Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Bệnh sởi (Phần 2) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.53 KB, 7 trang )

Bệnh sởi
(Phần 2)



Cách phòng và chữa bệnh sởi

Đang mùa sởi, nếu trẻ có vẻ kém vui đùa, không chịu chơi như mọi ngày
thì các bà mẹ nên lưu ý xem có phải bị lên sởi hay không. Nếu thấy trán âm ấm,
lại có mụn lờ mờ ở dưới da; da mắt, dái tai hơi man mát thì đó là dấu hiệu sắp
mọc sởi.
Sởi thường xuất hiện nhiều vào cuối năm cũ, đầu năm mới. Không chỉ gây các
biến chứng như kiết lỵ ra máu mũi, tiêu chảy kéo dài, viêm phổi, sởi còn có thể là
nguyên nhân gây còi xương, suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi nếu
không được điều trị đúng.
Cách đề phòng tốt nhất là cho trẻ đi tiêm văcxin sởi. Về cuối năm, nên mua
nhiều cây mùi già có quả rắn chắc, buộc treo ở đầu nhà, hong gió cho khô giòn, vò lấy
hột và lá khô cho vào lọ đậy kín. Đến thời kỳ hay có bệnh sởi thì lấy một nắm nhỏ hạt
và lá mùi già cho vào 3 gáo nước đun sôi để gần nguội tắm cho trẻ. Trước khi tắm, nên
cho trẻ uống một thìa nước mùi. Cứ cách nửa tháng lại tắm một lần. Cách này có thể
đề phòng được bệnh sởi phát sinh, lại sạch và thơm. Nếu cẩn thận thì quần áo của các
cháu cũng thỉnh thoảng cho vào nồi nước mùi già để đun sôi.
Khi có bệnh sởi lan tràn, các bà mẹ nên cho trẻ cách xa nơi có bệnh. Những
người thân, cha mẹ có việc cần phải đến nơi có bệnh sởi thì khi vừa về tới nhà phải
thay giặt quần áo bằng nước sôi và tắm rửa sạch sẽ rồi hãy tiếp xúc với trẻ. Gia đình
nào đông các cháu mà lỡ có một cháu bị lên sởi thì phải ở riêng, không cho nằm
chung, chăn màn, giường chiếu phải giặt sạch.
Đang mùa sởi, nếu trẻ nào có vẻ kém vui đùa, không chịu chơi như mọi ngày
thì các bà mẹ nên lưu ý theo dõi ngay xem có phải bị lên sởi hay không. Nếu thấy trán
âm ấm lại có mụn lờ mờ ở dưới da, da mắt, da trán, dái tai hơi man mát thì đó là dấu
hiệu sắp mọc sởi. Lúc này nên kiêng nước, tránh gió và ủ cho ấm. Đồng thời, có thể


dùng một trong các bài thuốc dưới đây:
Hạt lá tía tô 30 g; sắn dây 25 g; kinh giới, mạch môn mỗi thứ 20 g; cam thảo 5
g. Tất cả sấy khô, tán bột mịn đóng gói 3 g. Trẻ em một tuổi uống ngày hai gói, 3 tuổi
uống ngày 4 gói, 5 tuổi uống ngày 6 gói: Hãm thuốc với nước sôi lọc trong hoặc uống
cả bã. Thuốc chỉ dùng trong 3 ngày, chỉ uống giai đoạn đầu, khi sởi đã mọc đều hoặc
trẻ bị tiêu chảy không nên uống.
Củ sắn dây một miếng to bằng hai bao diêm (gọt vỏ thái mỏng), cánh bèo cái
lấy độ năm cây (vặt bỏ rễ), kinh giới 10 ngọn (khô hoặc tươi, nếu có hoa càng tốt). Cả
ba thứ trên cho vào với nửa bát nước, đun sôi kỹ, gạn ra còn âm ấm cho uống rồi đắp
chăn cho kín gió. Đây là liều lượng thuốc của các cháu 1-3 tuổi. Nếu trẻ lớn hơn thì
tăng số lượng lên gấp hai; nếu dưới một tuổi thì chỉ cho uống một nửa số lượng trên.
Mỗi ngày sắc một thang cho uống. Uống hai ngày liền, sởi mọc ra đều thì thôi.
Lấy 5-6 lá cây hoa nhài, hoặc lấy một cái nấm hương, cho vào một chén nước,
đun sôi kỹ, để gần nguội cho uống. Trong khi mới lên sởi một hai ngày đầu, nếu trẻ có
tiêu chảy mỗi ngày 3-4 lần cũng không ngại, khi sởi mọc sẽ bớt tiêu chảy. Sởi mọc
được hai, ba ngày mà các cháu ho nhiều, có khi ho khản cả tiếng thì nên lấy độ 10 lá
diếp cá hoặc độ 20 lá cúc mốc, rửa sạch bằng nước muối, giã nhừ, vắt lấy nước cốt cho
uống từng thìa nhỏ, uống dần dần.
Những cháu có mụn sởi lờ mờ đã hai ba ngày không mọc ra được rõ, nên lấy
một nắm lá mùi già, đổ vào với hai bát nước đun sôi kỹ, để cho âm ấm, rồi lấy khăn
mặt sạch thấm nước đó lau cho cháu từ đầu đến chân. Hoặc lấy một nắm mùi già với
một chén rượu đun sôi để nguội rồi phun từ cổ đến chân và lưng bụng (tránh đầu, mặt).
Phun xong ủ ấm cho ra mồ hôi. Tiếp đó cho uống những vị thuốc đã nói trên. Chỉ nên
uống độ 2-3 thang. Thấy sởi đã mọc được rồi thì thôi.
Sau 3-4 ngày, sởi đã bay thì nên cho trẻ ăn các thứ dễ tiêu như: cháo đường,
canh rau ngót nấu cá trê, hoặc cá rô. Không nên cho ăn nhiều thịt. Nếu ăn thịt, chỉ nên
cho ăn thịt nạc, không nên cho ăn quá no. Nấu nước lá thơm gồm lá sả, lá kinh giới, lá
mùi già để lau cho sạch, không phải xông.
Sởi- Quai bị- Rubella-Bại liệt


MMR (Measles-Mumps-Rubella) là vaccin kết hợp cho trẻ em và người lớn
chống lại bệnh sởi, bệnh sởi Ðức (Rubella) và quai bị.
Có thể được dùng như vaccin cho một virus riêng lẻ hay vaccin cho hai virus
kết hợp.
Ðối tượng nào nên được chủng vaccin MMR ?
Rubella
Sự nhiễm Rubella trong thời kỳ đầu thai kỳ có thể dẫn đến sẩy thai, sinh con đã
chết (tử sản) và sinh con dị tật. Do đó vaccin MMR nên được chủng cho :
Tất cả trẻ em dưới một tuổi, liều bổ sung được chủng khi 4-6 tuổi hay 11-12
tuổi.
Tất cả phụ nữ tuổi sinh đẻ không chắc chắn đã được chủng ngừa khi nhỏ hay
không có xét nghiệm thử máu đã có miễn dịch.
Những nhân viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với Rubella và phải tiếp xúc với phụ
nữ có thai.
Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ nên xin ý kiến về việc chủng ngừa Rubella với bác sĩ của
họ.
Sởi
Nhiễm sởi có thể gây nên những lây nhiễm ở phổi và não nghiêm trọng ở người
lớn. Người lớn sinh trước năm 1956 thường miễn dịch với sởi và không cần tiêm
chủng sởi. Những người nên được tiêm ngừa (với MMR hay vaccin sởi) bao gồm :
Người lớn sinh sau năm 1956 không có bằng chứng miễn dịch vào hay sau lần
sinh nhật đầu tiên.
Những người du lịch từ nước ngoài.
Sinh viên mới vào đại học.
Nhân viên y tế sinh sau năm 1956 có nguy cơ tiếp xúc với bệnh nhân mang sởi.
Quai bị
Chủng ngừa quai bị được khuyên cho tất cả người lớn sinh sau năm 1957 là
năm đầu tiên vaccin được sử dụng (những sinh trước 1957 dễ nhiễm sởi hơn nên được
xem như đã có miễn dịch) và những người trước đây chưa từng được chủng ngừa hay
bị quai bị.

Vaccin MMR nên chủng ngừa như thế nào ?
Ðối với Rubella và quai bị chỉ một liều duy nhất MMR cho người lớn.
Ðối với sởi , 2 liều vaccin sởi hay MMR được chủng cho sinh viên và chuyên
viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với sởi. (Liều thứ 2 nên sau liều đầu tối thiểu 1 tháng).
Ðối với những người khác chỉ cần 1 liều.
Ðối với thai phụ và phụ nữ cho con bú
MMR được chế từ những virus sống đã được biến đổi từ những virus gây bệnh.
Tuy vậy, không có bằng chứng vaccin này gây sinh con dị tật, phụ nữ có thai nên được
chủng MMR.
Phụ nữ cũng mang thai nên tránh vừa tiêm chủng vaccin MMR hay bất kì
vaccin nào khác có chứa Rubella.
Ðối tượng không nên chủng vaccin MMR
Những bệnh nhân dị ứng với trứng hoặc có những phản ứng quá mẫn với
neomycin.
Phụ nữ có thai.
Bệnh nhân có hệ miễn dịch suy giảm.
Bệnh nhân có vi khuẩn lao hoạt động chưa được điều trị.
Việc chủng ngừa nên tạm hoãn trong những nhóm sau :
Người lớn đang bị bệnh cấp tính có sốt
Bệnh nhân đang điều trị liều cao corticosteroid như prednisone, cho đến tối
thiểu 3 tháng sau khi ngưng dùng corticosteroid.
Tác dụng chính và tác dụng phụ của vaccin MMR ?
Hơn 95% trường hợp có tác dụng lâu dài.
Tác dụng phụ của MMR bao gồm đau khớp hay viêm khớp có thể xảy ra 1-3
tuần sau khi chủng ngừa và kéo dài nhiều ngày đến nhiều tuần.
Tác dụng phụ khác bao gồm phát ban, sốt, và nổi hạch bạch huyết.
Poliovirus (virus bại liệt)
Có 2 loại vaccin ngừa virus bại liệt: vaccin có virus bại liệt sống đưa vào cơ thể
qua đường uống (OPV - oral live poliovirus vaccine) và vaccin virus khử độc tính
(IPV- inactivated poliovirus vaccine).

×