh hiệu cao



q; tham nhũng có thể tơn vinh một số cá nhân vi phạm pháp luật đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự thành anh hung lao động, v.v… Với những tác động như
trên của tham nhũng thì việc cải tiến, áp dụng những biện pháp cần thiết để nâng
cao năng lực quản trị doanh nghiệp là một thách thức lớn.
III- VÀI KIẾN NGHỊ
Với những nội dung đã trình bày trên, trong phạm vi đánh giá tác động của hai
nhân tố thể chế kinh tế và môi trường pháp lý đến vấn đề quản trị doanh nghiệp,
xin có một vài kiến nghị sau:
Một là, nhanh chóng thực hiện chủ trương cổ phần hóa để giảm đến mức thấp nhất
số lượng các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Đây là vấn đề quan trọng nhất để
chuyển một bộ phận lớn các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước – vốn không thật
sự quan tâm đến vấn đề quản trị doanh nghiệp – thành những doanh nghiệp phải
quan tâm và đầu tư cho công tác quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, để giải quyết
vấn đề này, trước hết phải xác định lại nội dung về “Chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước XHCN”. Nhà nước XHCN có chức năng quản lý kinh tế. Điều đó khơng
ai phủ nhận. Song, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước không đồng nghĩa với
việc Nhà nước phải trực tiếp làm kinh tế, phải kinh doanh và cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác. Nhiệm vụ quan trọng nhất để thực hiện chức năng quản lý kinh
tế của Nhà nước là hình thành một hành lang pháp lý minh bạch, tạo điều kiện
thuận lợi cao nhất cho nhân dân kinh doanh và thu thuế. Tất nhiên, với vai trị
“nhạc trưởng” của mình, Nhà nước phải đầu tư, quản lý một số lĩnh vực quan trọng
có liên quan đến an ninh, quốc phòng và an sinh xã hội. Đó là những hoạt động đầu
tư khơng vì mục đích lợi nhuận và nhân dân, các doanh nghiệp không thể làm hoặc
khơng làm. Và cần có một lực lượng chun trách với năng lực quản trị doanh
nghiệp đủ điều kiện dể quản lý những doanh nghiệp này.
Thứ hai, xóa bỏ nguyên lý “Doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí chủ đạo”- nguyên lý
đã tồn tại trong một thời kỳ rất dài từ trước năm 1986 đến nay và tạo ra những biệt



lệ với các DNNN, cái nôi của tham nhũng, lãng phí. Khi đó mọi doanh nghiệp
trong nền kinh tế sẽ bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh; kinh tế tư nhân sẽ thực sự
được coi trọng và phát triển. Với một mơi trường thơng thống và minh bạch, quản
trị doanh nghiệp sẽ được các doanh nghiệp thực sự quan tâm và đầu tư cho lĩnh
vực quan trọng này. Điều đó sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của cộng
đồng doanh nghiệp – điều kiện quan trọng nhất để có thể nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng nâng cao
hơn nữa chất lượng văn bản khi ban hành, xử lý nghiêm tình trạng sử dụng công
văn để sửa hoặc bổ sung nội dung thuộc phạm vi của văn bản quy phạm pháp luật
và nhanh chóng sửa đổi những nội dung khơng phù hợp, gây khó khăn cho hoạt
động của các doanh nghiệp trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được “chỉ
đích danh” trong kết quả bước đầu của Đề án 30. Vấn đề quan trong hơn cả trong
nội dung này là đảm bảo chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành.
Một trong những điều kiện để đáp ứng được yêu cầu đó là triển khai thực hiện
phân tích đánh giá tác động pháp luật (RIA) trong quá trình làm luật. Từ tháng 32009, việc đánh giá RIA là bắt buộc khi ban hành các văn bản luật. Theo tính tốn
của OECD, việc thực hiện RIA sẽ làm phát sinh chi phí cho Chính phủ khoảng trên
10.000 đơ la hàng năm, nhưng lại có thể giúp tiết kiệm được 300.000 đô la do giảm
được thời gian dành cho việc ban hành các quy định không cần thiết cũng như thời
gian soạn thảo. Song, chưa có thơng tin nào cho thấy việc thực hiện các quy định
về RIA được thực hiện. Bộ Tư pháp có trách nhiệm báo cáo đánh giá nhưng chưa
có báo cáo nào được cơng bố.
Thứ tư, thực hiện quyết liệt hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đây là cuộc đấu tranh âm thầm nhưng quyết liệt, lâu dài và gian khó đối với toàn
Đảng, toàn dân ta. Việc cần làm trước hết là tổng kết, đánh giá việc thực hiện Luật
Phòng chống tham nhũng đã được ban hành và có hiệu lực trong 5 năm qua. Tuy


nhiên, có thể đánh giá rằng trong 5 năm qua, khá nhiều quy định quan trọng trong
luật PCTN đang…bị “treo”.Chẳng hạn, có thể nêu những nội dung đang bị “ treo”“treo” toàn bộ hoặc “treo” từng phần - gồm: quy định về Công khai, minh bạch

trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy định về kiểm tra và xử lý vi
phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn; quy định về minh bạch tài sản, thu nhập;
quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xẩy ra tham nhũng; quy định về cải cách hành chính, đổi mới cơng nghệ quản lý
và phương thức thanh tốn nhằm phịng ngừa tham nhũng….
Giải quyết tốt những vấn đề nêu trong bốn kiến nghị trên sẽ góp phần tạo ra một
mơi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch. Khi và chỉ khi đó, cơng tác quản trị
doanh nghiệp mới được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, các biện pháp,
chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp mới được các doanh nghiệp Việt Nam tôn
trọng và ứng dụng.
Bài tham luận tại Hội thảo "Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp".
(*) Ủy viên BCH Hội Luật gia Hà Nội Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty tư
vấn VFAM Việt Nam



×