TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về quy
luật giá trị và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
1
MỤC LỤC
2
Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam từ khi còn sơ khai cho đến nay đã trải qua rất nhiều khó
khăn và thử thách. Đến nay nó vẫn đang ngày một không ngừng phát triển và tiến
bộ để bắt kịp với xu thế của nền kinh tế thế giới. Để làm được điều đó, Đảng và
Nhà nước ta đã áp dụng một nền tảng cơ sở lý thuyết vững chắc từ những lý luận
và học thuyết của Mác – Lê nin.
Trong việc xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, ta
không thể bỏ qua quy luật giá trị - quy luật được coi là quy luật kinh tế quan trọng
nhất của sản xuất và trao đổi hàng hóa. “Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì
ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị”. Chính bởi sự quan trọng này mà ta phải
nắm rõ những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về quy luật giá trị này về mặt
nội dung, ý nghĩa và ảnh hưởng của nó trong việc xây dựng, phát triển nền kinh tế.
Không chỉ vậy, còn phải liên hệ được quy luật này với thực tiễn, với nền kinh tế
Việt Nam. Sự nhận thức và áp dụng quy luật này như thế nào có ảnh hưởng lớn đến
xã hội nói chung và sản xuất hàng hóa nói riêng. Dù tính tích cực hay tiêu cực ra
sao, chúng ta cần phải nghiên cứu và nắm rõ quy luật giá trị để áp dụng tối ưu, hiệu
quả nhất vào trong đời sống. Đây cũng chính là lý do mà em lựa chọn đề tài này
cho bài tiểu luận của mình.
3
1.
1.1.
Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về quy luật giá trị
Nội dung của quy luật giá trị
Mọi sự vật, hiện tượng, hoạt động trên thế giới này đều phải tuân theo một
quy luật nào đó xét trên nhiều khía cạnh như quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế hay
quy luật triết học. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quy luật là
mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng,
giữa các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính của
của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiện tượng. Nói
cách khác, quy luật chỉ ra mối liên hệ giữa những sự vật, hiện tượng; giúp con
người hiểu được sự vận động của nó.
Sự phát triển của một đất nước phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của nền kinh
tế, cũng như là việc sản xuất hàng hóa. Nhắc đến vấn đề kinh tế trong triết học, ta
không thể bỏ qua quy luật giá trị - quy luật cơ bản của kinh tế sản xuất và lưu
thơng hàng hóa. Nội dung của quy luật giá trị bao gồm
Một là, quy luật giá trị yêu cầu, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Như chúng ta đã biết, việc mỗi chủ thể tham gia sản xuất có thể sản xuất ra
cùng một loại hàng hóa nhưng với thời gian lao động khác nhau được gọi là thời
gian lao động cá biệt của họ khác nhau, hay còn gọi là mức hao phí lao động cá
biệt. Trong sản xuất hàng hóa, người lao động có khả năng tự quyết định hao phí
lao động cá biệt của mình. Giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động để
tạo ra sản phẩm đó, nhưng nó lại khơng phải là thời gian lao động cá biệt. Bởi, sẽ
xảy ra trường hợp thời gian tạo ra hàng hóa đó kéo dài thêm bởi người lao động
lười biếng hay vụng về thì điều đó khơng thể chứng tỏ thời gian lao động càng dài
thì giá trị hàng hóa càng cao được.
Từ đó, khái niệm về thời gian lao động cần thiết (hay mức hao phí lao động
xã hội) được sinh ra. Mức hao phí lao động xã hội là lượng thời gian cần thiết để
sản xuất ra một hàng hóa trong một điều kiện bình thường, với một trình độ lao
động thành thạo trung bình, cường độ trung bình so với một hồn cảnh xã hội nhất
định. Khi đó, giá trị hàng hóa được đo lường một cách chính xác.
4
Vì thế mà trong trao đổi hàng hóa, nếu người sản xuất muốn thu được lợi
nhuận cao càng cao thì họ phải rút ngắn thời gian lao động cá biệt xuống càng thấp
hơn so với thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thứ hai, trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị; giá trị lại là cơ sở của giá
cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Nghĩa là hàng hóa nào có nhiều giá
trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường trao đổi hàng hóa, người
bán bao giờ cũng muốn được tối đa hóa lợi nhuận của mình. Như đã nói, họ phải
giảm chi phí cá biệt (đặc biệt là trong giai đoạn sản xuất hàng hóa, trước khi đưa
vào lưu thơng) nhỏ hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết để bù đắp được chi
phí và có lãi. Họ sẽ dùng nhiều biện pháp để nâng giá cao nhất có thể để tối đa hóa
lợi nhuận.
Tuy nhiên, ngồi giá trị, giá cả cịn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh
tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Ví dụ, khi bn bán, trao đổi một loại sản
phẩm hàng hóa, có hai hay nhiều hơn một nhà cung cấp sản phẩm hàng hóa này.
Các nhà cung cấp này sẽ là đối thủ cạnh tranh với nhau và phải thay đổi giá sao
cho thu hút người mua mua hàng hóa của mình. Điều đó chứng tỏ sự tác động của
nhân tố cạnh tranh đã làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và
lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Nghĩa là giá cả hàng hóa vẫn là sự biểu
hiện của giá trị, nhưng sự thay đổi của giá cả không chỉ là sự thay đổi của giá trị
mà cịn phụ thuộc vào những nhân tố khác.
Đây chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Phát biểu theo chủ nghĩa
Mác – Lê nin: “Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị là sự vận động giá cả thị
trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó. Thơng qua sự vận động của giá
cả thị trường mà quy luật giá cả phát huy tác dụng.”
1.2.
Tác động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị tác động đến mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong q
trình sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
Thứ nhất, quy luật giá trị điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
5
Điều tiết sản xuất là việc phân bổ và điều hòa các yếu tố trong sản xuất giữa
các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Trước hết, nó phân phối lại các yếu tố tư liệu
sản xuất và sức lao động từ ngành này sang ngành khác; nguồn hàng từ nơi này
sang nơi khác, từ mặt hàng này sang mặt hàng khác theo hướng từ nơi có lãi ít
hoặc khơng có lãi sang nơi có lãi cao, thơng qua sự biến động giá cả hàng hóa trên
thị trường. Điều này tuân theo quy luật cung cầu trên thị trường hàng hóa. Khi
cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi
cao thì người sản xuất sẽ đổ xơ vào ngành ấy và ngược lại. Điều này làm cho lưu
thơng hàng hóa được thơng suốt. Ví dụ, một doanh nghiệp mới ra mắt dịng điện
thoại mới với mẫu mã có nhiều ưu thế hơn, người mua hàng thấy rằng họ sẽ có
nhiều giá trị sử dụng hơn đối với loại hàng hóa này như giá trị về tính năng, tính
thời thượng, khi này giá hàng hóa sẽ tăng và doanh nghiệp sản xuất nhiều sản
phẩm hơn. Ngược lại, khi cung vượt quá cầu, giá trị sử dụng của hàng hóa ít đi, giá
cả hàng hóa giảm xuống, doanh nghiệp ấy phải thu hẹp quy mơ hoặc đầu tư sang
ngành khác có giá cả hàng hóa cao hơn.
Thứ hai, quy luật giá trị kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Như đã nói, để giành lợi thế trong cạnh tranh và bù đắp chi phí để có lãi,
người sản xuất phải tìm cách hạ thấp chi phí lao động cá biệt nhỏ hơn chi phí lao
động xã hội cần thiết. Nếu không, họ sẽ rơi vào thế bất lợi hoặc bị lỗ. Để làm được
điều này, bắt buộc người sản xuất phải tăng năng suất lao động bằng cách cải tiến
kỹ thuật công nghệ, cái tiến cơng tác tổ chức quản lý và tăng trình độ của người lao
động.
Sự cạnh tranh để giành lợi thế này không chỉ xảy ra ở một vài nhà sản xuất
mà ở tất cả các nhà sản xuất tham gia vào thị trường hàng hóa. Điều này khiến cho
nó mang tính xã hội và bao quát. Đây là một tác động tích cực của quy luật giá trị
lên thị trường bởi cạnh tranh càng quyết liệt, kĩ thuật công nghệ ngày càng được
thúc đẩy để cải tiến, xã hội càng phát triển.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo.
Tuy nhiên, điều gì cũng có tính hai mặt của nó. Ngồi tác động tích cực giúp
xã hội phát triển thì quy luật giá trị cũng tác động tạo ra sự phân hóa giàu – nghèo
6
trong xã hội. Khi công nghệ, kĩ thuật phát triển, điều kiện sản xuất trở nên thuận
lợi hơn, như vậy những cơng nhân có trình độ kĩ thuật cao sẽ có hao phí lao động
cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, từ đó cơng việc làm ăn được mở
rộng, phát triển và trở nên giàu có hơn. Ngược lại, những người khơng có điều kiện
thuận lợi hoặc có ít kiến thức về cơng nghệ kĩ thuật hơn sẽ có thể gặp khó khăn và
rủi ro trong kinh doanh, lỗ và phá sản trở thành những người nghèo trong xã hội.
Như vậy, có thể quy luật giá trị trong nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng
hóa có tầm ảnh hưởng vơ cùng lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải
các yếu tố yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác tạo ra sự
phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội.
1.3.
1.3.1.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà nó
là sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Sự ra đời và phát triển của nó trải qua
nhiều giai đoạn: từ nền kinh tế hang hóa đến thị trường tự do cạnh tranh và ngày
nay là nền kinh tế thị trường hiện đại.
Ở nước ta, sản xuất hàng hóa nhỏ cịn là phổ biến và trong quá trình vận động
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa rộng, kinh tế thị
trường được hiểu là nền kinh tế mà trong đó mà người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung – cầu, quy luật giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
1.3.2.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu
dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hỗn
hợp, đa dạng các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Nghĩa là các nhà sản xuất được tự do kinh doanh các mặt hàng phù hợp
với khả năng và nhu cầu của mình cũng như của khách hàng, tuân theo luật pháp
của Nhà nước ban hành.
7
2.
Hiện trạng áp dụng quy luật giá trị trong việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trước thời kì Đổi mới, chúng ta phủ nhận quy luật giá trị và vẫn áp dụng nền
kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, sản xuất hàng hóa là tự cung tự cấp và
khơng hề có cạnh tranh. Vậy nên nền kinh tế thụt lùi không phát triển do không
khai thác được nguồn lực, kinh tế rơi vào khủng hoảng.
Nhận thấy rõ tình hình và tính cấp thiết của nền kinh tế đang dần suy thoái,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ XII bổ sung và tuyên bố một cách rõ ràng:” Nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.”. Chủ trương này
nhanh chóng được các nhà đầu tư trong, ngồi nước và đơng đảo người sản xuất,
tiêu dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước ngồi
xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư
thương phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mơ ngày
càng lớn, chủng loại phong phú hơn.
Việt Nam sau hơn 30 năm Đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những
thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế. Từ một nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng
được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra mơi trường thu hút nguồn lực xã hội
cho phát triển dài hạn và bền vững. Từ đó sản xuất hàng hóa tăng trưởng mạnh đi
cùng với đó là sự tăng trưởng của nền kinh tế, cụ thể GDP trong 10 năm trở lại đây
tăng đáng kể: trong đó năm 2007 tăng 6,81%, kinh tế phát triển ổn định. Lạm phát
được kiểm soát tốt, giá cả được bán với đúng giá trị của hàng hóa, tuân theo
nguyên tắc ngang giá. Cụ thể năm 2015, tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn 0.6%.
Cơ cấu GDP theo ngành chuyển dịch theo hướng tích cực đó là giảm tỷ lệ
trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp,
dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn chậm và các yếu tố XHCN xuất hiện
chưa rõ rệt. Thành phần kinh tế Nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế
8
nhưng hiệu quả thấp; thay vào đó là thành phần kinh tế tư nhân và khu vực có đầu
tư nước ngoài.
Sự thay đổi trở thành nền kinh tế thị trường bao gồm việc mở cửa giao thương
với các nước, đẩy mạnh xuất khẩu, nhập khẩu cũng giúp cho công nghệ kĩ thuật
nước ta phát triển nhanh chóng, tuy vẫn cịn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có
và cịn thua kém so với nhiều nước trong khu vực.
Tác động của quy luật giá trị lên thị trường cũng gây nên tình trạng phân hóa
giàu – nghèo ngày càng gia tăng, lãng phí và tham nhũng chỉ vừa mới được ngăn
ngừa trong những năm gần đây. Đa số nơng dân có thu nhập thấp, hiện tượng hàng
nhái, bn lậu cịn xuất hiện nhiều.
3.
Nguyên nhân của hiện trạng
Về phía Nhà nước
Sự thay đổi tích cực được tạo ra nhờ Đảng và Nhà nước đã áp dụng đúng đắn
quy luật giá trị tác động lên việc sản xuất và lưu thơng hàng hóa. Nhà nước đã
phân phối lại các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động từ ngành này sang ngành
khác, từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Bởi ngành nơng
nghiệp hàng hóa có giá thành rẻ, rủi ro lại cao do tính mùa vụ, thừa lao động (trước
Đổi mới, hơn 90% dân số làm nghề nơng) trong khi ngành cơng nghiệp dịch vụ có
tiềm năng phát triển cao, điều kiện thuận lợi (có tài nguyên thiên nhiên dồi dào)
nhưng u cầu lao động có trình độ cao nên tốc độ chuyển dịch còn chậm.
Khoa học kĩ thuật được cải tiến nhờ việc hội nhập quốc tế. Nhà nước khuyến
khích, đẩy mạnh mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới để tiếp
thu những kiến thức và công nghệ hiện đại, phát huy tối đa các nguồn lực trong và
ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng nền kinh tế.
Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên
tắc ngang giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong
nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung
nhiều đến nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng
hàng hóa sẽ lưu thơng từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam,
thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu
9
thơng của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ
sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà Nhà nước ta đã vận dụng
vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ thuật,
tăng cường quản lý. Không những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi
giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự chênh lệch
giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung
cầu và phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch
hóa sự tiêu dùng của xã hội. Nhờ vậy, giá cả ổn định hơn, lạm phát được kiểm sốt.
Tuy nhiên, các chính sách cịn nhiều hạn chế, chưa triệt để khiến cho các vấn
đề tham nhũng, thất nghiệp, hàng giả, hàng nhái vẫn cịn phổ biến.
Về phía doanh nghiệp và người lao động
Các doanh nghiệp nhanh chóng áp dụng công nghệ kĩ thuật mới vào sản xuất,
tăng cường các chính sách phù hợp cho cơng nhân viên của mình để tăng năng suất
lao động. Người lao động tiếp thu những kiến thức công nghệ mới, sáng tạo và có
tay nghề cao.
Do sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế, chạy theo lợi nhuận, chỉ để bán
được hàng hóa với giá cao hơn nhưng giá trị hàng hóa khơng thay đổi hay thậm chí
thấp hơn nhiều, một vài doanh nghiệp đã bất chấp gian lận trong buôn bán, bán các
sản phẩm kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái. Điều này được thể hiện rõ trong thị
trường mỹ phẩm, nước hoa hay một số đồ gia dụng, điện tử.
10
4.
Giải pháp áp dụng quy luật giá trị vào thực tiễn nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN
Đối với Nhà nước
Thứ nhất, hồn thiện tăng trưởng kinh tế đi đơi với cơng bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về cơ hội phát triển
cho mọi thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng, cơng bằng
từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "khơng một ai bị bỏ lại
phía sau”…; chú trọng hơn trong việc nghiên cứu, ban hành các chính sách trợ
giúp xã hội. Chủ trương thực hiện các dự án giáo dục, hạy học, dạy nghề cho con
em những hộ gia đình khơng đủ điều kiện kinh tế hoặc các chinh sách phân phối lại
thu nhập quốc dân giữa các ngành nhằm nâng cao đời sống của người dân lao
động.
Thứ hai, chủ động nâng cao, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, quan hệ thương mại
với nước ngoài, tiếp thu các kĩ thuật công nghệ tiên tiến của thế giới. Đồng thời,
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giảm thiểu các tranh chấp quốc tế khơng
đáng có. Khơng ngừng nâng cao trình độ kĩ thuật, khoa học cơng nghệ và đưa
chúng áp dụng vào các ngành kinh tế cũng như sản xuất hàng hóa.
Thứ ba, phải xây dựng kinh tế thị trường khơng có sự phân biệt đối xử đối với
các đối tượng và chủ thể trên thị trường. Và để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà
nước và kinh tế hợp tác cần được xem như mọi thành phần kinh tế khác, được đối
xử bình đẳng, khơng có sự ưu tiên hay phân biệt. Các khu vực kinh tế đều là bộ
phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động bình
đẳng, đúng pháp luật, được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển như nhau.
Thứ tư, kiên quyết cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước
trong sạch, thủ tục quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách nhiệm
phục vụ và giải trình của công chức. Trọng trách của Đảng là phải lãnh đạo thành
công công cuộc cải cách này và phải thu hút, đào tạo được các cơng chức trong
sạch, tài năng, thích hợp với chức trách được giao. Tạo cơ chế để nhân dân tăng
cường giám sát đảng viên, công chức bằng cách tổ chức các kênh thông tin cung
11
cấp bằng chứng sai trái của công chức, tổ chức bảo vệ có hiệu quả nhân chứng, tăng
cường trách nhiệm phản biện của cơng luận, nhất là báo chí, truyền thơng,…
Cuối cùng, nhận thức rõ vai trị của Nhà nước, của Đảng trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù quy luật giá trị tồn tại
một cách khách quan trong nền kinh tế, nhưng nhờ nắm vững tác dụng chủ đạo của
các quy luật kinh tế, Nhà nước đã nâng cao dần trình độ cơng tác, kế hoạch hóa
kinh tế. Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: Về cơ bản chúng ta đã nắm được nội
dung, tính chất và tác dụng của quy luật giá trị đối lĩnh vực sản xuất và phân phối
và đã vận dụng nó phục vụ các nhiệm vụ chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà
nước trong từng thời kỳ. Cơng tác kế hoạch hóa giá cả cũng đã có tiến bộ, phạm vi
ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng được nâng lên một bước. Với vai trị
quản lý vĩ mơ của Nhà nước, việc vận dụng tốt quy luật giá trị vào nền kinh tế thị
trường ở nước ta nhằm: kích thích sản xuất phát triển; điều hịa lưu thơng hàng tiêu
dùng; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân...
Về phía doanh nghiệp và người lao động
Doanh nghiệp và người lao động là tế bào của nền kinh tế nên có vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc góp phần làm thay đổi và phát triển xã hội. Để áp dụng
một cách đúng đắn và hiệu quả quy luật giá trị vào nền sản xuất và trao đổi hàng
hóa, các doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống giá bán buôn để đưa chế độ hoạch
toán kinh tế đi vào nền nếp và có căn cứ vững chắc. Chú trọng nguyên tắc giá cả
hàng hóa phù hợp với giá trị hàng hóa cũng như giá trị hàng hóa phải phù hợp với
thời gian lao động xã hội cần thiết. Nghĩa là doanh nghiệp phải cam kết bán đúng
giá, không bán phá giá và khơng bán các sản phẩm có chất lượng khơng đạt tiêu
chuẩn, hàng giả, hàng nhái.
Về phía người lao động, cần thích ứng nhanh với xã hội ngày càng phát triển
và hiện đại để khơng bị tụt lại phía sau. Phải luôn cập nhật và học hỏi những ứng
dụng khoa học kĩ thuật mới, trang bị cho mình kiến thức nền tảng, kĩ năng cơ bản
nhất. Ủng hộ và tuân thủ các quy định của nhà nước trong việc xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
12
Kết luận
Nói tóm lại, quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng
hóa. Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu thơng
hàng hóa- ở đâu có sản xuất và lưu thơng hàng hóa, ở đó có quy luật giá trị. Việc
vận dụng quy luật giá trị vào phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp nền kinh tế Việt Nam từ trạng thái
suy thoái vực lên phát triển theo kịp trình độ các nền kinh tế phát triển trên thế
giới. Nhà nước với vai trị quản lý vĩ mơ nền kinh tế cần có những giải pháp để
hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị tới nền kinh tế, giúp nền kinh
tế Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Khơng chỉ có vai trò của Nhà
nước, doanh nghiệp và người lao động cũng ln phải có những biện pháp và thay
đổi đúng đắn để góp phần tăng trưởng xã hội.
13
-
-
Tài liệu tham khảo
Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viên
đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
– Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Wikipedia: Thời gian lao động xã hội cần thiết
Wikipedia: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tuyên giáo Việt Nam/Nghiên cứu lý luận thực tiễn phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta.
Baoninhthuan.com.vn/Chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
14