Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

kinh nghiem ren chu viet cho hoc sinh lop 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.36 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>I – PHẦN MỞ ĐẦU I.1 - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong sự nghiệp giáo dục, bậc tiểu học là bậc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị cho học sinh phương pháp và kỹ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng và phát huy tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Người xưa thường nói: "Nét chữ - Nết người" hàm ý về hai vấn đề này là: Thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người, thứ hai thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy "Viết chữ đẹp" vừa là mục đích, vừa là phương tiện của quá trình giáo dục toàn diện nhân cách học sinh. Hiện nay ở nhiều trường, học sinh viết chữ khá đẹp. Tuy nhiên vẫn còn một số ít phụ huynh học sinh phàn nàn về chất lượng chữ viết của con em mình. Trong các kỳ thi số học sinh bị điểm kém do nguyên nhân chữ viết và trình bày tuỳ tiện cẩu thả chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Vậy làm thế nào để dạy chữ viết - rèn nết người cho học sinh? Đây là một vấn đề khó nhưng không phải là không có cách giải quyết. Bằng những kinh nghiệm thực tiễn của mình nhiều năm liền được nhà trường phân công làm công tác tổ khối trưởng và giảng dạy ở khối lớp hai, trong phạm vi đề tài này tôi xin được trình bày về "Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 2" I.2 – MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI: Nhằm củng cố kiến thức, và phát huy nề nếp rèn chữ viết cho học sinh, hình thành kỹ năng, kỹ xảo viết chữ “đúng và đẹp” để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Là một giáo viên được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2 và làm công tác tổ khối từ những năm chưa có chương trình cải cách Sách giáo khoa cho đến sau này Bộ Giáo Dục và Đào Tạo thực hiện chương trình Sách giáo khoa mới; với những tình hình thực tế và yêu cầu của chương trình đã.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> khiến tôi trăn trở và rút ra một số kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh tiểu học đặc biệt là rèn chữ viết cho học sinh khối lớp 2 . I.3 – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 I.4 – GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Để đi sâu vào nghiên cứu về việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 2, tôi đã tiến hành điều tra nghiên cứu đối với học sinh lớp 2 Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc. I.5 – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp quan sát - Phương pháp đàm thoại - Phương pháp điều tra khảo sát - Phương pháp thống kê. II – PHẦN NỘI DUNG II. 1- Cơ sở lý luận: Hiện nay có những phương án dạy học Tiếng Việt khác nhau ở tiểu học . Đó là một xu hướng lành mạnh - điều đáng nói là các phương án này đều hướng tới một mục tiêu chung đó là giáo dục một cách toàn diện hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức và kỹ năng cơ sở thiết thực với cuộc sống cộng đồng, lòng tự tin, tính hồn nhiên, sự năng động và linh hoạt. Giúp học sinh có đầy đủ phẩm chất, ý chí và ước mơ đem sức mình đáp ứng được những nhu cầu phù hợp với xã hội trong thời đại mới. Môn Tiếng Việt ở tiểu học là một trong những môn học chiếm nhiều thời lượng trong chương trình. Dạy học sinh viết chữ được coi là một trong những yêu cầu cơ bản quan trọng hàng đầu, nhất là đối với học sinh lớp 1, 2. Nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định "Nét chữ nết người ". Rèn chữ viết là rèn tính cẩn thận, tỉ mỷ kiên trì, rèn khả năng thẩm mỹ, sáng tạo, tính chính xác khoa học, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô giaó và bạn bè,.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> những người thân trong gia đình khi đọc bài viết của mình. Như vậy việc rèn chữ viết tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác. Chính vì vậy trong những năm gần đây việc rèn chữ viết cho giáo viên và học sinh tiểu học là một việc làm rất quan trọng: Là một trong những mũi nhọn hàng đầu của phong trào thi đua trong nhà hiện nay. II.2 – THỰC TRẠNG: a. Thuận lợi-Khó khăn: *Thuận lợi: Trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc có đủ phòng học cho học sinh học. Bàn ghế của học sinh, bảng lớp được trang bị đúng qui định, ánh sáng trong phòng học đảm bảo, các lớp học được lắp toàn bộ bóng tuýp. Tài liệu chính để dạy học Tiếng Việt nói chung và tập viết nói riêng được thể hiện trên quyển Tiếng Việt. Học sinh luyện viết trên bảng con, vở ô li, vở tập viết. *Khó khăn Tình trạng chung của học sinh trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc nói riêng, học sinh trong toàn huyện Ea H’Leo nói chung khi học xong tiểu học một số em viết chữ còn xấu, cẩu thả, sai nhiều lỗi chính tả, chữ viết không đúng kích cỡ, không đúng mẫu, ... tất cả những lỗi này do nhiều nguyên nhân: Một phần là do sự thiếu cẩn thận của học sinh trong khi thực hiện những động tác viết như tư thế ngồi, cách cầm bút, để vở sai quy định, một phần do thiếu sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm, chưa sâu sát với từng đối tượng học sinh, coi thường môn tập viết chỉ là môn phụ, học sinh có viết đẹp hay viết xấu là do hoa tay của các em và còn nhiều lý do khách quan khác. Năm học 2003 - 2004 cả nước thực hiện việc thay sách giáo khoa cho lớp 2 và lớp 7, song song với việc thực hiện đó mẫu chữ viết trong trường tiểu học cũng được ban hành. Qua nhiều năm thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Đối với giáo viên:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Trình độ năng lực được phát triển lên rất nhiều qua quá trình được bồi dưỡng học tập, song những kinh nghiệm được đúc kết và rút ra bài học còn hạn chế; bị ảnh hưởng nhiều của phương pháp cổ truyền, việc đầu tư thời gian và công sức cho việc rèn chữ viết của học sinh chưa mang lại hiệu quả cao. Vẫn còn một số giáo viên coi nhẹ phân môn tập viết hơn các môn học khác như tôi đã nêu ở phần khó khăn. Họ cho rằng học sinh ở các lớp 1 và 2 chỉ cần đọc tốt và viết được chữ là đã tốt rồi, không nhất thiết học sinh phải viết chữ đúng, phải viết chữ đẹp ... Sự hiểu lệch lạc đó đã dẫn đến chữ viết mẫu của thầy cô trong vở “Rèn chữ viết” cũng thực sự viết chưa đúng mẫu và chưa đẹp cá biệt một thầy cô giáo còn viết sai mẫu quá nhiều, việc viết mẫu trên bảng lớp chỉ qua loa đại khái nên chưa tạo sự hấp dẫn, hứng thú và gây sự chú ý của học sinh, các em chưa thật sư say mê rèn chữ viết của mình. Đối với học sinh: Vừa bước sang giai đoạn học tập khác, các em chưa nắm chắc cách viết chữ theo kỹ thuật, chưa cẩn thận khi viết bài. Tỷ lệ học sinh viết chữ chưa đẹp, chưa đúng kỹ thuật còn khá cao. Để khắc phục tình trạng này của học sinh trước hết khi giảng dạy người giáo viên phải giúp học sinh nắm được cấu tạo của các con chữ và phương pháp viết các con chữ, để từ đó hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong tập viết chữ; yêu cầu học sinh phải tự suy nghĩ, tự độc lập sáng tạo, cẩn thận trong khi viết chữ, học sinh tự tìm ra được những sai sót của chính mình, của bạn mình ngồi cùng bàn cùng tổ cùng lớp rồi cùng nhau sửa chữa những sai sót mình mắc phải. Chính vì vấn đề đó mà tôi khảo sát chữ viết của học sinh qua một số bài tập viết đầu năm của lớp 2 tuần 1. Kết quả sau khi chấm điểm: Năm học 2008-2009 Lớp. 2A. Sĩ số. 28. Giỏi. Khá. SL. %. SL. %. 08. 28,6. 07. 25,0. Năm học 2009-2010. Trung bình SL %. SL. %. 09. 04. 14,2. 32,1. Yếu.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Lớp. Sĩ số. 2A. 25. Giỏi. Khá. SL. %. SL. %. 05. 20,0. 09. 36,0. Trung bình SL %. SL. %. 07. 04. 16,0. 28,0. Yếu. Năm học 2010-2011 Lớp. Sĩ số. 2A. 22. Giỏi. Khá. SL. %. SL. %. 05. 22,7. 07. 31,8. Trung bình SL %. SL. %. 07. 03. 13,7. 31,8. Yếu. b. Thành công-Hạn chế *Thành công: Học sinh đã dần dần viết đúng các con chữ và viết ít sai lỗi chính tả hơn. Đến giờ học Tập viết, Chính tả các em rất hứng thú. *Hạn chế: Do học sinh chưa chú ý đến độ cao và bề rộng của các con chữ dẫn đến viết chưa đúng. c. Mặt mạnh – Mặt yếu *Mặt mạnh. Đối với giáo viên nhiệt tình trong công tác, chịu khó học hỏi và đổi mới phương pháp dạy học, thương yêu học sinh, coi trọng việc rèn chữ cho học sinh. Đối với học sinh: Ngoan, hiền, chăm chỉ, có ý thức phấn đấu trong học tập, thích thi đua. *Mặt yếu. Giáo viên chưa quen với cách viết mẫu chữ hoa mới. Chưa thực sự coi trọng việc nghiên cứu tài liệu để tự bồi dưỡng nên dẫn đến tình trạng chưa có hệ thống kiến thức tổng hợp về chương trình dạy tập viết ở Tiểu học. Việc đổi mới phương pháp dạy học chưa đạt hiệu quả cao trong công tác giảng dạy. Chưa đầu tư thời gian vào việc rèn chữ cho học sinh. Chưa coi trọng việc sử dụng mẫu chữ tập viết mà chỉ khi nào có người dự giờ mới đem ra sử dụng..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Hướng dẫn học sinh viết qua loa, đại khái rồi cho học sinh viết ngay vào vở không sợ hết giờ. Chưa coi trọng phương pháp làm gương trước học sinh. Giaó viên chưa kịp thời sửa chữa những sai sót của học sinh nên tạo thành thói quen xấu cho các em như tư thế ngồi, cách cầm bút, để vở, viết các nét không đúng mẫu,... Học sinh thiếu tính kiên trì, ham chơi, nhiều em còn cẩu thả, chỉ chú trọng học những môn học khác, chưa có ý thức luyện chữ. Kỹ năng viết của học sinh chưa đúng qui định. Sự quan tâm của gia đình học sinh chưa được chú trọng. Bố mẹ chỉ lo làm ăn. Không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở việc học tập của các em ở nhà, nhiều khi đến lớp các em không có bút để viết do quên hay bút hết mực, hỏng ngòi,...đã ảnh hưởng đến việc viết chữ rất nhiều. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động *Nguyên nhân Học sinh còn coi nhẹ trong khi viết chữ, không nắm vững được quy tắc viết, chưa phân biệt chính xác các vần khó. *Các yếu tố tác động tốt Nhà trường đã trang bị đủ như bàn ghế đúng kích cỡ, có bảng chống lóa, phòng học thoáng mát, sạch sẽ và đúng kích cỡ. *Các yếu tố tác động chưa tốt Nhiều học sinh có tính cẩu thả, sơ sài, qua loa, không tập trung trong khi viết. Phụ huynh học sinh chưa qua tâm rèn chữ viết cho học sinh. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng của đề tài. Tình trạng chung của học sinh bậc tiểu học nói chung, trường TH Nguyễn Bá Ngọc nói riêng, học sinh viết chữ còn xấu, cẩu thả, sai nhiều lỗi chính tả, chữ viết không đúng kích cỡ, không đúng mẫu, ... Ví dụ: Khi các em viết các con chữ ở độ cao 2,5 ô li ở các chữ. h,k,l. b,. thì học sinh luôn luôn viết ở độ cao 2 ô li hoặc các em viết ở.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> độ cao 3 ô li, chiều ngang của các con chữ thì quá to hay quá nhỏ làm cho các chữ quá “mập” hoặc quá ‘gầy’. Bên cạnh đó các em viết các con chữ. y ,. g thường nét sổ của các em không chính xác. Chính vì thế bản thân luôn tìm ra cách rèn luyện phù hợp với từng đối tượng học sinh lớp mình phụ trách. Trong nhiều năm học tôi vẫn luôn luôn sử dụng các phương pháp: đàm thoại, trực quan, thực hành, luyện tập, khảo sát, thống kê. Nhưng tôi đã mạnh dạn đưa thêm phương pháp: “So sánh, kiểm tra lẫn nhau” vào các tiết học. Bên cạnh đó tôi có trú trọng hơn đến phương pháp hướng dẫn học sinh luyện tập và thực hành đối với tất cả học sinh trong lớp. Đặc biệt, tôi quan tâm và hướng dẫn tỉ mỉ hơn trong tiết tập viết và tiết chính tả. Sau khi kết hợp các phương pháp giảng dạy như trên trong một tiết học, tôi nhận thấy kết quả bài viết của học sinh có tiến bộ hơn. Đặc biệt trong các kì thi “Vở sạch – Chữ đẹp” cấp trường và cấp huyện tỉ lệ học sinh lớp tôi chủ nhiệm được nâng cao. II.3 - GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. Mục đích quan trọng của việc dạy tập viết là học sinh viết đúng và viết đẹp mẫu chữ quy định của Bộ giáo dục, có kỹ năng viết nhanh, biết trình bày bài tập viết sạch và đẹp. Bám sát vào mục đích đó cộng với những kinh nghiệm thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối 2 tôi đã đi sâu nghiên cứu và đã rèn chữ viết cho học sinh: b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp. 1- Dạy viết chữ theo yêu cầu kỹ thuật Động tác viết chữ là một hoạt động khéo léo và có kỹ thuật của 3 ngón tay ( ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón tay giữa ) của bàn tay phải với điểm tựa là mép trái của bàn tay phải. Động tác cầm bút đúng sẽ tạo điều kiện cho các em thoải mái, dễ dàng thực hiện được yêu cầu của động tác viết ..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Trước khi viết cần hướng dẫn các em cách cầm bút đúng, ngồi đúng tư thế, để vở viết ở khoảng cách vừa phải so với mắt (khoảng cách đúng là từ 25cm đến 30 cm). Đầu ngón tay trỏ đặt ở bên trái của đầu bút dịch chuyển linh hoạt. Ngoài ra động tác viết cần có sự phối hợp cử động linh hoạt và nhịp nhàng của cổ tay, khöyu tay và cánh tay. Thường xuyên theo dõi nhắc nhở, uốn nắn các em cần kiên trì thực hiện luyện viết chữ hàng ngày để tạo cho mình thành thói quen. Nếu giáo viên không sát sao kiểm tra, theo dõi và uốn nắn cho học sinh thì dẫn tới các em có thể cầm bút bằng 4 ngón tay hoặc các em cầm bút bằng cả 5 ngón tay, lúc đó học sinh viết bài sẽ nặng nhọc và khó khăn mau mệt mỏi, kết quả chữ viết của các em sai mẫu chữ, không đẹp, tốc độ viết chậm không đảm bảo được yêu cầu khi viết là: Kết hợp sự vận động nhẹ nhàng của các ngón tay, cổ tay và cánh tay. 2- Dạy tập viết chữ trong các tiết học hình thành chữ cái , âm và vần . Đặc điểm chung trong mỗi tiết học Tiếng Việt phần âm vần là cuối mỗi tiết đều có phần luyện viết. Khi đã nhận biết được chữ cái, âm vần các em thường có thói quen trực giác toàn bộ hình dáng chữ. Cho nên trước khi viết bao giờ tôi cũng cho các em nhận xét cấu tạo từng con chữ cần viết: Về đặc điểm cấu tạo của con chữ, hình dáng từng nét và cách viết, điểm đầu đặt bút viết từng nét, vị trí điểm kết thúc ở đâu trên dòng kẻ. Sau đó tôi lại giúp các em nắm một lần nữa quy trình viết bằng cách: Tôi vừa viết mẫu chậm trên bảng lớp, điểm bắt đầu viết, điểm kết thúc của từng con chữ. Trước khi viết bằng phấn, bằng bút tôi còn cho các em viết biểu tượng ( viết "bóng" bằng tay ) từng bước. Qua nhiều lần luyện viết biểu tượng về vị trí điểm đặt bút, điểm kết thúc đúng chỗ sẽ làm cho hình dáng chữ viết sau này rõ ràng, cân đối và đẹp hơn. 3 - Yêu cầu việc sử dụng bút của học sinh . Sử dụng bút cũng góp phần làm cho chữ viết đúng, đều, đẹp nên tôi đã không cho các em sử dụng bút bi mà cho các em sử dụng cùng một loại bút máy viết bằng mực đen . 4- Phân loại các nét cơ bản về cùng một nhóm để rèn ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Chúng ta thấy rất rõ rằng các nét trong các chữ cái được chia làm 4 loại nét cơ bản . Để có được chất lượng chữ viết đều - đẹp, giữ vững phong trào: giữ vở sạch - viết chữ đẹp, tôi lên chương trình riêng rèn chữ cho học sinh lớp tôi mỗi buổi 10 đến 15 phút vào tiết tự học cuối mỗi buổi học. Cho học sinh rèn các nét cơ bản và tập nối các nét để tạo thành chữ - tập viết các chữ mà tôi đã phận loại - rèn luyện dứt điểm. Có thể quy về một số loại cơ bản như sau: * Loại 1 : Nét sổ - Nét sổ thẳng. p,q. - Nét ngang. đ,t. - Nét xiên trái ( / ). x. - Nét xiên phải ( \ ). x. * Loại 2 : Nét móc - Nét móc xuôi. l. - Nét móc ngược. m,n,v. - Nét móc hai đầu. m,n.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Nét thắt giữa. b, r , s , v , k. - Nét xoắn. s. - Nét hất. l,h. * Loại 3 : Nét cong - Nét cong hở phải. x. - Nét cong hở trái. c. - Nét cong khép kín. o. * Loại 4 : Nét khuyết - Nét khuyết trên. y,g. - Nét khuyết dưới. b,h,k,l. Với 4 loại nét cơ bản tôi trình bày ở trên chúng ta chỉ cần thay đổi độ cao, thấp là tạo được chữ viết của các chữ cái . Học sinh đã nắm rõ các nét cơ bản, viết đúng chuẩn những nét cơ bản đó thì sẽ tạo đà viết được các con chữ và chữ trong hệ thống chữ viết Việt Nam . Không dừng lại ở việc viết đúng các nét cơ bản, tôi còn chia chữ ra từng loại và rèn dứt điểm ..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Tôi định ra mỗi tuần rèn một loại chữ nhất định. Rèn viết đúng loại chữ này mới chuyển sang rèn loại chữ khác. Tôi đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể. Cứ như thế, loại này viết đẹp mới chuyển sang loại chữ khác nên học sinh rất phấn khởi và say mê rèn luyện . Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết mẫu chữ cái tôi chia ra các nhóm như sau: 1- Nhóm các chữ :. n m i u ư r v t. (gồm8 chữ. cái) Trọng tâm rèn luyện là nét móc: nét móc 2 chấm, móc ngược, móc xuôi và móc hai đầu . Từ các nét cơ bản trên nếu ta viết được 8 chữ cái ở nhóm 1 thì sẽ dễ dàng viết được các chữ cái khác .. Ví dụ :. Khi dạy viết chữ. - Chữ. n. - Chữ. m. n. m. gồm 2 nét cơ bản là: Nét móc xuôi và nét móc hai đầu gồm 3 nét cơ bản là: Hai nét móc xuôi và nét móc hai đầu. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh điểm bắt đầu của nét móc xuôi trong chữ cái n, đồng thời hướng dẫn cách nối nét viết tiếp nét móc hai đầu. Nét móc hai đầu phải đưa nối liền từ chân nét móc xuôi , không được nhấc bút giữa hai nét. Nếu nét móc hai đầu mà nối từ trên đầu nét móc xuôi thì chữ n và chữ m không cân đối, không đẹp. Giáo viên cần hướng dẫn khoảng cách nét trong một con chữ. Khi dạy viết n, m giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh viết thật đúng chữ n thì chữ m các em sẽ viết dễ dàng và đẹp hơn. Đó cũng là cơ sở để viết đẹp các chữ trong nhóm 2 ..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 2- Nhóm các chữ :. l. b. h. k. p y. (6 chữ cái. ). - 5 chữ cái :. l b h k y. đều giống nhau ở một nét. cơ bản là nét khuyết. Tôi chú ý rèn cho học sinh viết bắt đầu từ nét sổ thẳng .... trong chữ. p. Học sinh viết được nét sổ ngay ngắn mới tiến hành viết nét. khuyết. l. Ví dụ : Hướng dẫn viết chữ. h. Muốn viết được chữ này trước hết giáo viên phải hướng dẫn HS viết nét khuyết trên thật thẳng và đẹp rồi mới nối tiếp các nét còn lại để tạo thành chữ. Vậy khi hướng dẫn học sinh phải hướng dẫn tỷ mỉ từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc cho học sinh luyện viết nhiều lần, nếu không các em sẽ viết nét khuyết trên gãy, gù hoặc khoảng cách các nét không cân đối . 3- Nhóm các chữ :. o ô ơ a ă â d đ q g c x e ê s ( 15 chữ cái ) Trọng tâm rèn luyện là nét cong khép kín và chủ yếu là điểm bắt đầu của các nét cong đó..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Trong thực tế giảng dạy tôi thấy rất nhiều học sinh cảm thấy khó khăn khi viết chữ có nét cong và có rất nhiều học sinh viết không đẹp do đặt bút điểm bắt đầu sai. Tôi đã đi sâu vào hướng dẫn cách viết một con chữ o. Khi viết được chữ o chuẩn từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc học sinh dễ dàng viết được chữ cái khác trong nhóm 3; tôi lưu ý học sinh khi viết chữ cái o phải có 2 tác dụng : 1- Ghi dấu nét xuất phát ( điểm đặt bút ) 2- Là điểm " thêm râu "để trở thành chữ ơ, điểm dừng để nối chữ khi viết từ . Ngoài các chữ cái ra còn có các dấu của các chữ, các chữ có dấu như chữ ă, â , ô ... và một số dấu ghi thanh (thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã) Tôi luôn hướng dẫn học sinh viết đúng độ cao, hình dáng, vị trí đặt dấu ở các nguyên âm để các em thấy rõ và thể hiện được các yêu cầu về dấu khi viết chữ. Khi tập viết các hình chữ cái cần thực hiện đủ và đúng hai giai đoạn tập viết chữ: Đó là giai đoạn viết hình chữ theo thứ tự các nét cơ bản cấu tạo nên chữ và giai đoạn viết liền mạch không nhấc bút để viết từng chữ cho thành thạo . Kỹ năng viết liền mạch trong từng chữ cái sẽ dần dần nâng cao tốc độ viết chữ và kỹ thuật viết chữ đẹp sau này của học sinh *Ở giai đoạn học vần : HS được luyện cách nối liền các con chữ để tạo thành chữ . Khi viết có các trường hợp nối như sau : Trường hợp nối các con chữ dễ dàng giáo viên chỉ cần là mẫu chậm là học sinh tập viết được . Ví dụ :. Khi viết vần. Trường hợp nối các con chữ phải điều chỉnh, điều khiển phần cuối nét của con chữ đứng trước để nối với con chữ đứng sau. Đảm bảo yêu cầu rõ ràng của chữ . Khi chữ phải điều khiển phần cuối nét móc của con chữ đứng trước rộng hơn để nối với con chữ đứng sau ta cần hướng dẫn kỹ . Ví dụ : Khi viết chữ.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Khi viết phải điều khiển phần cuối nét móc của con chữ đứng trước hẹp hơn để nối với con chữ đứng sau . Ví dụ : Khi viết chữ Khi viết phải điều khiển phần cuối của nét của con chữ đứng trước và cả điểm đặt bút của con chữ đứng sau . Ví dụ : Khi viết chữ Đối với học sinh khi hướng dẫn các em viết liền mạch trong một vần gồm 2, 3, 4 con chữ giáo viên cần lưu ý các trường hợp: Yêu cầu học sinh phải nắm chắc các cách nối chữ rồi nới thực hiện viết bài .. ang. Ví dụ : Khi viết vần. Giaó viên viết mẫu thong thả ở chỗ nối là học sinh biết cách viết. Khi dạy viết vần. oang. thì cho học sinh luyện viết nối liền oa. nhiều lần rồi luyện nói vần oang thạo, sau đó mới luyện viết nối liện mạch vần oang . Trong giai đoạn học tập đọc học sinh được củng cố kỹ năng viết thông qua việc viết bài chính tả . Ngoài yêu cầu tập nối các chữ trong vần. Học sinh còn phải học cách ghi các dấu của các con chữ và dấu của chữ. Tôi luôn hướng dẫn cụ thể tuỳ từng chữ có thể viết liền mạch phần nào, còn phần nào phải nhấc bút .. bệnh viện. Ví dụ : Khi dạy viết từ : Chữ. bệnh. ta viết liền mạch được sau đó viết dấu của con chữ. thanh nặng (.) dưới con chữ Chữ. ê. và. ê. viện ta viết liền mạch được. Sau đó viết các dấu của con chữ.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> i ê. ê. và thanh nặng (.) dưới con chữ. 4- Nhóm chữ cái viết hoa tôi phân ra các nhóm sau để cho học sinh luyện viết:. + Nhóm chữ A:. A. Ă. Â. + Nhóm chư U:. U. Ư. + Nhóm chữ V:. V. K. + Nhóm chữ L:. L S. + Nhóm chữ P:. P. + NHóm chữ O:. O. Y. Ô. M V. X. H. C. Q. N. G. B. R. E Ê D. T Đ. Ơ. c. điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp. Cơ sở vật chất phải được trang bị đầy đủ tạo điều kiện tốt cho việc dạy học. Bàn ghế phải được trang bị đầy đủ..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bảng lớp phải đảm bảo tiêu chuẩn. Đèn chiếu sáng chống cận thị cho học sinh được trang bị đầy đủ. Giáo viên phải nắm vững phương pháp và kĩ thuật dạy học. Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh. Theo dõi và nhắc nhở học sinh viết đúng mẫu chữ, khoảng cách giữa các con chữ và cách đánh dấu thanh. d. Mối quan hệ giữa giải pháp, biện pháp. Trong hoạt động dạy học người giáo viên phải thường xuyên phối hợp với ban giám hiệu, các giáo viên bộ môn và phụ huynh học sinh để giáo dục các em cách viết đúng các con chữ nhằm đạt hiệu quả hơn trong việc luyện viết chữ e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 bản thân nhận thấy quá trình rèn chữ của học sinh qua kết quả kiểm tra đánh giá đầu năm so với kết quả đánh giá cuối học kì một và kết quả đánh giá cuối năm tôi thấy học sinh tiến bộ rõ dệt. Các em có ý thức cao trng việc rèn chữ viết của chính mình. II.4 - KẾT QUẢ THU ĐƯỢC Việc thực hiện những yêu cầu kỹ thuật khi viết chữ của học sinh được tôi thực hiện trong suốt năm học 2008- 2009, 2009-2010 và năm học 2010-2011. Kết quả đạt được phụ thuộc vào chính những bài viết của các em trên lớp. Tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả sau: Năm học 2008-2009 Lớp. 2A. Sĩ số. 28. Giỏi. Khá. SL. %. SL. %. 11. 39,3. 09. 32,1. Trung bình SL %. SL. 07. 01. 25,0. Yếu %. Năm học 2009-2010 Lớp. 2A. Sĩ số. 25. Giỏi. Khá. SL. %. SL. %. 08. 32,0. 10. 40,0. Trung bình SL %. SL. %. 06. 01. 4,0. 24,0. Yếu.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Năm học 2010-2011 Lớp 2A. Sĩ số 22. Giỏi SL 08. % 36,4. Khá SL 08. % 36,4. Trung bình SL % 06 27,3. Yếu SL 0. % 0. Đối chiếu với kết quả khảo sát đầu năm của mỗi năm học, tôi nhận thấy chất lượng chữ viết ở mỗi năm học của lớp tôi qua đợt khảo sát này cao hơn rõ rệt. Tỷ lệ học sinh viết đúng mẫu, đúng kỹ thuật, hình dánh các nét chữ in hoa và nét chữ thường đã đạt mức độ tương đối chuẩn, viết chữ đúng quy định. Chữ viết của học sinh được nâng cao rõ rệt cả về chất lượng lẫn tốc độ viết. Chất lượng khảo sát toàn diện các môn văn hoá trong ba năm học đạt 99%, trong đó tỷ lệ giỏi, khá đạt khá cao. Để đạt được kết quả cao trong quá trình rèn chữ viết cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì vượt khó tìm tòi, sáng tạo và phải có tinh thần trách nhiệm cao, say mê với công việc. Nắm chắc phương pháp giảng dạy bộ môn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo , cải tiến sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng bài dạy cụ thể để học sinh nào cũng có thể hiểu được bài, vận dụng thực hành viết bài đạt kết quả cao. Đổi mới phương pháp rèn chữ viết cho HS lớp 2, làm cho học sinh hiểu và nắm chắc cấu tạo các nét, các chữ, cách viết từng nét, cách nối từng chữ, nối các con chữ theo đúng quy trình, từ đó học sinh viết đúng, đẹp và nhanh. Giáo viên cần khéo léo, khuyến khích, động viên khen thưởng kịp thời đối với những học sinh có tiến bộ về chữ viết như kết thúc mỗi tuần yêu cầu học sinh kẻ 3 ô nhỏ để đánh giá về: 1- Giữ vở 2- Chữ viết 3- Xếp loại chung Kết quả này được ghi vào bảng tổng hợp lớn ở lớp để kích thích tính thi đua của các em. Tham mưu với BGH đến kiểm tra để kịp thời biểu dương khích lệ phong trào..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Tập viết chữ là một loại vận động mang tính kỹ thuật cao. Vì vậy muốn học sinh viết được chữ đúng và đẹp thì ngay từ buổi đầu giáo viên phải hướng dẫn học sinh có động tác cầm bút, ngồi viết đúng tư thế, để vở đúng khoảng cách vừa phải, biết ngồi ở nơi có đủ ánh sáng. Giáo viên hướng dẫn học sinh viết đúng các nét cơ bản ngay từ đầu để tạo thành thói quen khi viết. Giáo viên thường xuyên kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội để tạo điều kiện cho học sinh có đầy đủ dụng cụ học tập. Giáo viên thường xuyên trao đổi với cha mẹ học sinh để khắc phục những nhược điểm mà HS còn mắc phải trong tập viết chữ . Ngay từ đầu năm học, giáo viên cho học sinh học tập những quy định vở viết, cách trình bày vở theo tiêu chuẩn về “Vở sạch – Chữ đẹp”. Điều không thể thiếu được là chữ viết của giáo viên cũng phải mẫu mực, đúng, đẹp, trình bày khoa học, phê điểm vào vở của học sinh ngay ngắn , lời nhận xét cũng mang tính chỉ bảo, khuyến khích học sinh vươn lên trong học tập, luôn chứa đựng tình cảm với học sinh, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo Giáo viên biết vận dụng, kết hợp hài hoà các điều kiện trên, thực hiện thường xuyên liên tục thì việc rèn chữ cho học sinh sẽ đem lại kết quả cao.. III - KẾT LUẬN và ĐỀ NGHỊ III.1 – KẾT LUẬN: Qua nghiên cứu và thực hành rèn chữ viết cho học sinh lớp theo một số phương án trên tôi thấy: Kết quả chữ viết của học sinh được nâng cao rõ rệt cả về chất lượng lẫn tốc độ viết, qua đó tôi thấy đây là một việc làm thiết thực và quan trọng để nâng cao chất lượng học tập toàn diện cho học sinh. Học sinh phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập , các em rèn chữ viết một cách tự giác, thi đua học tập . III.2 – KIẾN NGHỊ: * Đối với nhà trường :.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Thường xuyên nâng cao nhận thức trong giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh về sự quan trọng của việc rèn chữ viết . - Thường xuyên duy trì nền nếp "giữ vở sạch chữ đẹp" cho giáo viên và học sinh. - Động viên khen thưởng kịp thời đối với những lớp và giáo viên có phong trào rèn chữ tốt, đầu tư cơ sở vật chất: phòng học, bàn ghế, các phương tiện dạy và học đủ, đúng quy cách . * Đối với phòng giáo dục : Cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề, phổ biến kinh nghiệm để nhân rộng phong trào điển hình về “Vở sạch – Chữ đẹp” . Trên đây là những kinh nghiệm về việc rèn kỹ năng viết chữ đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 mà tôi đúc rút ra qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 2. Song đây mới chỉ là ý kiến của cá nhân. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm, của cán bộ giáo viên trong ngành để bản kinh nghiệm của tôi đầy đủ hơn . Xin chân thành cảm ơn ./. Nguyễn Bá Ngọc ngày 01 tháng 04 năm 2012 Người viết. NGÔ MINH KHANG.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO TT. TÊN TÀI LIỆU. TÁC GIẢ. 01. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2. Nhà xuất bản giáo dục. 02. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2. Nhà xuất bản giáo dục. 03. Dạy Tập viết ở Tiểu học. Lê A - Đỗ Xuân Thảo – Trịnh Đức Minh – NXB G. 04. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ. iáo dục Bộ Giáo dục và Đào tạo. 05. năng các lớp 1, 2, 3, 4 Dạy và học Tập viết ở Tiểu học. Trần Mạnh Cường – Phan Quang Thân – Nguyễn Hữu Cao – NXB Giáo dục). 07. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Lê Hữu Tỉnh – Trần Mạnh. 08. Việt ở Tiểu học Phạm Văn Đồng “Dạy nét chữ nết. Hưởng – NXB Giáo dục Báo Tiền Phong số 1760. Ra. người”. ngày 18 – 1 – 1968.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×