68
PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC ĐẠI HỌC
ÁP DỤNG TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Lê Đức Ngọc
Đại học Quốc gia Hà Nội
I. Bản chất và đặc điểm dạy và học trong học chế tín chỉ :
Hiện tồn tại hai mô hình giáo dục:
1- Lấy thầy giáo làm trung tâm: dạy làm chính, thuộc bài của thày là giỏi.
2- Lấy người học làm trung tâm: học làm chính, tự chiếm lĩnh được kiến
thức mới là giỏi.
Sự khác biệt giữa hai mô hình trên về dạy và học lấy giáo viên làm
trung tâm và học viên làm trung tâm được tóm tắt trong bảng sau:
Giáo viên làm trung tâm Học viên làm trung tâm
Truyền
thụ kiến
thức
Kiến thức được truyền thụ từ
giáo viên đến học viên theo
những gì giáo viên nói được
tiếp thu và được học bởi học
viên
Kiến thức xây dựng được từ
người học qua việc thu thập, tổng
hợp và tích hợp thông tin với các
kỹ năng như điều tra, trao đổi
cũng như tư duy phê phán và tư
duy sáng tạo
Sử dụng
kiến
thức
Nhấn mạnh lĩnh hội kiến thức
(thường là nhớ thông tin)
ngoài bối cảnh thực tế mà
kiến thức được sử dụng
Nhấn mạnh sử dụng và trao đổi
kiến thức có hiệu quả nhằm vào
những vấn đề mà giống như sẽ
gặp trong đời sống thực
Vai trò
của giáo
viên
Giáo viên là người cung cấp
thông tin ban đầu và kiểm tra
kết quả học tập
Giáo viên là người huấn luyện và
thúc đẩy việc học. Cả hai giáo
viên và học viên cùng đánh giá
kết quả học tập
Kiểm tra
đánh giá
Kiểm tra đánh giá được sử
dụng để đánh giá kết quả học
tập
Kiểm tra đánh giá được sử dụng
đẻ khảo sát vấn đề và thúc đẩy
việc học sâu hơn, ngoài đánh giá
kết quả học tập
Văn hoá
học
Văn hoá học là cạnh tranh và
cá thể hoá
Văn hoá học là hợp tác, cộng tác
và trợ giúp
(Jonathan A.Aliponga, PhD. Nishiyamato Gakuen and Hakoho Womens College Nara, Japan.
Changing Winds and Shifting Sands: From Teacher-centred to Learner-centred Institution.
CDT Link, July 2004 Vol.8 No2)
69
Bản chất của học chế tín chỉ là thực hiện một qui trình đào tạo:
1- Tất cả vì người học: cách tốt nhất đáp ứng các mong muốn của người
học khi học đại học.
2- Mang lại hiệu quả (= chất lượng + hiệu suất) đào tạo cao:
- Chất lượng cao vì đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực.
- Hiệ
u suất cao vì khai thác triệt để nguồn lực (nhân lực, vật lực và
tài lực) để đào tạo.
- Qui mô càng lớn, trường càng nhiều lĩnh vực hiệu quả càng cao.
3- Công nghệ hoá đào tạo: qui trình mang tính công nghệ cao.
4- Thích ứng với kinh tế thi trường: tuân theo qui luật giá trị, canh tranh
làm động lực không ngừng nâng cao chất lượng (người học được chọn
thày, chọn môn học…) và nguồn nhân lực chuyển đổi ngành ngh
ề
nhanh.
5- Đáp ứng xu thế toàn cầu hoá: chuyển đổi, trao đổi, liên thông toàn cầu.
Với Bản chất và đặc điểm của học chế tín chỉ như vậy, bản tham luận
này, xin nêu một số nguyên tắc chính về dạy và học đại học áp dụng trong học
chế tín chỉ để các độc giả tham khảo
II. Dạy học đại học :
Dạy học là một khoa học và cũng là một nghệ thuật. Dạy học đại học lại
càng cần có tính khoa học và tính nghệ thuật cao.Tính khoa học của Dạy học
đại học đòi hỏi phải nắm vững bản chất của quá trình đào tạo đại học :
Dạy học đại học là dạy nhận thức (Cognitive
), dạy kĩ năng
(Psychomotor) và dạy cảm nhận (Affective). Tùy theo khoa học (Tự nhiên hay
Xã hội - Nhân văn, Cơ bản hay Công nghệ, Kỹ thuật ...), và tuỳ theo mục tiêu
đào tạo (Đại học hay Sau đại học, chuyên môn hay nghiệp vụ, ...) mà chọn chủ
điểm hay trọng tâm về dạy nhận thức, dạy kĩ năng hay dạy cảm nhận cho phù
hợp.
Tính nghệ thuật của việc dạy họ
c đại học thể hiện ở năng lực của giáo
viên làm sao cho khơi dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển và sáng tạo của
người học để nhận thức, để cảm nhận và để có kỹ năng cao.
Như vậy, Giáo viên nào càng nắm vững tính khoa học và nghệ thuật của
việc dạy học thì sẽ dạy cho sinh viên có được các bậc nhận thức, bậc cả
m nhận
hay bậc kĩ năng càng cao và giáo viên đó sẽ có chất lượng dạy học cao, đồng
thời sản phẩm đào tạo cũng có chất lượng cao.
Theo S.J.Hidalgo (Tips on how to teach effectively, Rex Book
store,1994) thì có khoảng 60 phương pháp dạy học đại học khác nhau, mỗi
phương pháp đều có những điểm mạnh và những điểm yếu. Các điểm mạnh và
các điểm yếu đó lại tăng hay gi
ảm, thay đổi các điểm mạnh thành các điểm yếu
hoặc ngược lại, tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi môn học, mỗi cấp học và mục
tiêu đào tạo.
70
Tuy nhiên có thể phân các phương pháp dạy học thành 2 nhóm chính:
- Nhóm I, Gồm các phương pháp dạy học thụ động hoá người học, hay
còn gọi là các phương pháp dạy học lấy thầy giáo làm trung tâm;
- Nhóm II, Gồm các phương pháp dạy học chủ động hoá người học hay
còn gọi là các phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm.
Dù dạy theo phương pháp nào thì vấn đề đặt ra là phải dạy cho sinh viên
có các bậc nhận th
ức, bậc cảm nhận và bậc kỹ năng càng cao càng tốt. Vì vậy
giáo viên tinh thông chuyên môn là điều kiện tiên quyết để dạy đạt chất lượng
cao. Tuy nhiên, nghiệp vụ sư phạm ngày nay đã là yếu tố quan trọng làm cho
dạy học ở bậc đại học và sau đại học có chất lượng và hiệu quả hơn.
Nếu thừa nhận trọng tâm của dạy họ
c đại học là đào tạo năng lực và vì
học tập trong nhà trường chỉ là giai đoạn đầu của quá trình học tập suốt đời,
thì kiến thức dạy trên lớp không cần phải nhiều, chỉ cần đủ để tự học tiếp theo
không chỉ chính nội dung môn học đang dạy mà cả những kiến thức tiếp tục
thu nhận và phát triển của khoa họ
c-kỹ thuật ngoài học đường. Cho nên giáo
viên cần chọn các kiến thức cốt lõi để dạy học trên lớp, còn mở rộng phải bắt
tự học và phải sử dụng thi - kiểm tra để đánh giá thành quả học tập và đánh
giá năng lực tự học.
Với quan niệm như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực (chủ động hoá ngườ
i học) như các phương pháp "Thảo
luận nhóm" (group discussion), phương pháp "Nghiên cứu trường hợp điển
hình" (case study). . . mà không sợ "cháy giáo án". Tuỳ thuộc vào năng lực và
kinh nghiệm của mỗi giáo viên sẽ vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
cho mỗi môn học đạt đến đỉnh cao của chất lượng đào tạo. Chính vì thế, các
giáo viên dạy học cùng chuyên môn cần thường xuyên trao đổi kinh nghiệm
dạy học với nhau và giúp đội ng
ũ kế cận sớm trau dồi được tính khoa học và
tính nghệ thuật cao trong dạy học mà không phải mò mẫm như các bậc "tiền
bối".
III. Dạy cách học – Một trong những yêu cầu của đào tạo theo học chế tín
chỉ
Cuối thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã chuyển từ quan điểm dạy học
“lấy người dạy làm trung tâm”, chuyển sang quan đi
ểm “lấy người học làm
trung tâm” trong nhà trường từ tiểu học đến đại học là một cuộc cách mạng về
giáo dục. Thực chất là chuyển từ chỗ lấy “việc dạy làm trung tâm” sang lấy
“việc học làm trung tâm”. Khi “lấy việc học làm trung tâm” thì phương pháp
học tập trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng.
Học tập trong xã hội thông tin là quá trình thu thập thông tin, xử lý
thông tin và tích trữ
thông tin dưới dạng tri thức, từ nhà trường hay môi trường
sống, làm cho người học tự biến đổi về trí tuệ và làm phong phú thêm tri thức
của mình, điều đó cũng làm thoả mãn nhu cầu tự nhiên của mỗi người học.
71
Giáo
viên
Trong kinh tế tri thức, người ta phân tri thức thành hai loại:
+ Loại thứ nhất- loại tri thức có thể “điển chế hoá” được, đó là loại tri
thức “ nổi”, có thể được “ nhìn thấy” qua các văn bản, qua hình và qua tiếng,
đó là loại hàng hoá và vì vậy loại này có thể mua bán được.
+Loại thứ hai – loại không thể “điển chế hoá” được, còn gọi là loại tri
thức “ngầm” như
: khả năng tri giác, khả năng sáng tạo, óc phán xét, kinh
nghiệm xử lý tình huống....Và như vậy tri thức loại này không dễ gì mua bán
trực tiếp được mà chỉ có thể mua bán gián tiếp thông qua đào tạo.
Tri thức “ngầm” quan trọng nhất có lẽ là năng lực học hỏi liên tục để
đạt tới những năng lực mới, đó chính là phương pháp học tập. Quá trình học
tập của một cá nhân và vai trò c
ủa giáo viên khi “lấy việc học làm trung tâm”
có thể mô tả qua sơ đồ sau:
Ngửi-Khứu giác Truyền đạt trí thức
Thông
Nghe-Thính giác Tin Phương pháp thu
nhận thông tin
Thông
Nhìn-Thị giác Người học Phương pháp
xử l
ý thông tin
tin
Sờ - Xúc giác Phương pháp
ra quyết định
Tri
Nếm-Vị giác Thức Kiểm tra/Đánh giá
kết quả học tập
Phân tích sơ đồ ta thấy:
+ Người học: có thể thu nhận thông tin qua 5 giác quan,
+ Giáo viên: truyền đạt tri thức, dạy phương pháp thu nhận thông tin,
dạy phương pháp xử lý thông tin, dạy phương pháp ra quyết định để đào tạo
năng lực chuyển thông tin thành tri thức của người học và việc kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của người học, đó là vai trò đặc biệt quan trọng mà công
nghệ và kỹ thuật dù hoàn thiện và phát triển đến đâu cũng không thể thay thế
được người giáo viên.
Cũng qua sơ đồ, chúng ta nhận thấy, sự tái hiện của thông tin hay tri
thức của người học sẽ là quá trình tái hiện tích hợp của các giác quan. Thí dụ,
khi nói đến “ Chè mạn” thì:
+ ở mức độ thấp, chúng ta đ
ã hình dung ra ngay hình thù, màu sắc,
hương vị của chè mạn.
+ ở mức độ cao, người ta còn nghĩ ngay đến tác dụng của chè làm tỉnh
táo, minh mẫn, rồi nuốt nước bọt vì thèm được uống một chén chè nóng hổi và
thậm trí còn nhớ cả địa danh có chè ngon – chè Thái chẳng hạn.
Tất cả các điều phân tích trên đây cho phép:
+ Xác lập được phương pháp học tập hiệu quả nhất cho người học
72
+ Dễ dàng lý giải được các số liệu thống kê sau đây:
Nghe không thôi chỉ nhớ được 20%; Nhìn không thôi chỉ nhớ được
30%; Vừa nghe vừa nhìn thì nhớ được đến 50%;Nói lại được nhớ đến 80%;
Còn vừa nói vừa làm thì nhớ được đến 90%.
+ Lý giải các câu châm ngôn: nếu tôi chỉ nghe thì tôi sẽ quên ngay,
nhưng nếu tôi nhìn thì tôi sẽ nhớ, còn nếu tôi thực hành thì tôi sẽ hiểu (I hear I
forget, I see I remember, I do I understand). Hoặc: Trăm nghe không bằng một
thấy, trăm thấy không bằng một làm.
Về phương châm học tập ở bậc đại học:
Bác Hồ đã nói về phương châm học tập một cách hết sức tóm tắt là
“Cách học tập: Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Như
vậy theo cách nói của Bác, phương châm học tập là ngoài việc lấy tự học làm
chính thì việc học còn phải qua thảo luận nhóm và có sự hướng dẫn của th
ầy.
Khổng tử dạy học trò học tập theo phương châm sau đây:
+ “Học cho rộng, hỏi cho kỹ, phản biện cho sáng tỏ, làm cho hết sức.
+ Có điều không học, nhưng đã học có điều gì chưa thấu thì không thôi.
+ Có điều không hỏi, nhưng đã hỏi có điều gì mà chưa kỹ thì không thôi.
+ Có điều không phản biện, nhưng đã phản biện
điều gì mà chưa sáng
tỏ thì không thôi.
+ Có điều gì không nghĩ, nhưng đã nghĩ điều gì mà chưa nghĩ đến nơi
thì không thôi.
+ Có điều gì không làm, nhưng đã làm điều gì mà chưa tận lực thì
không thôi.
+ Người ta dụng công một, ta dụng công một mà không được thì phải
dụng công gấp trăm; người ta dụng công mười, ta dụng công mười mà không
thành thì phải dụng công gấp nghìn lần để k
ỳ được mới thôi.
Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu rồi cũng thành sáng”.
Như vậy theo Khổng tử thì phương châm học tập là phải tham khảo
nhiều tài liệu, tìm hiểu bài cho thật sâu qua điều tra vặn hỏi, học phải có bình
luận đánh giá và thực hành cho thật nhiều với một quyết tâm cao thì trước chưa
thạo nhưng rồi cũng sẽ thành thạo.
Nội dung dạy cách học ở trường đại học:
1- Dạy cách lập kế hoạch học tập:
+ Dạy cách lập kế hoạch phấn đấu trong học tập với mục tiêu cụ thể: để
có mục tiêu phấn đấu, để phân biệt được việc chính với việc phụ, việc làm ngay
với việc sẽ phải làm và đánh giá kết quả thực hiện m
ục tiêu phấn đấu để từng
bước tích luỹ kết quả học tập.
+ Dạy cách lập kế hoạch sử dụng thời gian: để làm chủ được quĩ thời
gian và không quên các việc sẽ phải làm, không bị động trước rất nhiều các tư
liệu cần phải đọc và các công việc phải hoàn thành đúng hạn.
2- Dạy cách nghe giảng và ghi bài trên lớp: