Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Tài liệu NGHỆ THUẬT CA TRÙ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.38 KB, 2 trang )

NGHỆ THUẬT CA TRÙ


Nghệ thuật ca trù đã có mặt trên dải đất Việt Nam từ trên 10 thế kỷ. Bộ Việt Thông sử
giám cương mục chép việc tháng 8 năm Ất sửu (1025) Lý Thái Tổ chính thức đặt chức
quản giáp để quản lý các giáo phường và tuyển đào kép ca trù vào cung lập ra Ban nữ
nhạc.
Trên các bức chạm thời Lý hiện nay còn thấy rất rõ những cảnh vũ nữ dâng hoa, nhạc
công (nam) vừa mú vừa gảy đàn, thổi sáo, đánh trống… Các bức chạm ở các chùa Phật
Tích (Hà Bắc), Thái Lạc (Hải Hưng), Hoàng Xá (Hà Nam Ninh) và ở các đình như đình
Hương Canh (Vĩnh Phú) cho chúng ta tìm lại được một số đường nét của các điệu múa
Bài Bông, Đại Thạch với cách phục sức hoá trang của các diễn viên ca trù thời Trần và
thời Lê.
Riêng cái tên “ca trù” hiểu cho đúng nghĩa đã nói lên nguồn gốc hết sức xa xưa của môn
nghệ thuật này. “ca” là ca hát (gồm cả đàn, phách và các nhạc cụ kèm theo), “trù” là trò
vui (trù là biến âm của tiếng trò, như Động Thiên Trù là Động Trò, làng Phương Trù là
làng Trò, chợ Đông Trù là chợ Trò) gồm cả tiết mục múa, nhào lộn, kéo co cách điệu, hề
(vai Thầy Bèo). Cả làng, chạ có một phường nghệ thuật tổng hợp như vậy. Đó là vì văn
hoá thời đó chưa phát triển cao, nghệ thuật chưa phân ngành tạo thành từng môn riêng
biệt được.
Dưới các vương triều phong kiến, đặc biệt dưới ba triều Lý, Trần, Lê ca trù phát triển
rất nhanh; nhiều vua chúa, vương hầu, đại khoa tham gia sáng tác nhạc, múa ca trù như
các vua Lý Cao Tông, Trần Thánh Tông, chiêu văn vương Trần Nhật Duật (tác giả điệu
múa Bài Bông phục vụ cho hội lớn ba ngày “Thái bình diên yến” ăn mừng chiến thắng
quân Nguyên). Dưới thời các chúa Trịnh, nhiều vị vua rất trọng chữ Nôm và nghệ thuật
dân tộc, điển hình là Trịnh Cương, Trịnh Sâm (tác giả điệu Thát Nhạc và các bài Thổng
Thiên Thai). Trong dân gian, nhất là ở vùng nông thôn ca trù cũng phát triển rất cao. Ca
trù được dùng chính thức để tế thần, ca ngợi thành hoàng làng, chúc phúc cho dân làng và
khuyến khích việc học hành canh cửi. Hội làng mở vào mùa xuân, đánh đu, đánh vật, bơi
chải, thả chim… không thể thiếu tiếng hát ca trù nơi cửa đình. Nội dung các bài hát ca trù
thường là ca ngợi đất nước, nhắc nhở truyền thống dân làng, giảng kinh truyện, khuyên


đạo lý với các giọng hát sử, dã sử, đào luồn kép vói (loại song tấu sớm nhất), địa phú,
ngâm thơ… và được điểm nhịp bằng tiếng trống, chiêng, đàn đáy, sênh phách giữa khói
hương ngào ngạt.
Từ giữa thế kỷ 17 trở đi lối hát nói một thể thơ mới của Việt Nam phát triển rất cao để đi
sau hơn vào việc tả tình, tả cảnh, nói lên tâm sự của con người. Dương Quảng Hàm, tác
giả bộ Việt văn giáo khoa thư đã nói về lối hát nói “có văn chương lí thú nhất” nhiều bài
có thể coi là những áng kiệt tác trong văn nôm ta. Những bài như: Vịnh Tiền Xích Bích
của Nguyễn Công Trứ, Hương Sơn phong cảnh của Chu mạnh Trinh, Đào Hồng Đào
Tuyết của Dương Khuê, Chơi Hồ Tây của Nguyễn Khuyến… quả rất xứng đáng là những
bài thơ tuyệt bút.
Tiếng hát ca trù qua mười thế kỷ đã chứa đựng dầy đủ tâm hồn dân tộc Việt Nam. Về
nghệ thuật ca nhạc, nó cũng rất đặc sắc: Năm 1973 và năm 1978, các Hội đồng sưu tầm
âm nhạc truyền thống thế giới của tổ chức UNESCO và Châu Á đã trao giải thưởng lớn
nhất cho tiếng hát ca trù Việt Nam qua giọng hát của lão nghệ sĩ Quách Thị Hồ


CA TRÙ CÓ TỪ BAO GIỜ?

Theo các tài liệu cổ để lại, ca trù có từ cách đây gần 1000 năm. Đến thời Lê Thánh
Tông, bộ môn nghệ thuật này cực thịnh, trở thành một sinh hoạt văn hoá phổ biến. Thời
trước, phố Khâm Thiên (Hà Nội) từng nổi tiếng với những “Đệ nhất danh cầm, ca cầm”
như Chu Văn Du, Quách Thị Hồ (Nghệ sỹ Nhân dân đã 2 lần đoạt giải băng từ ca nhạc
Hàn lâm Quốc tế)…
Vốn được khởi phát từ chốn kinh kỳ ngàn năm văn vật, đất Bắc Hà-Thăng Long được coi
là quê hương của ca trù. Hiện ở làng Lỗ Khê (xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội) vẫn
còn ngôi đình thờ Thánh Ông Thánh Bà ca trù, mở hội 2 ngày trong năm: 5/4 và 13/11
âm lịch. Xưa, hàng năm tại làng đều tổ chức thi hát nhưng cuộc thi hát cuối cùng ở đình
làng Lỗ Khê cũng đã cách đây hơn 60 năm.
Ca trù có tới 80 làn điệu rất phong phú: Bắc phản, Mưỡu, Cửa đình, Hát nói, Gửi thư,
Xẩm nhà trò 36 giọng… Trong đó, “Học mướt mồ hôi” và khó nhất là hát khúc “Tỳ bà

hành”. Đặc biệt độc đáo là các làn điệu như: Thét nhục, Ngâm vọng, Đọc phú, Hát sử và
Dã sử… chỉ có một bài duy nhất. Hát ca trù là hát lời thơ, diễn cảm thơ, tình thơ rất cao
đòi hỏi phải tập luyện rất công phu và gian khổ. Người học hát phải là những cô gái trẻ,
có giọng, theo học nhiều khi từ 5-7 năm mới thành tài. Hàng ngày phải tuân thủ chế độ ăn
uống kiêng khem nghiêm ngặt như: không được ăn no (sợ kém hơi), không được uống
rượu và ăn các thứ chua, cay (sợ kém giọng). Luật lệ của giáo phường rất nghiêm, khi hát
phải ngồi xép bằng tròn, thẳng lưng, không đưa mắt, lộ răng mà vẫn phải “tròn vành rõ
chữ”. Nghệ thuật hát ca trù sử dụng hơi là chủ yếu. Giọng ca phải trong, tiếng rung “từ
trong ruột phát ra cuống họng to, rõ, gằn nén công phu, dư âm rền rỉ, sắc thái tinh tế,
huyền bí sâu thẳm, nỉ non, hư thực…”
Nhà thơ Nguyễn Công Trứ được biết đến là người làm thơ ca trù nhiều nhất. Ở thời nào
cũng có những bậc sáng tác ca từ sành điệu: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn
Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Trần Cao Vân, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,
Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương…

×