Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN Nhập môn năng lực thông tin SO SÁNH CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (2 1930) VÀ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ (10 1930) CỦA ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.07 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
Mơn: Nhập mơn năng lực thơng tin

Tên đề tài:

SO SÁNH CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (2 - 1930) VÀ
LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ (10 - 1930) CỦA ĐẢNG

Giảng viên: TS. Trần Thị Thanh Vân
Ths. Nguyễn Thị Kim Lân

Hà Nội, tháng 8 năm 2021
0


MỤC LỤC......................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................ 3
1.

Lý do chọn đề đề tài.................................................................................................3

2.

Tổng quan nghiên cứu đề tài.................................................................................... 3

3.



Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 3

4.

5.

6.

3.1.

Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................3

3.2.

Nhiện vụ nghiên cứu...................................................................................4

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................ 4
4.1.

Đối tượng nghiên cứu..................................................................................4

4.2.

Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................4

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................... 4
5.1.

Cơ sở lý luận...............................................................................................4


5.2.

Phương pháp nghiên cứu.............................................................................4

Kết cấu của bài tiểu luận.......................................................................................... 5

PHẦN I: BỐI CẢNH NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ 1930............................................6
1.1. Bối cảnh quốc tế....................................................................................................... 6
1.2. Hồn cảnh trong nước..............................................................................................9
1.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam........................................................ 12
PHẦN II: BẢN CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (2-1930) VÀ LUẬN
CƯƠNG CHÍNH TRỊ (10-1930) CỦA ĐẢNG..............................................................15
2.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2-1930)..................15
2.2. Luận cương chính trị của Đảng (10-1930)............................................................. 16

1


PHẦN III: SO SÁNH HAI BẢN VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG.........................................19
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................. 21

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và hy sinh, giành nhiều thắng lợi

có ý nghĩa chiến lược và mang tính thời đại, làm cho đất nước, xã hội và con người Việt
Nam ngày càng đổi mới sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Với tất cả tinh thần
khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng Đảng ta thật vĩ đại!” [2,
tr. 2]. Từ đó, thấy được sự vĩ đại trong q trình ra đời cũng như lãnh đạo của Đảng xuyên
suốt lịch sử Việt Nam. Và để có thể hiểu rõ hơn những quan điểm, đường lối của Đảng từ
những ngày đầu thành lập, tôi lựa chọn đề tài So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên (21930) và Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng cho bài tiểu luận của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam cùng với Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên
(2-1930) đã đánh dấu một thời kì mới trong lịch sử Việt Nam - thời kì của sự đấu tranh
cách mạng kiên cường và anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm xóa
bỏ chế độ thực dân, xây dựng một nhà nước Việt Nam phát triển và thịnh vượng. Trong
quá trình lãnh đạo đó, Đảng đã có nhiều văn kiện quan trọng, một trong số đó là Luận
cương chính trị của Đảng (10-1903). Hai văn kiện quan này của Đảng cũng là điều kiện
để xác định đường lối cách mạng cho đất nước ta trong những năm tháng đầu sau khi
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Hai văn bản này tuy có thời điểm ra đời tương đối gần
nhau những cũng đã có những sự khác biệt, cho thấy Đảng đã có những quyết sách khác
nhau và phù hợp cho từng giai đoạn cụ thể trước những biến động ở cả xã hội trong nước
cũng như quốc tế.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài đó là phân tích Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 - 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1903). Từ


đó làm rõ q trình chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong thời kì 1930, cũng như để
làm



rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng một chính
đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, bài tiểu luận bao gồm những nhiệm vụ sau:
-

Chỉ ra và đánh giá tình hình trong nước cũng như quốc tế thời kì 1930

-

Làm rõ quá trình thành lập của Đảng Cộng Sản Việt Nam

-

Nghiên cứu Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1903)

-

So sánh và chỉ ra những điểm giống và khác nhau của hai văn bản trên

-

Đánh giá và đưa ra kết luận.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.


Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu chính của bài tiểu luận bao gồm Bản cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 - 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 –
1903). Ngoài ra, cũng nghiên cứu sơ bộ về quá trình thành lập của Đảng Cộng Sản Việt
Nam và những ảnh hưởng cả trong nước và quốc tế tới quá trình ra đời của Đảng.
4.2.
-

Phạm vi nghiên cứu:

Về khơng gian: bài nghiên cứu tập trung vào tình hình xã hội và chính trị ở Việt
Nam, nhưng cũng có chỉ ra một số vấn đề quốc tế có liên quan.

-

Về thời gian: thời kì 1930

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận

Bài tiểu luận dựa trên cơ sở thực tiễn về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cùng với đó là vận
dụng những kết quả của các bài nghiên cứu khác về lịch sử ra đời của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
5.2.


Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong bài tiều luận này là phương
pháp nghiên cứu lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu cũng như so sánh. Kết hợp với đó
là sự


vận dụng các lý luận về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để thực
hiện nhiệm vụ đề ra của bài nghiên cứu.
6. Kết cấu của bài tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của bài nghiên
cứu bao gồm ba phần:
Phần I: Bối cảnh xã hội nước ta trong thời kì 1930
Phần II: Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930) và Luận cương chính
trị (10-1930) của Đảng
Phần III: So sánh hai bản văn kiện của Đảng


PHẦN I:
BỐI CẢNH XÃ HỘI NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ 1930
1.1.

Bối cảnh quốc tế

Trong hoàn cảnh vị thế của các cường quốc tư bản chủ nghĩa ở phương tây được
củng cố sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng vơ sản đầu thế kỉ XX đã
có thời điểm tưởng chừng như sẽ thoái trào. Khi đã đạt được sự phồn vinh về kinh tế,
gánh nặng thất nghiệp trong xã hội được giảm bớt, đời sống của người dân tăng lên. Đã
có những lúc những nhà xã hội chủ nghĩa ở phương tây tính tốn đến việc hợp tác với chế
độ tư sản để tích lũy của cải, đi qua con đường tư bản chủ nghĩa để đạt được chủ nghĩa xã

hội một cách hịa bình.
Tuy nhiên sự hịa bình và ổn định trong những năm 1924 – 1929 là không thật sự
hiệu quả, trên thực tế đã không loại bỏ triệt để được những mâu thuẫn cơ bản trong lòng
xã hội tư bản chủ nghĩa như mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với công nhân lao động, càng
không khắc phục được những yếu kém, những nhược điểm vốn có của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế nổ ra ở nước Mĩ vào tháng 10-1929 và nhanh
chóng lan rộng ra tồn thế giới. Mức sản xuất của toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa giảm
tới 42%, trong đó về tư liệu sản xuất giảm 53% [3]. Cuộc khủng hoảng đã chấm dứt thời
kỳ “thăng bằng” và “ổn định” của các nước tư bản chủ nghĩa.
Cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài từ năm 1929 đến năm 1933, diễn ra ở tất cả các
ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, … quan trọng của giới tư bản
thời bấy giờ. Quá trình mậu dịch của thế giới cũng bị kéo theo giảm mạnh đáng kể.
Nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng này là do sức sản xuất của các quốc gia tư
bản phát triển quá nhanh trong thời gian ổn định, nhưng nhu cầu và sức mua của người
dân khơng tăng lên tương ứng, làm cho hàng hóa ngày càng bị mất giá và dần dần dẫn tới
sự suy thối trong sản xuất. Nước Mĩ là quốc gia có sự phát triển nhanh hơn trong thời kì
ổn định cũng chính là quốc gia đầu tiên chịu sự ảnh hưởng của cuộc đại suy thối. Và
cũng chính nước Mĩ là nước phải chịu những hậu quả nghiêm trọng nhất trong cuộc


khủng hoảng này. Cuộc đại suy thoái diễn ra ở gần như tất cả các nước tư bản chủ nghĩa,
tuy nhiên, ở các nước khác


nhau, thời điểm xảy ra cũng như mức độ ảnh hưởng là không giống nhau. Ở châu Âu,
Đức là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nền nhất khi có một nền kinh tế phải phụ thuộc vào
Mĩ rất nhiều. Nước Anh tuy cũng phải chịu một số tác động, tuy nhiên ở mức độ nhẹ hơn
và không gặp phải quá nhiều thiệt hại như Mĩ hay Đức.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 không những tàn phá nền kinh tế mà cịn
để lại những hậu quả vơ cùng to lớn về chính trị và xã hội cho chủ nghĩa tư bản. Trong

cuộc khủng hoảng này, số công nhân bị thất nghiệp trên toàn thế giới đã lên đến 50 triệu
người. Hàng triệu người mất nhà cửa vì phải trả những khoảng nợ. Hàng triệu nông dân bị
mất ruộng đất, phải sống trong cảnh nghèo đói. Cơng nhân khơng được trả lương. Ở nhiều
nước khơng có hệ thống bảo hiểm xã hội và thất nghiệp, người lao động không được trả
phụ cấp, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở mức độ rất ít ỏi, khơng thể đáp ứng được nhu cầu tối
thiểu của các gia đình nghèo khổ. Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng thế giới đã có
những biến chuyển quan trọng, từ tưởng như đã thoái trào tiến dần lên cao trào. Hàng
nghìn cuộc biểu tình và những cuộc tuần hành của người thất nghiệp đã diễn ra, ở nhiều
nơi đã xảy ra những cuộc đụng độ với cảnh sát và quân đội. Các cuộc đấu tranh, bãi công
chống việc hạ thấp tiền lương đã nổ ra ở hầu khắp các nước. Trong khoảng thời gian từ
năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở các nước tư bản đã lên tới 17
triệu người, số ngày bãi công lên tới 267 triệu [3].
Sự phát triển khơng đồng đều, thậm chí có sự khác biệt nhau về hình thức thống trị
giữa các nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành ngay từ những năm khủng hoảng kinh tế.
Các nước khơng có hoặc có ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguồn nguyên liệu và
thị trường đã chuyển qua đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị hịng cứu vãn
tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước như Đức, Italia và Nhật Bản là
điển hình cho xu hướng này. Các nhà độc tài ở các nước này như Mussolini hay Hitler đã
bắt đầu ráo riết triển khai, thi hành những chính sách cai trị đất nước và chuẩn bị cho
chiến tranh. Ngay cả nước Đế quốc Nhật Bản ở châu Á cũng thi hành những chính sách
quân phiệt và kí hiệp ước với các nước phát xít ở châu Âu, hình thành nên phe “trục”,
những mầm mống cho một cuộc chiến tranh thế giới mới đã dần xuất hiện.


Trong khi đó, các nước như Mĩ Anh, Pháp, … vì có nhiều thuộc địa, có nguồn vốn
cũng như thị trường nên đã dễ dàng thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh
tế
- xã hội một cách ôn hịa, cho nên chủ trương vẫn tiếp tục duy trì nền dân chủ đại nghị,
duy trì nguyên trạng hệ thống trật tự Versailles - Washington. Để thích nghị với những
điều kiện mới, những nhà cải cách ở những nước này đều tiến tới cải cách vai trò Nhà

nước cũng như sự kết hợp của nhà nước với các công ty tư bản lũng đoạn trong việc chi
phối toàn bộ đời sống kinh tế đất nước. Một thời kỳ mới trong sự phát triển cua tư bản
chủ nghĩa được mở ra: Thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn Nhà nước.
Quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa vào thời kì 1930 đã có những sự chuyển
biến hết sức phức tạp. Tác động của một cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu đã hình thành
nên hai khối đối lập, giữa một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Anh, Pháp, Mĩ.
Các cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối này báo hiệu cho một cuộc chiến tranh thế giới
mới sẽ nổ ra trong thập niên tiếp theo.
Tại nước Pháp, cuộc khủng hoảng kinh tế kéo đến muộn hơn, tuy nhiên lại diễn ra
theo một chiều hướng mạnh mẽ và sâu sắc. Ơ nước Pháp, các cuộc khủng hoảng công
nghiệp diễn ra xen kẽ với khủng hoảng nông nghiệp và tài chính. Sản lượng cơng nghiệp
của Pháp giảm 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5 và thu nhập của người
dân giảm tới 1/3. Cuộc khủng hoảng ảnh hưởng nghiêm trọng nhất tới ngành công nghiệp
nhẹ. Trong suốt thời kì của cuộc khủng hoảng, có tới 130 xí nghiệp dệt vải bị phá sản, sản
lượng tơ lụa và len năm 1934 giảm một nửa so với năm 1929. Sản xuất bị thu hẹp dẫn tới
nạn thất nghiệp. Năm 1935, có trên nửa triệu người Pháp bị thất nghiệp, những người vẫn
cịn việc làm thì cũng khơng khá hơn bao nhiêu, khi mà tiền lương bị giảm từ 30 đến
40%. Không chỉ công nhân, các tầng lớp khác trong xã hội cũng bi ảnh hưởng sâu sắc
trước tác động của cuộc khủng hoảng. Khoảng một vạn chủ xí nghiệp nhỏ, 10 vạn tiểu
thương bị phá sản; thu nhập của nơng dân giảm 2,7 lần [3]. Trước tình hình như vậy, giới
cầm quyền nước Pháp đã quyết định trút bỏ gánh nặng kinh tế cũng như xã hội lên giai
cấp công nhân, nông dân và người dân ở các quốc gia thuộc địa.


1.2.

Tình hình trong nước

Từ những năm cuối thập niên 20 của thế kỉ trước, nền kinh tế Việt Nam vốn đã bị
phụ thuộc nặng nề vào kinh tế nước Pháp, nay lại phải gánh chịu những hậu quả khủng

hoảng ở “chính quốc” nên lại càng suy sụp hơn và bước vào thời kỳ suy thoái, khủng
hoảng theo xu thế chung của thế giới. Những sự khủng hoảng bắt đầu từ nơng nghiệp. Lúa
gạo, vốn là sản phẩm chính của Việt Nam mất giá nghiêm trọng. Năm 1929, giá 1 tạ gạo
là 11 đồng, đến năm 1933, giảm xuống còn 3 đồng cho 1 tạ gạo. Ruộng đất thì bị bỏ
hoang ngày càng nhiều, năm 1933, diện tích ruộng đất bỏ hoang đã lên tới 370.000 ha [4].
Ngành công nghiệp khai khống cũng bị đình trệ, sản lượng khống sản, đặc biệt là than
giảm mạnh. Về tài chính, chính quyền thực dân đã ép đồng bạc Đông Dương phá giá.
Ngân sách Đông Dương phải chi trả cho bộ máy thống trị và góp vào quỹ nước Pháp, năm
1931 chi 77% và trả tiền vay nợ 3,5%.
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam gây ra ảnh hưởng rất nặng nề so với các
thuộc địa khác của Pháp, cũng như so với các nước khác trong khu vực. Hậu quả lớn nhất
mà cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra đối với xã hội nước ta là làm trầm trọng thêm tình
trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. 1/3 số công nhân bị thất nghiệp. Riêng
miền Bắc, 25.000 công nhân bị sa thải, những cơng nhân có việc làm thì bị giảm lương từ
30% đến 50%. Cuộc sống thợ thuyền ngày càng khó khăn. Nơng dân cũng phải chịu cảnh
thuế cao, vay nợ nặng lãi. Một suất sưu năm 1929 thì bằng với giá của 50kg gạo, đến năm
1933 là bằng 300kg gạo. Nơng phẩm làm ra thì phải bán với giá rất thấp. Ruộng đất thì
cũng bị các địa chủ chiếm đoạt. Đời sống nhân dân càng ngày càng bị bần cùng hóa.
Trong tác phẩm Nơng dân đồng bằng Bắc Kỳ, P. Gourou viết: “Người ta có thể cầm chắc
là nông dân sống ở mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ” [12, tr. 574].
Các tầng lớp lao động khác như tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, tri
thức cũng phải chịu những tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế. Địa chủ nhỏ
cũng sa sút. Môt số tư sản dân tộc bị phá sản, vỡ nợ. Trong xã hội Việt Nam thời kì này đã
nổi lên những mâu thuẫn vơ cùng gay gắt. Trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến.


Chính vì vậy, trong những năm cuối thập niên 20, phong trào công nhân và phong trào
yêu nước phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia.

Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đã có
những sự phát triển mạnh mẽ, địi hỏi phải có một sự lãnh đạo thống nhất của một đảng
cách mạng. Yêu cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc
đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, góp phần hình thành nên
các tổ chức cộng sản ở VIệt Nam.
Ngay từ năm 1928, thực hiện chủ trương Vơ sản hóa của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, nhiều cán bộ của hội đã về cơ sở, đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền,
cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền, vận động cách mạng, nâng cao
ý thức chính trị cho giai cấp cơng nhân. Phong trào cơng nhân vì thế càng ngày càng phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở Bắc Kỳ, từ đó lan rộng ra và trở thành nịng cốt của phong
trào dân tộc trong cả nước. Đã nổ ra những cuộc đấu tranh, bãi công của công nhân ở
nhiều nơi. Các cuộc bãi cơng khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi một xưởng, một địa
phương, một ngành mà đã bắt đầu có sự liên kết thành những phong trào chung. Một số
cuộc bãi công tiêu biểu của công nhân như: cuộc bãi công của công nhân mỏ than Mạo
Khê, đồn điền Lộc Ninh, nhà máy cưa Bến Thủy, …đã làm cho phong trào cách mạng ở
đây phát triển sơi nổi hơn. Từ những yếu tố đó, u cầu thành lập một đảng cộng sản để
có thể lãnh đạo tầng lớp công nhân, nông dân và tri thức cũng xuất hiện sớm hơn. Cuối
tháng 3 - 1929, một số nhà yêu nước tiên tiến đã họp ở tại nhà số 5D, phố Hàm Long (Hà
Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, bao gồm 7 đảng viên1, do Trần Văn Cung làm
Bí thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi đến thành lập một đảng cộng sản để thay thế cho
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Tháng 5 - 1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp
tại Hương Cảng (Trung Quốc) đã xảy ra những bất đồng giữa các đoàn đại biểu về vấn đề
thành lập đảng cộng sản. Đồn đại biểu Bắc Kỳ do Ngơ Gia Tự dẫn đầu đã kiên quyết đấu
tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu này đã không được Đại hội chấp nhận,
1 Bao gồm: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần
Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tơn


đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội về nước. Ngày 17 - 6 - 1929, tại nhà số 312 Khâm

Thiên (Hà Nội), đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định
thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất
bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và với sự ra đời của Đông Dương Cộng
sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên ở Trung Kỳ và Nam Kỳ đã vạch ra kế hoạch tổ chức đảng cộng sản. Một số hội viên
giác ngộ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc được tổ
chức thành một chi bộ với danh nghĩa chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng. Một số chi bộ
cộng sản lần lượt thành lập ở Nam Kỳ. Theo Hồng Thế Công2, An Nam Cộng sản Đảng ra
đời vào tháng 8-1929. Và đến khoảng tháng 11-1929, An Nam Cộng sản Đảng họp Đại
hội tại Sài Gịn để thơng qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và Ban Chấp hành Trung
ương Đảng [5].
Tuy hai tổ chức cộng sản trên hoạt động riêng rẽ với nhau, hay đơi khi có cả sự cơng
kích lẫn nhau trong q trình hoạt động, nhưng từ sự ra đời của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản là một xu thế phát triển khách quan
của phong trào cách mạng Việt Nam thời bấy giờ. Sự ra đời của Đông Dương cộng sản
Đảng (6-1929) và An Nam cộng sản Đảng (8-1929) đã có những tác động mạnh mẽ đến
Tân Việt cách mạng Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng là một tổ chức chính trị ra đời từ sự phân hóa nội bộ các
nhóm tiểu tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cách mạng vô sản và
tư sản trong phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam thời kỳ 1925 - 1930. Tiền thân của
Tân Việt cách mạng Đảng là Hội phục Việt (1925), sau đó đổi thành Hội Hưng Nam
(1926). Đến tháng 7 -1926, để giao thiệp với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ
chức đổi tên thành Việt Nam cách mạng Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí Hội.
Trong khoảng thời gian 1926 - 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Việt Nam
cách mạng Đảng nhiều lần bàn đến chuyện hợp nhất thành một tổ chức cách mạng để lãnh
đạo nhân dân Việt Nam giành độc lập, tuy nhiên khơng mang lại kết quả. Vì thế, đến
ngày 14-7-1928, Việt

13



2Hồng Thế Cơng là bút danh của Tổng bí thư Hà Huy Tập trong tác phẩm Sơ thảo lịch
sử phong trào cộng sản ở Đông Dương, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu năm 1933.

14


Nam cách mạng đồng chí Hội họp Đại hội ở Huể, quyết định đưa ra một tổ chức đảng, lấy
tên là Tân Việt cách mạng Đảng. Cũng cùng thời điểm này, Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đang có những bước phát triển mãnh mẽ về tư tưởng. Một số lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã có những ảnh hưởng
tới Tân Việt cách mạng Đảng, thu hút một bộ phận những đảng viên trẻ, tiên tiến chuyển
sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Điều này cũng làm cho trong nội bộ của Tân
Việt cách mạng Đảng có sự chia rẽ. Một số thành viên đã ngả hẳn theo Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên. Một số thành viên khác thì chuẩn bị để tiến tới thành lập một
chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Đến tháng 9-1929, những người tiến bộ
của Tân Việt cách mạng Đảng công bố Tuyên đại, nêu rõ “những người giác ngộ cộng sản
chân chính trong Tân Việt cách mạng Đảng trịnh trọng tuyên bố cùng toàn thể đảng viên
Tân Việt cách mạng Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng tơi đã
chính thức thành lập ra Đơng Dương Cộng sản Liên đồn” [6, tr. 404]
Như vậy, chỉ trong năm 1929, đã có đến ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Điều này chứng tỏ xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân
tộc ở Việt Nam trong thời kì 1930. Các tổ chức cộng sản sau khi ra đời đã nhanh chóng
xây dựng cơ sở ở nhiều địa phương trên cả nước và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo một số
cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với
phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp đoạt ruộng đất
và phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, đã tạo thành một làn sóng
đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ trên khắp cả nước.
1.3.


Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam

Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi cần phài có sự
lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ của ba tổ
chức cộng sản ở Việt Nam làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào cách mạng bị
phân tán. Điều đó khơng phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của
đảng cộng sản.
Ngày 27 - 10 - 1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài
liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, chỉ rõ: “Việc thiếu một Đảng
15


Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng
phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cuộc
cách mạng ở Đông Dương”. Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và
cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách
mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất
quần chúng ở Đơng Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở
Đông Dương” [6, tr. 614]. Tuy nhiên tài liệu này chưa hề đến được tay những người cộng
sản Việt Nam.
Cùng thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc đang ở Xiêm tìm đường về nước thì nhận được
tin trong nước bị phân chia thành nhiều tổ chức cộng sản khác nhau. Nguyễn Ái Quốc rời
Xiêm, sang Hương Cảng (Trung Quốc). “Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản
có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương” [7, tr. 19]. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập đại biểu của Đông Dương cộng
sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng, chủ trì một Hội nghị hợp nhất hai đảng tại Cửu
Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị chính thức bắt đầu họp ngày 6 - 1 - 1930.
Đại diện của An Nam cộng sản Đảng tham dự Hội nghị là Nguyễn Thiệu và Châu
Văn Liêm. Trong khi đó đại biểu của Đơng Dương cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và

Nguyễn Đức Cảnh. Tổng số đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng
sản Đảng cho tới Hội nghị hợp nhất là 310 đồng chí (ở Xiêm: 40 đồng chí, ở Bắc Kỳ: 204
đồng chí, ở Nam Kỳ: 51 đồng chí, ở Trung Quốc và các nơi khác: 15 đồng chí) [7].
Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ
chức cộng sản riêng rẽ và nêu chương trình Hội nghị. Sau đó, Hội nghị đã thảo luận và
hồn tồn nhất trí, tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương cộng sản Đảng và An
Nam cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thơng
qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của
Đảng. Nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra viết Lời kêu gọi cơng nhân,
nơng dân, binh lính, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột hãy gia nhập Đảng, đi theo
Đảng để đánh đổ đế quốc Pháp, chế độ phong kiến An Nam và tư sản phản cách mạng,
“làm cho nước An Nam được độc lập” [1, tr. 10]. Hội nghị cũng vạch ra kế hoạch hợp


nhất các tổ chức cộng sản khác trong nước và thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm
thời.


Sau hội nghị hợp nhất, ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước để thực hiện kế hoạch
hợp nhất các cơ sở đảng trong nước. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng được
thành lập, bao gồm Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc,
Hoàng Quốc Việt, Phan Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Sau đó,
các xứ ủy cũng được thành lập. Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Nguyễn Phong Sắc
làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ và Ngơ Gia Tự làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Ngày 24-2-1930,
theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời
họp và ra Quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng
sản Việt Nam [7, tr.26].
Việc Nguyễn Ái Quốc triệu tập và tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam “là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” [2, tr. 8]. Quá trình ra

đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai
cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. Từ sau Hội nghị này, con đường cách mạng giải
phóng dân tộc của nhân dân ta được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, một đảng có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ,
có đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung, nguyện suốt đời hi sinh cho lí tưởng của Đảng,
cho độc lập của dân tộc, cho tự do của nhân dân [1].


PHẦN II:
BẢN CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (2-1930) VÀ LUẬN CƯƠNG
CHÍNH TRỊ (10-1930) CỦA ĐẢNG
2.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 - 1930)
Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thơng qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện này
hợp thành bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, với nội dung cơ bản như sau:
Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam được độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nơng
Về kinh tế: tịch thu tồn bộ các sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho Chính phủ cơng
nơng binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo,
mở mang công nghiệp và nông nghiệp cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng
giáo dục theo hướng cơng nơng hóa
Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc
và phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc
Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân,
nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng
đất; lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông … đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú

nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít hơn mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì
phải đánh đổ.

19


Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi
nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào con đường thỏa hiệp [7].
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. “Đảng là đội
tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
Cách mạng Việt Nam làm một bộ phận của cách mạng thế giới, “liên kết với những
dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên toàn thế giới nhất là với quần chúng vơ sản
Pháp”
2.2. Luận cương chính trị của Đảng (10 - 1930)
Sau Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được bí mật đưa vào
quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và tiến tới cao trào. Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách
toàn diện trên cương vị đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của dân tộc. Tháng 41930, khi phong trào cách mạng 1930-1931 đang phát triển, sau một thời gian dài học tập
ở Liên Xô, Trần Phú vè nước tham gia hoạt động. Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung
vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và được phân công cùng Ban Thường
vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương. Giữa lúc đó, một
số ủy viên Trung ương lâm thời của Đảng bị địch bẳt. Một số ủy viên mới được bổ sung.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua quyết định
đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, thông qua Nghị
quyết “Về tình hình hiện tại ở Đơng Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng” và Điều lệ
Đảng; thảo luận bản Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ban Chấp

hành Trung ương mới của Đảng được thành lập gồm 6 ủy viên, trong đó Ban Thường vụ
có: Trần Phú, Ngơ Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, do Trần Phú làm Tổng Bí thư.


Hội nghị đã đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Hội
nghị hợp nhất thông qua đã “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh
đấu”,


Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của Quốc tế Cộng sản để
hoạch định cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng mà chỉnh đốn nội bộ. Hội nghị
đã thảo luận Dự án Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương. Luận cương
xác định:
Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên, với
“một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ phong kiến,
tư bản và đế quốc chủ nghĩa” [8].
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách
mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ
địa và phản đế”. “Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm ra xã hội cách
mạn.”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời
kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa” [8].
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các
di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt
để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập”. Hai
nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ mật thiết với nhau: “có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng được thắng lợi; mà có phá tan chế độ
phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề
thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh
đạo dân cày [8].
Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản và nơng dân là hai

động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vơ sản là động lực
chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nơng dân có số lượng đơng đảo nhất, là
một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngồi cơng nơng
như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, cịn tư sản thương
nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo
đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ cơng nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư
sản thương gia thì khơng tán thành cách mạng; tiểu tư sản tri thức thì có xu hướng quốc


gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia cách mạng trong thời kì đầu. Chỉ có các
phần tử lao khổ ở


đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, tri thức thất nghiệp mới đi theo
cách mạng thôi,
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương nhấn mạnh “điều kiện cốt yếu cho thắng lợi
của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường chánh trị
đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà
trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin
làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông
Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối
cùng của vơ sản là chủ nghĩa cộng sản” [8].
Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu cơ bản
của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơng
nơng thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Vì vậy,
lúc thường phải tùy theo tình hình mà đặt khẩu hiệu “phần ít”, “phải lấy những sự chủ yếu
hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng”.
Đến lúc có tình thế cách mạng “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh
phủ của địch và giành lấy chính quyền cho cơng nơng”. Võ trang bạo động để giành chính
quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh” [8]

Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai
cấp vơ sản Đơng Dương phải đồn kết, gắn bó với giai cấp vơ sản thế giới, trước hết là
giai cấp vô sản Pháp, và phải liên hệ mật thiết với phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách
mạng ở Đông Dương.


×