Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài liệu Đề tài " Thông tin và động cơ : Nền Kinh Tế của những củ cà rốt và cây gậy " Phần 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.76 KB, 18 trang )

THÔNG TIN VÀ ĐỘNG CƠ: Nền Kinh Tế của những củ cà rốt và cây gậy
Phần 1
Information and Incentives: Economics of Carrots and Sticks ****
Thuyết trình Nobel, ngày 9 tháng Chín, năm 1996
Tác giả: JAMES A. MIRRLEES
BÀN TAY VÔ HÌNH
Trong một công trình nghiên cứu chủ yếu bàn về vấn đề sự thiếu hiểu biết, chúng
ta hãy bắt đầu nói về những đóng góp to lớn của Adam Smith đối với khoa học
kinh tế, tầm nhìn của ông về những con người ích kỷ độc lập, những người sống
và làm việc với nhau trong một hệ thống kinh tế, bằng cách nào đó họ đã làm điều
tốt nhất cho người nhau. trước hết, trong tác phẩm
Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức
(The Theory of Moral Sentiments),
ông đã nói:
Người giàu chỉ lựa chọn những thứ quý giá và đáng yêu. Họ tiêu dùng nhiều hơn
người nghèo một ít, và mặc dù sự ích kỷ và tham lam của họ họ phân chia với
người nghèo những thành quả trong tất cả sự tiến bộ của họ. Họ bị điều chỉnh bởi
một bàn tay vô hình để tạo nên một sự đóng góp tương tự về những nhu yếu của
cuộc sống, cùng một tỷ lệ với những cư dân sống trên trái đất ở những vùng khác
nhau.
Điều này khác với quan điểm sau này của hệ cân bằng kinh tế "tối ưu" theo nghĩa
của Pareto. Như đã trích dẫn, quan điểm của Smith trước đó không được hoan
nghênh cho lắm. Nó tạo nên một chủ đề chính: sự vận hành của nền kinh tế như là
một hệ thống, và lợi ích hoặc những thứ khác, cho tất cả mọi người, có thể sinh ra
từ nền kinh tế đó. Sau đó, trong tác phẩm
Sự thịnh vượng của Quốc gia (The
Wealth of Nations), ông đã đúng đắn khi lập luận rằng tối đa hoá lợi nhuận cá
nhân nhằm ám chỉ đến việc tối đa hoá cái mà ta có thể gọi là thu nhập quốc dân,
và tiếp tục cho rằng,
... bằng cách điều chỉnh ngành nghề theo cách mà thành quả của nó có thể mang
lại giá trị lớn nhất, [mọi cá nhân] chỉ quan tâm đến cái mà anh ta được lợi, và


trong trường hợp này, cũng như nhiều trường hợp khác, anh ta bị chi phối bởi bàn
tay vô hình để tạo nên một kết cục, điều không nằm trong ý định của anh ta. (IV,
chương II).
Điều này chẳng nói lên điều gì về lợi thế của người nghèo, thực tế là chẳng có gì
về sự phân phối những lợi ích cả.
Như điều đã từng được giảng dạy cho nhiều thế hệ các nhà kinh tế học, học thuyết
bàn tay vô hình bao gồm hai phần. Phần thứ nhất nói rằng hệ cân bằng kinh tế là
sự tối ưu Pareto: đó là sự phân bổ các hàng hoá và hoạt động đến con người các tài
sản mà không cách phân bổ nào khác có thể tốt hơn. Đó là một hệ cân bằng lý
tưởng, mặc dù thiếu tính hiện thực, nhưng lại là điều tốt nhất cho mọi người, hơn
hẳn tất cả các cách phân bổ khác. Hệ cân bằng kinh tế có tính cạnh tranh hoàn hảo.
Phần thứ hai nói rằng bất kỳ một sự phân bổ tối ưu Pareto có thể trở thành hệ cân
bằng kinh tế. Theo đó, sự phân phối ban đầu các tài sản cho mọi người phảiđúng
đắn. Nó đòi hỏi rằng trái đất trên thực tế được chia ra thành các phần bằng nhau
giữa các cư dân của nó để đạt được sự phân bổ mong muốn. Quan điểm thứ hai
này, ít nhất ở mức độ tiêu chuẩn, đưa ra một giả định về bản chất của những khả
năng kỹ thuật mà hệ cân bằng cạnh tranh hoàn hảo như vậy có thể diễn ra. Quy mô
của nền kinh tế cần phải loại bỏ một cách hoàn toàn, hoặc mức độ sản xuất trong
những ngành nghề được xác định theo những cách khác, ví dụ như bằng một kế
hoạch nào đó. Đó là một vấn đề thú vị, nhưng cần được loại trừ ở đây.
[1]
Những vấn đề này là những nội dung cơ bản của kinh tế học phúc lợi như tôi đã
học trong những năm năm mươi. Ian Little (1950) và đặc biệt là Jan Graaff (1951)
đã đưa ra những khó khăn quan trọng trong học thuyết này, đặc biệt là khi nó được
xem là một cơ sở của thông tin, chính sách và tư tưởng kinh tế. Lý thuyết này xác
lập nên điều mà các nhà kinh tế học nghĩ rằng họ có thể nói với thể giới và những
người cai quản thế giới. Đó là cơ sở cho quan điểm tự do thương mại, thúc đẩy sự
kiểm soát của độc quyền, cho các phương pháp phân tích chi phí-lợi nhuận, và sự
điều chỉnh định giá bằng chi phí biên bởi những công ty sở hữu công (công ty nhà
nước). Nó cũng được sử dụng để ủng hộ cho việc mở rộng thị trường tự do và sở

hữu tư nhân về tài sản, và khuyến nghị sử dụng hệ thống giá thậm chí là trong nền
kinh tế kế hoạch.
Những khiếm khuyết của lý thuyết đó dường như nguy hiểm. Rất nhiều giao dịch
trong nền kinh tế diễn ra giữa các cá nhân hoặc công ty, với sự độc quyền đáng kể,
ít nhất là từ một phía của thị trường. Đối chiếu với quan điểm thứ hai, điều đó
dường như có nguyên nhân từ chi phí tìm kiểm và chi phí chuyển loại và sự không
chắc chắn về việc hoàn thành của các hợp đồng trong tương lai (như là ở thị
trường tín dụng). Những điều này không có chỗ trong mô hình cạnh tranh của nền
kinh tế. Có người có thể cho rằng những phát sinh này từ những giả định là nhỏ,
trong phạm vi biên của lỗi mà khoa học kinh tế có thể đạt đến được; mặc dù bản
thân tôi không nghĩ chúng như vậy.
Khiếm khuyết chính khác là nhu cầu có một sự phân phối cụ thể của tài sản tới
mọi người trước khi có ai đó cho rằng hệ cân bằng đạt được là tốt. Yêu cầu đó, khi
được hiểu một cách đúng mực, hoàn toàn không thể hoàn thành được.
Đâu là bản chất của khó khăn này Tôi cho rằng, điều đó đã trở nên rõ ràng trong
những năm năm mươi, ví dụ như trong những tác phẩm của William Vickrey
[2].
Nếu chúng ta có được một hệ cân bằng hoàn chỉnh, chúng ta sẽ tưởng tượng một
chính phủ tốt làm được những điều cần thiết, cụ thể là tạo ra một sự phân phối tài
sản đến mọi người như sự phân bổ mong muốn trong hệ cân bằng. Điều đó có thể
thực hiện được. Trong một mô hình cực kỳ đơn giản, mô hình mà rất nhiều các
nhà kinh tế học có thể tưởng tượng được, mọi người đều giống nhau, và mỗi người
đều có được sự thoả dụng từ một hành vi tiêu dùng hàng hoá, theo một số lượng
cố định đã có sẵn. Điều đó thật dễ dàng cho chính phủ thực hiện công việc phân
phối. Giả sử xoá bỏ đi tiêu dùng thoả dụng biên, và sự so sánh các thoả dụng cá
nhân, một sự phân phối bình đẳng về tài sản là điều mà chúng ta đòi hỏi. Không
một thông tin nào, ngoài việc điều tra dân số, được yêu cầu cho điều đó. Con
người có thể có nghi ngờ về biện pháp, thậm chí là về mặt ý nghĩa, của sự thoả
dụng; nhưng ít nhất trong một con đường gồ ghề có sẵn, có một trường hợp rõ
ràng để nghĩ rằng việc chuyển từ người giàu sang người nghèo là một sự tiến bộ.

Ứng dụng điều đó vào một thái cực logic, những người nghèo trên trái đất sẽ được
phân phối một cách đồng đều.
Đó không phải là một chính sáchphổ biến, một phần vì những lý do chính đáng.
Rõ ràng rằng nếu một chính sách bình đẳng được thực hiện, động cơ ban đầu để
làm việc sẽ bị xoá bỏ. "Từ khả năng của một người, đến nhu cầu của anh ta Karl
Marx,
Phê phán Chương trình của Gotha) không được cho là khả thi, thậm chí là
có thể mong muốn. Không một mô hình đơn giản nào cho phép điều đó.
HỆ THỐNG THUẾ
Chính xác vấn đề là gì Nói chung, và trong thực tế, sự phân phối lại của các tài sản
được yêu cầu bởi định lý phúc lợi thứ nhất, những thông tin cần thiết chính phủ
không thể có được. Chính quyền lý tưởng (tưởng tượng) này phải biết được những
người dân giàu nào mà họ có, và điều gì họ có thể làm, trước khi họ (chính phủ) có
thể biết được phải cho đi bao nhiêu và lấy đi bao nhiêu. Nếu mọi người biết được
chính phủ cần các thông tin đó, họ có thể che dấu đi bằng cách này hay cách khác,
nếu điều đó có lợi cho họ. Những yêu cầu thông tin cần thiết trong định lý phúc lợi
thứ hai không thể được hoàn thiện. Việc chuyển từ hoặc chuyển đến một người
phụ thuộc vào những đặc điểm của người đó, không phải cư xử của anh ta, được
biết đến như là sự chuyển đổi trọn gói. Sự chuyển đổi trọn gói mong muốn, trong
thực tế, là điều không thể, bởi vì chúng đòi hỏi những thông tin không có sẵn. Nỗ
lực để thực hiện chúng có thể sẽ phá huỷ các giá trị của các thông tin mà họ dựa
vào.
Theo hướng suy nghĩ đó, giữa những năm sáu mươi, Piter Diamond và tôi đã bị
thuyết phục rằng một người có thể suy nghĩ về phúc lợi kinh tế và chính sách kinh
tế trong bối cảnh của nền tài chính công. Trước hết chúng ta nghiên cứu mô hình
kinh tế tổng quát, trong đó chính phủ không thể thực hiện được sự chuyển đổi trọn
gói
[3]. Rõ ràng rằng điều đó đã đi quá xa, và chúng tôi đã tiếp tục cho phép rằng
chính phủ có thể sử dụng các loại thuế trọn gói thống nhất, hoặc hợp lý hơn,
những khoản trợ cấp. Mặt khác chính phủ phải sử dụng các khoản thuế, thuế từ

quan điểm của lý thuyết phúc lợi thuần tuý được xem như một sự méo mó. Đây là
mô hình trong đó tất cả những người tiêu dùng và người sản xuất là những người
chấp nhận giá, nhưng họ không nhất thiết phải đối mặt với những mức giá giống
nhau, bởi vì tỷ suất thuế không thể làm cho hai bên của một giao dịch phải tiếp
diện với các mức giá khác nhau. Đó là một mô hình truyền thống, có hành vicạnh
tranh của các tác nhân tư nhân; nhưng đó là một nền kinh tế bị bóp méo, và sự bóp
méo đó có thể là tối ưu. Và đó là điều mà chúng tôi muốn nghiên cứu.
Trước đó đã có một tác phẩm nói về sự méo mó của thuế khoá. Lý thuyết này
được khởi xướng bởi Frank Ramsey (1927), theo đề nghị của A.C Pigou. Ông đã
xem xét một nền kinh tế gồm những người tiêu dùng đồng nhất và giả định rằng
thu nhập chính phủ tăng lên hoàn toàn thông qua các khoản thuế đối với hàng hoá.
Sau đó, M. Boiteux (1956), ở Pháp, đã phát triển một cách độc lập lý thuyết đồng
đẳng của việc đặt giá bởi sự thoả dụng công cộng với lợi nhuận bằng không là
nhân tố hạn chế, trong một nền kinh tế mà sự chuyển đổi trọn gói hoàn hảo xảy
được cho là xảy ra một cách nghịch lý. Và Serge-Christophe Kolm (1971) đã phát
triển một lý thuyết tổng quát có tính hệ thống.
Điều lý thú trong câu chuyện mà tôi kể ra ở đây loại lý thuyết mà chúng tôi đã
phát triển, chứ không phải là nội dung và những hàm ý của nó. Đó là lý thuyết về
một nhà nước mà những hành động của nó là một chức năng của điều mà nó có
thể quan sát được. Không một sự quan sát nào về bản chất của những người tiêu
dùng cá nhân được giả định là có sẵn, mà chỉ những quan sát về ứng xử của họ. Ví
dụ chính của điều đó là một loại thuế hàng hoá, nó tạo ra một tỷ lệ thu nhập trong
số hàng hoá mà người tiêu dùng chọn mua. Việc lựa chọn chính sách có tính đến
phản ứng của người tiêu dùng đối với sự thay đổi của thuế, đặc biệt là sự thay đổi
số lượng mua bán. Một sự trợ cấp trọn gói thống nhất không yêu cầu bất kỳ một
thông tin nào, và do đó được cho phép. Chúng tôi nói rằng, những công cụ chính
sách này là sự tương hợp khích lệ: nhà nước có tính đến đầy đủ các phản ứng vì
lợi ích cá nhân của mọi người đến hệ thống thuế.
Có một khía cạnh, ở đó thông tin về các đặc điểm của người tiêu dùng là cần thiết,
sự phân phối của những đặc tính này trong phạm vi dân số. Nhà nước bằng cách

nào đó biết được sự phân phối này. Về nguyên tắc nhà nước có thể biết được điều
này bằng cách đi hỏi từng người, hoặc trắc nghiệm họ theo các cách đa dạng khác
nhau. Bởi vì thông tin được sử dụng dưới dạng cô đọng (tổng hợp), một cá nhân sẽ
chẳng có gì để mất (hoặc có lợi) khi nói với chính phủ sự thật. Chỉ khi trách nhiệm
thuế cá nhân bị tác động bởi sự tiết lộ này thì sự khuyến khích cạnh tranh bị vi
phạm. Chúng tôi đã giả sử rằng, nhà nước sẽ thu nhận và sử dụng mô hình kinh tế
toán về người tiêu dùng, trong đó sự phân phối những nhóm người tiêu dùng-mối
quan tâm của họ đến các loại hàng hoá khác nhau, đặc điểm cung cấp lao động của
họ có thể được ước đoán từ ứng xử của một người tiêu dùng mẫu. Việc tính toán
thuế tối ưu và xu hướng mong muốn của việc thay đổi thuế đã xảy ra theo cách đó.
Một người có thể dứt khoát cho phép những sự không chắc chắn này về sự phân
phối các đặc tính trong dân số, với các vấn đề cân bằng ngân sách mà nó đặt ra,
nhưng chúng ta không nghi ngờ về cái gọi là sự rắc rối nhỏ.
Điều này sau đó là một mô hình với thông tin không đối xứng, ở đó, khi chính
sách của nhà nước được xác định, những cá nhân người tiêu dùng biết nhiều hơn
về sở thích và khả năng của họ hơn là điều mà chính phủ biết. bởi vì tất cả những
tham số chính sách có thể được đề cập đến trong mô hình đó, điều đó rất chung
chung. mà điều chung chung thì không được tận dụng một cách đầy đủ.
THUẾ THU NHẬP
Sẽ là thú vị nếu chúng ta đi vào chi tiết hơn, và nghiên cứu một mô hình kinh tế cụ
thể hơn có một số đặc điểm nổi bật của một nền kinh tế thực sự. Một mô hình như
thế vẽ nên bức tranh của một nền kinh tế vô tận, trong đó dân chúng tận dụng một
loại hàng hoá tiêu dùng duy nhất, và cung ứng lao động. Như đã đề cập ở trên,
William Vickrey đã nêu ra vấn đề thuế tối ưu cho mô hình đó, mặc dù ông đã
không thể giải quyết vấn đề này. Trong mô hình như thế, sự phân phối lại các
khoản thuế có thể được mô tả một cách đơn giản là thuế thu nhập, có ảnh hưởng
đến việc quyết định tiêu dùng của mỗi cá nhân như là một hàm của thu nhập cá
nhân đó.
Quan điểm về hệ thống thuế thu nhập thì thuế có thể là một hàm cực kỳ phức tạp
của thu nhập: thuế không cần phải tương ứng với thu nhập, và trong thực tế thì

điều này ít xảy ra. Trong một nền kinh tế thực sự, thu nhập bao gồm nhiều yếu tố.
Chúng ta dễ dàng phân biệt được thu nhập từ lao động với thu nhập từ vốn tài sản,
ít nhất là về mặt khái niệm. (trong thực tế, đặc biệt là đối với những người tự
doanh, sự phân biệt khó có thể thực hiện được; và thu nhập ròng từ vốn, bao gồm
cả việc cho thuê nhà, tự bản thân nó cũng khó để xác định.) Sau đây, tôi giả định
rằng chúng ta chỉ xem xét về thu nhập từ lao động. Thu nhập từ lao động có thể bị
đánh thuế một cách phi tuyến. Do đó một số loại hàng hoá khác, như là gọi điện

×