Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Cổ tức và các hình thức trả cổ tức pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.09 KB, 4 trang )

Cổ tức và các hình thức trả cổ tức
Một trong những nguyên nhân mà nhà đầu tư thương nhắc tới làm cho thị
trường đi xuống thời gian vừa qua là do lượng cung cổ phiếu quá lớn, do các
doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Trong đó, có
phát hành để chào bán cho cổ đông, thưởng cổ phiếu và trả cổ tức bằng cổ
phiếu. Vì vậy, nhiều nhà đầu tư đã kiến nghị doanh nghiệp nên dừng ngay
việc phát hành thêm cổ phiếu và thực hiện chi trả cổ tức bằng tiền mặt thay
vì bằng cổ phiếu. Vậy cổ tức là gì và hình thức trả cổ tức như thế nào? Sau
đây, chúng tôi sẽ giới thiệu đến bạn đọc rõ hơn về khái niệm này.
Cổ tức là gì?
Cổ tức được hiểu là một phần lợi nhuận của DN chia cho cổ đông, được gọi
là thu nhập của cổ đông. Trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi, cổ tức không cố
định. Vì cổ tức là phần thu nhập hưởng trên hiệu quả hoạt động của DN, mà
điều này không cố định, nên đây là khoản bị lệ thuộc. Vả lại, vì giá cổ phiếu
thay đổi theo thời gian, và giá trị đầu tư vào một đơn vị cổ phần cũng khác
nhau theo thời gian, nên không thể áp cách tính tương đối (%) cho mọi thời
điểm sở hữu cổ phần khác nhau. NĐT khi nhận cổ tức là nhận một khoản
chia lợi nhuận trên khoản đầu tư của mình. Xét trên vị thế đầu tư, đối với
người cầm cổ phiếu, khoản này vẫn còn là một ẩn số "x" ở phía trước nên
khi muốn tham khảo các "đáp số" cũ (cổ tức đã được trả), họ cần một con số
tuyệt đối (số tiền cụ thể) để làm các phép tính so sánh tương đối.
Các hình thức trả cổ tức
1. Trả bằng tiền mặt
Với những NĐT đang nắm giữ cổ phiếu và những người đang có dự định
mua cổ phiếu, có thể căn cứ vào số cổ tức (tiền mặt) được trả để tính lợi suất
hiện thời bằng cách lấy khoản này chia cho thị giá cổ phiếu. Chỉ tiêu này
được coi là một trong những tiêu chí chọn cổ phiếu. Nó là một tham số
tương đối (tính bằng %) giúp nhà đầu tư thực hiện các so sánh tương đối, dự
liệu được mức thu nhập bọc lót... để ra quyết định đầu tư.
Ví dụ, cổ phiếu BVS có cổ tức được trả đợt 2 năm 2007 là 1.000 đồng và
nếu thị giá đang là 160.000 đồng thì lợi suất hiện thời của cổ phiếu này là


0,63%/năm, chứ không phải "10%" trên mệnh giá. Đối với nhà đầu tư thiên
về thu nhập thì lợi suất hiện thời 0,63% có thể là quá nhỏ.
Khi một công ty niêm yết công bố trả cổ tức, tỷ lệ phần trăm (%) thường đi
kèm với con số tuyệt đối để tránh hiểu nhầm.
2. Trả bằng cổ phiếu
Khi công ty có nhu cầu giữ lại lợi nhuận để đầu tư phát triển, họ có thể sử
dụng cổ phiếu được phép phát hành hay cổ phiếu quỹ (nếu có) để trả cổ tức.
Khoản cổ tức cho mỗi cổ phiếu theo cách trả này là phần cổ phần thay cho
khoản tiền.
Một số DN còn trả cổ tức bằng một công cụ nợ, được gọi là cổ tức nghĩa vụ
(cổ tức nợ); bằng tài sản, giấy khất nợ với cam kết khoản tiền sẽ được trả
vào một ngày nào đó trong tương lai.
Dù trả bằng hình thức nào thì cổ tức cũng chỉ được trả trong phạm vi lợi
nhuận, mà cụ thể là nguồn lợi nhuận giữ lại. Mặc dù, công ty đều có "kế
hoạch lợi nhuận hàng năm", nhưng nếu trong năm đó, DN gặp khó khăn,
công ty sẽ không trả cổ tức.
Đối với những DN đã hoạt động ổn định, trả bằng cổ tức tiền mặt thường
được NĐT ưa thích hơn, đơn giản vì đó là tiền thật, thu nhập thật, là minh
chứng cho tình hình tài chính DN được điều hòa tốt. Hơn nữa, nếu DN đã bị
"khó" tiền mặt mà lại thêm "nghĩa vụ" (thêm cổ phần lưu hành) thì có thể là
gánh nặng. Vậy nên, việc trả cổ tức bằng cổ phần thường chỉ được các công
ty mới, đang tăng trưởng mạnh, hoặc có kế hoạch phát triển và lạc quan về
hiệu quả hoạt động, áp dụng. Cũng cần biết, ở Việt Nam, việc trả cổ tức
thuộc quyền của Đại hội đồng cổ đông và được trả mỗi năm một hoặc hai
lần.

×