Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Đề tài " Thông tin và động cơ : Nền Kinh Tế của những củ cà rốt và cây gậy " Phần 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.24 KB, 9 trang )

Thông Tin và Động Cơ- Nền Kinh Tế của Những Củ Cà Rốt và Cây Gậy
Phần 2
Information and Incentives: Economics of Carrots and Sticks ****
Tác giả: JAMES A. MIRRLEES
HỆ THỐNG THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG
Mô hình thuế mà chúng ta đang xem xét chỉ là một trường hợp trong đó tồn tại sự
không đối xứng về thông tin giữa cơ quan nhà nước (chính phủ) và tác nhân hoặc
những tác nhân (người tiêu dùng). Những cá nhân người tiêu dùng biết nhiều về
năng lực của họ hơn là chính phủ. Chính phủ có thể tự nghĩ rằng họ đang làm việc
với đại diện của người tiêu dùng, nhưng không biết loại người tiêu dùng đó. Có
nhiều quan hệ kinh tế thuộc về quan hệ uỷ thác/đại lý, đặc biệt là quan hệ người sử
dụng/người lao động. Phương pháp phân tích mà tôi đã nêu ra được áp dụng khi
hoạt động của người đại lý có thể quan sát được và có thể xác định được, nhưng
người đại lý biết nhiều hơn người uỷ thác, ví dụ như mối quan hệ giữa nỗ lực
không thể quan sát được và hoạt động. Adam Smith đã biết rằng có một vấn đề
(mặc dù ông không đề cập đến một cách rõ ràng sự không chắc chắn tạo ra một
khả năng lẩn tránh):
Điều thú vị là mọi người cố gắng sống theo điều kiện của mình một cách tốt nhất
có thể ; và nếu mức lương của anh ta giống nhau một cách chính xác, liệu rằng anh
ta có, hoặc không có thực hiện một số trách nhiệm lao động, đó ch ắcn ch ắn là lợi
ích của anh ta, ít nhất đó là thứ lợi ích được hiểu một cách tầm thường, hoặc nếu
anh ta có một số thẩm quyền khiến anh ta không phải làm điều đó, thực hiện nó
một cách bất cẩn và cẩu thả mà thẩm quyền đó cho phép. (
Sự giàu có của các
Quốc gia
)
Có người nghĩ rằng anh ta quá không quan tâm đến hệ thống khuyến khích tiền tệ,
nhưng cần nhớ rằng thẩm quyền có thể là một sự mô tả tốt về mối quan hệ đó. Hệ
thống thanh toán tối ưu, với thông tin không đối xứng, có thể có đặc điểm độc
đoán, nếu nó chỉ ra rằng việc thanh toán tăng lên rất nhanh tương ứng với mức độ
của các nhóm mức lương, và chậm đi với nhóm thu nhập thấp, và không tăng lên


nhiều lắm với nhóm có thu nhập cao. Điều đó gần giống với nguyên tắc sau đây:
Làm cái này hoặc cái kia. Đó là một đặc điểm thú vị của những đường được cho là
tối ưu trong vấn đề thuế thu nhập là tiêu dùng không bao giờ tăng nhanh hơn thu
nhập (tương đương với, tỷ suất thuế biên không bao giờ âm). Khả năng có thể
nhất, một mối quan hệ khó khăn không bao giờ trở thành tối ưu trong thực tế với
thông tin không cân đối.
[7]
Quan hệ lao động phát sinh những khả năng thú vị mới, như là việc thanh toán liên
quan đến hoạt động của những người khác. Sẽ không đáng để làm việc nếu hai
người hoàn toàn không liên quan đến nhau, trong đó khả năng của họ cũng không
tương xứng. Khi họ tương xứng với nhau, và các tác nhân này lại không kết hợp
được với nhau, có một phạm vi thực tế cho việc thanh toán tuỳ thuộc vào mức độ
của quan hệ hoạt động của các tác nhân.
Chúng ta có thể không chờ đợi chính phủ ban hành những loại thuế, mà điều đó lại
phụ thuộc vào thu nhập của những người hàng xóm của chúng ta (hoặc những đối
thủ cạnh tranh rất xa) cũng như vào thu nhập của chúng ta. Nhưng những khả năng
đó đã đóng một vai trò quan trọng trong một mô hình phát triển hơn so với mô
hình đơn giản với thông tin không đối xứng như đã mô tả ở trên. Các tác nhân có
thể được yêu cầu lựa chọn giữa những thông tin phức tạp hơn là những gì chúng ta
sử dụng để mô tả hoạt động đơn giản hoặc thu nhập của họ. Maskin (1985) đã đưa
ra ý tưởng về việc yêu cầu mọi người tự đặt mình vào việc phân phối toàn bộ
khoản lương, trong khi phải đối diện với những yếu tố có tính trừng phạt một cách
nghiêm khắc đối với bất kỳ câu trả lời không phù hợp nào. Bằng cách đó, ông có
thể thực tiến hành được sự tối ưu đầu tiên. Lý thuyết đó thực sự đòi hỏi thông tin
giữa những tác nhân, nhưng Piketty (1993) đã phát triển một phương thực dễ chấp
nhận hơn để đạt được sự tối ưu tốt nhất cũng nằm trong phạm vi ý tưởng đã được
đưa ra. Mô hình đơn giản của khuyến khích cạnh tranh không hề làm giảm đi cơ
chế khuyến khích có thể trong hoàn cảnh của thông tin không đối xứng.
Trong số những ứng dụng ở lĩnh vực khác của thông tin không đối xứng là việc
kiểm soát những tập đoàn bởi những người cầm quyền (người quản lý nhà nước,

ban hành luật), và định giá bằng những sự thoả dụng. Trong từng hướng phát triển
thú vị đó, trước hết là Baron và Myerson (1982), và sau đó là Laffont và Tirole
(1993) đã chỉ ra làm thế nào một người có thể phân tích sự điều chỉnh bằng cách
bằng cách xem các tập đoàn (doanh nghiệp) như là những tác nhân (đại lý), những
người biết được cơ cấu vốn của doanh nghiệp đó, và những người cầm quyền,
người không chắc chắn về những chi tiêu của doanh nghiệp, người không chắc
chắn về chi phí của doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp và giá cả mà doanh
nghiệp đó đặt ra đối với những sản phẩm đó liên quan đến nhu cầu của thị trường,
và đó là thông tin công khai. Một cách để suy nghĩ về sự điều chỉnh là phải có thuế
về sản phẩm thay đổi. Điều này có thể được phân tích bằng cách sử dụng những
phương pháp mà tôi đã nêu ra.
Tương tự, những thoả dụng cũng làm cho người tiêu dùng thay đổi những ưu tiên,
và có thể liên kết giá cả với số lượng được sử dụng theo một cách thức phức tạp.
Như trong mô hình điều chỉnh, có rất nhiều sản phẩm, và một người sẽ xem xét
việc định giá đồng bộ của tiêu dùng tại các thời điểm khác nhau. Điều này thực sự
khó khi sở thích của người tiêu dùng thay đổi một cách phức tạp, đa chiều.
Phương pháp đơn giản mà tôi đã mô tả trở nên kém hiệu quả khi áp dụng vào
những vấn đề đa chiều như thế, nhưng Wilson (1993) và Armstrong (1996) đã tạo
nên một tiến bộ đáng kể trong việc giải quyết những vấn đề như thế này.
Trong tất cả những phạm vi ứng dụng này, chiều thời gian đóng vai trò quan trọng.
Quay trở lại vấn đề hệ thống thuế, có thể thấy được những vấn đề mới và rắc rối
nảy sinh. Chúng ta có thể nghĩ về việc đánh thuế theo từng thế hệ, hoặc những
nhóm người, theo cách phù hợp với họ. Mỗi thế hệ, mỗi tầng lớp sẽ có phần đóng
góp của mình, nhưng chúng ta có thể xác định được rõ ràng năm sinh, và sử dụng
nó làm cơ sở để đánh thuế. Do đó, về mặt lý thuyết chúng ta có thể xem như có
một hệ thống thuế khác nhau cho mỗi nhóm. Các chính phủ không làm như vậy,
và tôi sẽ quay trở lại vấn đề tại sao và chúng ta có nên chấp nhận chỉnh phủ làm
như vậy.
Giả sử rằng khả năng của mỗi cá nhân có liên quan chặt chẽ đến khả năng trong
tương lai. Hãy xem xét một mô hình trong đó mức lương của mỗi người đều như

nhau trong suốt quãng thời gian làm việc. Một số hệ thống thuế khuyến khích cạnh
tranh áp dụng cho thu nhập năm đầu tiên. Mọi người quyết định mức độ nặng
nhọc của lao động, và làm công việc gì: một số người đạt được mức thu nhập cao,
và số khác có thu nhập thấp. Nếu như theo lý thuyết, những người có mức tiền
lương cao sẽ chọn mức thu nhập cao. Năm tiếp theo, chính phủ biết được mức thu
nhập của những người đó trong năm vừa qua, và do đó có thể suy ra mức lương
của họ. Lúc đó, chính phủ có thể đánh thuế trên cơ sở mức lương hơn là thu nhập,
điều đó cũng có thể nói rằng dựa trên đặc điểm của người tiêu dùng. Chúng ta
không cần phải lo lắng về sự khuyến khích, đặc biệt là trong giai đoạn hiện tại.
Thuế có thể được xác định một cách độc lập so với thu nhập thực tế, và chỉ có liên
quan đến mức lương (đã quan sát trên cơ sở hoạt động của kỳ trước). Tại điểm
biên, sự khuyến khích là tối ưu. Trên thực tế, những khoản thuế liên quan đến mức
lương tạo thành tổng mức thuế, và nó có thể cao đối với người có thu nhập cao, và
thấp, thậm chí âm đối với người có thu nhập thấp. Và thực tế đã chứng minh rằng
đây là một mô hình hợp lý, người có thu nhập thấp sẽ có thuận lợi hơn người có
thu nhập cao.
Nếu điều đó xảy ra trong năm thứ hai, những người ở trong năm đầu tiên sẽ có thể
quyết định họ sẽ kiếm tiền không đủ để bị cho là có mức lương cao. Họ có thể
chọn mức thu nhập giống nhau. Năm thứ hai, chính phủ không thể xác định được
các mức lương, và mọi thứ sụp đổ. Hy vọng cho một sự tối ưu đã mô tả không
phải là một hệ cân bằng. Có một hệ cân bằng mà trong đó không ai làm gì cả,
nhưng điều đó hoàn toàn không thoả mãn. Vấn đề là trong năm thứ hai, chính phủ
sẽ trở nên cực đoan nếu hành động như đã mô tả. Có thể dự đoán được rằng ứng
xử cực đoan đó của chính phủ sẽ dẫn đến rắc rối. Cái mà chúng ta có là một tình
huống đặc biệt tồi tệ của sự không phù hợp tạm thời. Nếu chính phủ có thể tự cam
kết trước rằng sẽ áp dụng cho những nhóm đó trong tất cả các năm trong tương lai,
chúng ta có thể quay lại hệ cân bằng tốt thứ nhì đã mô tả như trong hệ thống thuế
tối ưu. Có thể sự việc sẽ xảy ra tốt hơn thế. Vấn đề là chính phủ không hề, ở một
mức độ đáng kể, tự cam kết về tỷ suất thuế trong tương lai, và thực tế không dễ
dàng làm như vậy; và do đó vấn đê đã nói không phát sinh. Bằng cách chấp nhận

một điều cho rằng những người sinh ra ở các thời điểm khác nhau đều chịu một hệ
thống thuế như nhau, chính phủ cần có một đảm bảo, ở một mức chi phí để từ bỏ
những cơ sở mong muốn đối với sự phân biệt thuế.
Có thể mọi người sẽ không nói rõ ra. Giống như một người bắt đầu suy nghĩ làm
thế nào để đi lại, chúng ta sẽ đưa mình vào nhiều rắc rối khi suy nghĩ. Chúng ta
gặp cùng một vấn đề mà Kydland và Prescott (1977) đã xác định trong chính sách
kinh tế vĩ mô. Trong chính sách kinh tế vĩ mô, chúng ta không coi nó là nghiêm
túc. Có một rắc rối không rõ ràng ở đây, có lẽ là trong vấn đề hệ thống thuế đối
với tài sản.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

×