1
Câu 1. Trình bày nội dung, vai trò của cơ chế quản lý kinh tế. Những giải pháp hoàn thiện cơ chế
quản lý ?
Bài làm
Cơ chế quản lý kinh tế có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi
quốc gia, dân tộc. Cơ chế quản lý kinh tế đúng đắn, phù hợp sẽ tạo động lực xã hội và trở thành
công cụ phát triển kinh tế phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho
toàn xã hội. Ngược lại, cơ chế quản lý kinh tế lạc hậu, đi ngược lại các quy luật khách quan sẽ làm
kìm hãm, trì trệ sự phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến những hậu quả mà khắc phục nó phải là tốn
một thời gian rất dài không chỉ một vài năm mà phải là hàng mấy chục năm. Vậy nội dung, vai trò của
cơ chế quản lý kinh tế là gì ? Cơ chế quản lý kinh tế mà Việt Nam đang áp dụng là gì ? Những giải
pháp nào để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra
cho sự phát triển đất nước ? Bằng những kiến thức về quản lý kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ
vấn đề trên
Cơ cấu kinh tế của hệ thống kinh tế quốc dân luôn ở trạng thái động và phải bảo đảm nội dung
biến động thỏa mãn những nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội. Sự biến đổi, chuyển dịch của
cơ cấu kinh tế vận hành theo những quy luật vận động khách quan : đó chính là cơ chế kinh tế.
Nhận thức cơ chế kinh tế khách quan để từ đó xây dựng cơ chế điều khiển nhằm đảm bảo quá trình
vận động, biến đổi cơ cấu kinh tế theo đúng yêu cầu, quy luật khách quan là công việc hệ thống quản
lý phải giải quyết và đây cũng chính là nội dung xây dựng cơ chế quản lý kinh tế. Như vậy, cơ chế
quản lý kinh tế được hiểu như là hệ thống các yếu tố, phương pháp, cách thức, công cụ mà chủ thể
quản lý sử dụng để vận hành, tác động, điều khiển quá trình vận động của hệ thống kinh tế nhằm
thực hiện các mục tiêu quản lý, mục tiêu phát triển đã hoạch định. Cơ chế quản lý kinh tế là sản
phẩm sáng tạo của chủ thể quản lý, vì vậy nó mang tính chủ quan của chủ thể quản lý nhưng đồng
thời nội dung của nó cũng phải dựa trên cơ sở nhận thức, phản ánh những nội dung khách quan của
cơ chế kinh tế. Sự phù hợp hay không phù hợp của cơ chế quản lý với cơ chế kinh tế hoặc sẽ tạo
động lực hoặc sẽ tạo áp lực cản trở chính quá trình vận động, phát triển cơ cấu kinh tế của hệ thống
kinh tế quốc dân.
Về mặt cấu trúc, cơ chế quản lý kinh tế bao gồm 2 thành phần cơ bản : một là hệ thống các mục
tiêu để định hướng nội dung vận động của hệ thống kinh tế trong từng thời kỳ và hai là hệ thống các
yếu tố, phương pháp, công cụ quản lý kinh tế được chủ thể quản lý sử dụng để vận hành, điều khiển
hoạt động của hệ thống kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng cơ chế quản lý kinh tế là cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước. Riêng ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Đảng ta đã xác định
rõ phải phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nói rõ hơn, đó chính là nền kinh tế mà phương thức vận hành của nó tuân
theo các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường, các quy luật của thời kỳ quá độ đồng
thời có sự quản lý của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại bởi vì sử
dụng cơ chế thị trường để quản lý nền kinh tế không phải là thuộc tính của CNTB mà nó được xem
như là một thành quả của văn minh nhân loại đồng thời trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta
vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhìều hình thức sở hữu, đây là những điều kiện tất yếu cho
sự tồn tại của nền kinh tế thị trường .
Về nội dung, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là sự kết hợp giữa nhân tố khách quan và chủ quan trong quản lý nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nhân tố khách quan, cơ chế thị trường được sử dụng như “bàn tay vô hình” để điều tiết hoạt
động của nền kinh tế theo các quy luật khách quan : quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, quy luật giá cả, quy luật lợi nhuận… Nội dung của cơ chế “Bàn tay vô hình” gồm ba yếu tố :
một là quan hệ cung - cầu là cơ chế điều tiết mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động của
2
nền kinh tế; hai là giá cả và lợi nhuận đóng vai trò đóng vai trò phân phối các nguồn lực (giá cả) và
tạo động lực cho các chủ thể (lợi nhuận); ba là cạnh tranh là cơ chế phát triển của doanh nghiệp và
của hệ thống kinh tế quốc dân đó. Chính cơ chế thị trường tạo nên tính năng động, tính trách nhiệm
và tính hiệu quả trong quá trình vận động của nền kinh tế. Tuy nhiên, phải thấy rằng cơ chế thị
trường như con dao 2 lưỡi, bên cạnh những mặt tích cực, nó còn có những mặt tiêu cực như : luôn
chứa đựng những yếu tố tự phát, dễ làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng do tính tất
yếu của các chu kỳ kinh tế, tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị trường tạo ra sẽ dần dần hạn chế
các nguồn lực, hàng hóa công cộng không được thị trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất
cân xứng, mội trường sinh thái bị phá hủy, sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ
đến tính ổn định của đất nước …
Vì vậy, để sử dụng rộng rãi cơ chế thị trường phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
nó thì cần phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách, cơ chế quản lý nhằm xác lập
trạng thái ổn định của cơ chế thị trường trong quá trình tác động của cơ chế. Nếu cơ chế thị trường
là cơ chế vận hành khách quan của nền thị trường thì hoạt động quản lý của nhà nước mang dấu ấn
chủ quan của chủ thể quản lý nhà nước Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thông qua công cụ
định hướng như Luật pháp, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, mục tiêu, các công cụ điều tiết, đòn
bẩy kinh tế như chính sách (giá, thuế, tài chính, lãi suất, tín dụng, thương mại ) và các công cụ
giám sát như : thanh tra, kiểm tra Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường không phải bằng sự
duy ý chí của mình mà phải bằng nhận thức, tôn trọng và tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, những quyết định của nhà nước phải tương hợp với điều kiện kinh tế thị trường
Đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài việc dựa trên
nguyên tắc và quy luật của thị trường, nền kinh tế còn dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của CNXH thể hiện trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối. Mục
đích của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất CNXH và nâng cao đời sống vật chất của người dân. Về sở hữu, nền kinh tế phải dựa trên cơ
sở công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu song song với đa dạng hóa các hình thức sở hữu, kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế. Về chế độ quản lý, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa thực hiện việc quản lý nhằm kết hợp giữa tính cân đối kế hoạch và tính năng động,
nhạy cảm của thị trường. Về phân phối, sử dụng nhiều hình thức nhưng phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế phải là hình thức phân phối chủ yếu. việc phân phối thông qua các quỹ
phúc lợi XH và tập thể có ý nghĩa quan trọng và gắn liền mỗi bước tăng trưởng kinh tế với cải thiện
đời sống… Về chính sách xã hội, chúng ta chủ trương làm giàu nhưng đó là làm giàu hợp pháp, cùng
với làm giàu phải xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự phân cực quá đáng giàu nghèo trong nền kinh tế
thị trường, phải chăm lo tiến bộ và công bằng XH ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Nền kinh tế
thị trường XHCN cũng là nền kinh tế mở hội nhập nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Chủ thể vận hành trong cơ chế quản lý gồm thị trường, nhà nước và doanh nghiệp. Thị trường: có
vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản
xuất, kinh doanh, biểu hiện trực tiếp qua những ảnh hưởng từ nội dung tác động của các quan hệ
cung- cầu, giá cả, phân phối lợi nhuận, cạnh tranh thị trường. Nhà nước thực hiện nội dung quản lý vĩ
mô (điều tiết, điều chỉnh các quan hệ thị trường) nhằm phát huy mặt tích cực đi đôi với việc ngăn
ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường nhằm định hướng quá trình
vận động của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa và đảm bảo các quan hệ cân đối
cần thiết cho nội dung phát triển ổn định của nền kinh tế (như quan hệ cân đối hàng - tiền, quan hệ
cân đối xuất - nhập khẩu, quan hệ cân đối thu - chi ngân sách, quan hệ cân đối sản xuất - tiêu
dùng…). Doanh nghiệp: xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất, kinh doanh nhằm đảm
bảo khả năng tiếp cận, khả năng hoạt động theo nội dung điều tiết của cơ chế thị trường và theo nội
dung định hướng của Nhà nước.
Trong thời gian qua, việc thực hiện cơ chế quản lý kinh tế bằng thị trường có sự quản lý nhà nước
theo định hướng XHCN đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng cơ chế quản lý kinh tế của ta
nhìn chung vẫn còn sơ khai, vẫn còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của nền kinh tế kế hoạch tập trung, thất
1-4
1-4
3
thoát, lãnh phí còn nhiều và phát triển chưa đúng đắn. Để đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế của nước ta hiện nay, cần tập trung vào những giải pháp sau đây :
Một là thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển mạnh thị trường hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt quan tâm các thị
trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Thị trường ở nước ta hiện nay
đang được phát triển ở giai đoạn đầu, sơ khai, do đó việc phát triển một thị trường đầy đủ, đồng bộ và
lành mạnh không chỉ là một nội dung quan trọng trong chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế mà còn
là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Để thực hiện điều đó, trước
hết nhà nước cần tạo môi trường thể chế phát triển đồng bộ các loại thị trường, trước hết là môi
trường pháp lý để giải phóng những yếu tố sản xuất cơ bản : đất đai, lao động, vốn . Hai là phải
phát triển các tổ chức hỗ trợ thị trường từ tòa án, các cơ quan thông tin đại chúng, cách dịch vụ khoa
học - công nghệ, kế toán, kiểm toán, thiết kế, nghiên cứu thị trường, sử dụng số liệu, thông tin, quảng
cáo và duy trì bảo dưỡng, các tổ chức xúc tiến mậu dịch và các dịch vụ về đào tạo. Ba là tôn trọng
các loại cạnh tranh thị trường, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp
cạnh tranh và hợp tác để phát triển, kiên trì phá bỏ chia cắt, phong toả và độc quyền theo ngành và
địa phương, thúc đẩy và bảo hộ cạnh tranh công bằng, coi cải cách giá cả là vấn đề then chốt để thị
trường trưởng thành
Hai là nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước bằng việc thực hiện
đồng bộ các giải pháp như sau :
- Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế, kiểm kê và kiểm soát
mọi hoạt động kinh tế XH bằng việc đổi mới công tác kế hoạch hóa, tăng cường thông tin kinh tế - xã
hội trong nước và quốc tế; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học- công nghệ trong dự bátrong,
nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội đảm bảo phù hợp và định hướng được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều
biến động. Tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây dựng, thay dần quy
trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật,
ban hành, thực thi pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình
kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo
yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta,
nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước . Bên cạnh đó, phải
tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức
năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh
và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước
về kinh tế. Các cơ quan quản lý (bao gồm các cấp chính quyền và các cơ quan quản lý chuyên
ngành) cần phải sắp xếp, chấn chỉnh lại tổ chức bộ máy theo hướng giảm bớt các đầu mối, các khâu
trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối
với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ
khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ
chức bộ máy Nhà nước về kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà
nước có phẩm chất, trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh tế thị trường và thực hiện cải cách
thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và
phong cách quan liêu, phiền hà đối với nhân dân và các doanh nghiệp.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ và nhất quán : về
chính sách tài chính - tiền tệ, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và
các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất,
không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ
4
quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Nhà nước, thực hiện
chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái có
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước,
thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc
thu và chi ngân sách địa phương. Về chính sách đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các chương trình
quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các
chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo
ra môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân bổ
nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, thường xuyên
quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ
chế quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp tục
hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện chính sách tự do hóa thương mại,
các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được nhà nước bảo vệ nhưng phải hoạt động thương
mại đúng pháp luật; mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ hàng nông
sản; mở rộng ngành nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và coi đây là
nhiệm vụ quan trọng sống còn, nó phải được thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính,
kinh tế và tâm lý giáo dục, nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế
phải kiên quyết loại trừ các phần tử thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước
Ba là nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội như : thực hiện thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, thực hiện
các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là tín dụng cho người nghèo và các chính sách xã hội
khác
Tóm lại, việc sử dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa để quản lý nền kinh tế là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, vừa phù hợp với xu
hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và
những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Bước đầu, việc
vận hành cơ chế kinh tế hàng hóa thị trường trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã đạt được một số
thành tựu nhất định và điều đó giúp chúng ta khẳng định hơn về sự chọn lựa này đồng thời cũng đặt
ra những yêu cầu mà chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn cơ chế quản lý kinh tế
để thúc đẩy hơn nữa sự tăng trưởng, phát triển và thịnh vượng chung của đất nước.
Câu 2 Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Giải pháp nâng cao năng lực quản lý của nhà nước
Bài làm
Kinh tế thị trường là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, nó là thành quả
của văn minh nhân loại và được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của
mọi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, kinh tế thị trường nếu để tự do phát triển nó cũng sẽ sinh ra rất
nhiều những hạn chế như : nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng, tình trạng độc quyền do
cạnh tranh thị trường tạo ra sẽ dần hạn chế các nguồn lực, hàng hóa công cộng không được thị
trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường sinh thái bị phá hủy, sự phân
hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ đến tính ổn định của đất nước. Khắc phục những
khiếm khuyết của thị trường nhất thiết phải có sự can thiệp của nhà nước. Ngày nay, không một
quốc gia nào sử dụng cơ chế kinh tế thị trường mà không có sự quản lý, điều tiết của nhà nước bất
luận đó là nhà nước tư bản chủ nghĩa hay nhà nước XHCN. Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước
đối với sự phát triển kinh tế thị trường là một yêu cầu tất yếu và nâng cao năng lực quản lý nhà nước
là điều kiện vô cùng quan trọng để đạt được những mục tiêu mong muốn trên cơ sở phát huy tối đa
những mặt tích cực của thị trường và hạn chế tối thiểu những tiêu cực sinh ra từ cơ chế thị trường
Mặt khác, sự cần thiết phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế còn xuất phát từ
bản thân nhà nước. Mọi Nhà nước sinh ra đều nhằm nắm giữ quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế
để điều tiết mọi quan hệ kinh tế - xã hội để phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Để thực thi
1-61-6
5
quyền lực, Nhà nước phải tiến hành quản lý mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý kinh
tế đối với nền kinh tế quốc dân để tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng theo định hướng
mục tiêu của giai cấp cầm quyền, đối với nhà nước ta mục tiêu đó chính là “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Ngày nay, lực lượng sản xuất phát triển, trình độ xã hội hóa sản
xuất cao do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo ra, cho nên sự quản lý của Nhà nước về kinh tế
càng cần thiết hơn.
Về vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân
và vì dân nên với vai trò chủ thể quản lý của nền kinh tế, Nhà nước phải thực thi quyền lực của nhân
dân, bảo vệ lợi ích của quốc gia, lợi ích của nhân dân đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho nhân
dân làm chủ sở hữu mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước xây dựng mô hình kinh tế thị
trường và vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế thị trường của ta còn sơ khai nên vai trò quản lý nhà nước rất
quan trọng thể hiện qua các mặt như : Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ra đời, đồng
thời điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định, phát triển; Nhà nước phải hạn chế khuyết tật của cơ
chế thị trường và khuyết điểm yếu kém của chính bộ máy Nhà nước khi bộ máy mới chuyển sang
quản lý nền kinh tế thị trường; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bản chất Nhà nước ta.
Về chức năng quản lý kinh tế, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô tập trung
với 4 nội dung cơ bản. Một là nhà nước thực hiện chức năng tạo môi trường đầu tư an toàn, minh
bạch, thuận lợi và bình đẳng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo
đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho sự phát triển của nền kinh tế, duy trì pháp luật, trật tự
an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường
kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường và xây dựng cơ sở hạ tầng đảm
bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường. Hai là nhà nước thực hiện chức
năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua chiến lược, kế hoạch, các
chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm các nguồn lực, khai thông quan hệ kinh tế… Ba là nhà
nước thực hiện chức năng hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất
giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế
trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia, bảo vệ môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh
tế. Bốn chức năng này đều có vai trò quan trọng như nhau và gắn chặt nhau không thể tách rời.
Nội dung chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ
thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô : công cụ luật pháp, công cụ chiến lược chiến lược quy
hoạch, kế hoạch, chương trình mục tiêu và công cụ tài chính, tiền tệ giá cả. Do đó, quá trình đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế gắn với quá trình đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Về công cụ luật pháp, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở luật pháp, các văn bản
dưới luật. Hệ thống pháp luật là chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường, duy trì trật tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong
kinh doanh theo các hướng xác định. Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng, đồng bộ, thực tế,
ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.
Về công cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội : Nhà nước thông qua việc
hoạch định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh
nghiệp hoạt động và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng đã lựa chọn. Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội được xem như là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu dài hạn và
cơ bản của quá trình phát triển kinh tế- xã hội, gắn với chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu
để đạt mục tiêu đó. Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế và định hướng cho
sự vận động của nền kinh tế. Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế đồng thời cũng phải thể hiện
quan điểm phát triển nhanh nhưng bền vững, với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp
huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế mạnh,
nắm bắt tốt những cơ hội và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những giải pháp ứng phó phù hợp.
6
Về công cụ các chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả : đây là những công cụ chủ yếu của quản
lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy,
Nhà nước cần phải nắm các công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ,
giá cả để điều tiết thị trường, tác động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế, nhằm
đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Một số chính sách quan trọng mà nhà
nước sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường bao gồm :
Một là ngân sách Nhà nước : ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ
mô toàn bộ nền kinh tế, nó giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô trên các lĩnh vực như : điều tiết thị trường,
bình ổn giá cả và chống lạm phát, định hướng phát triển sản xuất, hoạt động đầu tư, hoạt động tài
chính, điều chỉnh lĩnh vực thu nhập.
Hai là chính sách thuế : chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia, thuế
không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
trên mọi lĩnh vực của Nhà nước mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô. Thuế là công cụ điều tiết
các hoạt động sản xuất kinh doanh đúng hướng trên cơ sở Nhà nước sử dụng chính sách thuế có
phân biệt giữa các ngành, nghề, các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau, chính sách này sẽ tạo điều
kiện cho sự phát triển của các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ hoặc tạo sự tác động ngược lại. Thuế
là công cụ để điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư khác nhau, điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế
giữa các vùng, các miền để đảm bảo thực hiện chính sách xã hội, sự phát triển kinh tế - xã hội tương
đối đồng đều giữa các vùng, các miền đất nước. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị
trường, thuế là công cụ điều tiết áp lực cạnh tranh, bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ
xuất nhập khẩu và thực hiện chính sách kinh tế mở cửa.
Ba là chính sách giá cả : quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách “giá” là một trong những
nội dung chủ yếu về sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp này
nhằm các mục tiêu : điều tiết quan hệ cung - cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp, các ngành kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh, bảo hộ các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Những mục tiêu trên được thực hiện trên cơ sở Nhà nước xác định chính sách giá cả hợp lý trong
từng thời kỳ, chính sách này bao gồm 3 nội dung cơ bản : định giá trực tiếp, quản lý gián tiếp, khống
chế tổng mức vật giá. Phạm vi hàng hóa do Nhà nước định giá trực tiếp chỉ giới hạn trong một số ít
sản phẩm cơ bản có tính chiến lược hoặc có tính phục vụ xã hội như: than, dầu mỏ, điện, hàng
không, bưu điện… Tuy nhiên việc Nhà nước định giá trực tiếp cũng không thể đi ngược quy luật cung
cầu của thị trường trong thời gian dài. Hình thức thứ hai là Nhà nước chỉ đạo mức giá (quản lý gián
tiếp) thông qua việc xác định mức giá cao nhất, giá bảo hộ thấp nhất, nhịp độ thả nổi, chênh lệch
kinh doanh…trong giá cả hàng hóa. Hình thức quản lý này đòi hỏi phải điều chỉnh thường xuyên giá
cả chỉ đạo để làm cho nó tiếp cận với giá cả thị trường. Hình thức nhà nước khống chế từng mức giá
cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức giá cả và biện pháp khống chế từng mức giá
cả là hệ thống các biện pháp như: biện pháp hành chính, biện pháp tài chính, biện pháp tiền tệ, biện
pháp khống chế lương và hối suất…
Bốn là hệ thống ngân hàng : ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà
nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp
với yêu cầu đầu tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền tệ quốc
gia. Vai trò đó được thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế
thị trường bao gồm : Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu
thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền. Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh
tiền tệ, thực hiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Công cụ sử dụng trong hoạt động ngân hàng là hệ
thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiết khấu, hệ thống thị trường tài chính- tiền tệ… Hoạt động
của hệ thống ngân hàng hai cấp, trong từng điều kiện cụ thể về quy mô, hiệu quả sẽ giữ được vai
trò trung tâm tín dụng, trung tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm soát,
điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường mới chỉ ở mức manh nha, tức là còn ở giai đoạn
thấp, sơ khai và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển; tính cạnh tranh còn kém, sản phẩm còn
nghèo nàn; công tác quản lý nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế như : công tác dự báo
kém, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ chế chính
sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế
hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa thật tốt, chậm được đổi
mới và lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn cồng
kềnh, kém hiệu quả, năng lực và phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận cán bộ quản lý
2-3
2-4
7
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp Chính những hạn chế này là rào cản
lớn cho sự phát triển kinh tế
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu
như sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây dựng, thay dần quy
trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật,
ban hành, thực thi pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình
kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo
yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta,
nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước . Bên cạnh đó, phải
tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội; tăng cường thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc
tế nhằm đảm bảo phù hợp và định hướng được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và
nhiều biến động.
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức
năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh
và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước
về kinh tế, giảm bớt các đầu mối, các khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô,
giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ
chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền
kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về kinh tế phải gắn liền với việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có phẩm chất, trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh
tế thị trường : phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý,
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế. Kết hợp
chặt chẽ giữa đào tạo, tuyễn dụng, bố trí, đề bạc, đãi ngộ và khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ
cán bộ phát huy tính chủ động, sáng tạo, toàn tâm toàn ý với sự phát triển của đất nước. Song song
đó phải thực hiện cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối
đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu, phiền hà đối với nhân dân và các doanh nghiệp và
thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước
về kinh tế.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ và nhất quán. Về
chính sách thuế, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết
quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Về chính sách tài chính - tiền tệ, phải bảo đảm tính minh
bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước, thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường
trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi ngân sách địa phương. Về hoạt động
ngân hàng, phải xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các
dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội, kiện toàn các ngân hàng thương mại Nhà nước thành những
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường, xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại Nhà nước, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại
tệ, từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, . Về chính sách
đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các chương trình quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư
tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh
vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh
làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho
vay theo cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn, tăng
cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình
8
mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp tục hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước
thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được
nhà nước bảo vệ nhưng phải hoạt động thương mại đúng pháp luật; mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo
điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản; mở rộng ngành nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và coi đây là
nhiệm vụ quan trọng sống còn, nó phải được thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính,
kinh tế và tâm lý giáo dục, nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế
phải kiên quyết loại trừ các phần tử thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước
Tóm lại, nước ta trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, điều đó đặt ra yêu cầu phải
tiếp tục hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô, nâng cao năng lực hiệu quả của bộ máy quản lý nhà
nước về kinh tế, đặc biệt là phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa có tâm, vừa có tầm để
thực hiện tốt các chức năng quản lý của nhà nước, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế ở nước ta
không đi chệch hướng XHCN.
Câu 3: trình bày vai trò của chính sách kinh tế. Chính sách thương mại và chính sách đầu tư có ý
nghĩa quan trọng phân tích một số chính sách thương mại chủ yếu ở nước ta.
BÀI LÀM
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, nhiệm vụ đổi mới quản lý kinh
tế trong đó vai trò chính sách kinh tế có ý nghĩa rất lớn và giữ một vai trò cơ bàn chủ yếu, đây là cơ
sở lý luận nhằm bảo đảm, giữ vững cho công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN và
quyết định sự thành công CNH-HĐH. Để hiểu rõ vai trò của chính sách kinh tế trong quản lý kinh tế,
trước hết chúng ta đi vào các khái niệm. Vậy chính sách là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu
phương thức, công cuộc hay những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các nội
dung kinh tế lớn trong quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong hoạt động quản lý kinh tế, chính sách kinh tế có những vai trò sau:
- Định hướng cho hoạt động kinh tế XH của đất nước, vai trò này mang tính bao quát, vĩ mô
nhằm hướng tất cả các hoạt động kinh tế XH của đất nước theo mục tiêu đặt sẳn.
- Tổ chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn vai trò này nhằm đưa ra các phương pháp
và biện pháp thực hiện các chính sách kinh tế XH mang tầm vĩ mô, xử lý và giải quyết các vấn đề lớn
của kinh tế như: các chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách tài chính-tiền tệ.
Hỗ trợ để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định:
Chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm tổ chức
quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng.
Từ những cơ sở trên ta có thể nó chính sách kinh tế là những quyết định kinh tế ở tầm vĩ mô do
nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo mục tiêu
đã xác định.
2-6
9
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng và
công bằng XH để đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên. Nhà nước có thể xử dụng nhiều công cụ
chính sách khác nhau. Mỗi chính sách phải có những công cụ riêng biệt trong nền kinh tế thị trường,
nhà nước thường có những chính sách kinh tế vĩ mô về đầu tư, thương mại và tài chính tiền tệ.
Ngày này với sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường trong nước và cả trên thế giới,
việc xác định chính sách đầu tư sau cho phù hợp và mang lại hiệu quả trong quá trình đổi mới đất
nước hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết.
Như vậy chính sách đầu tư là gì? chính là hệ thống những quan điểm, những mục tiêu, những
phương tiện, những công cụ mà nhà nước sử dụng để khuyến khích đầu tư và bảo đảm hoạt động
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước theo yêu cầu đầu tư phát triển của VN trong từng
thời kỳ.
Nói cách khác, chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến kích và bảo đảm đầu tư của
nhà nước đối với các chủ thể tham dự. Chính sách khuyến khích đầu tư có vị trí quan trọng đối với
tăng trưởng kinh tế. trong tình hình đất nước ta hiện nay vấn đèên quyết định mọi sự tăng trưởng và
quyết định sự phát triển kinh tế-XH chính là giải quyết vấn đề đầu tư. Đây là hệ thống đồng bộ từ
quan điểm chiến lược, cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi bình đẳng cho hoạt động đầu tư.
Chính sách đầu tư bao gồm các chính sách về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, chính sách
tạo vốn và sử dụng vốn. Trước đây việc cung ứng vốn cho nền kinh tế thị trường có nhiều chủ thể
đầu tư với sự đa dang hoá các nguồn vốn. Các lực lượng tham gia đầu tư được mỡ rộng cho các đối
tượng. Nhà nước, doanh nghiệp, dân cứ và người nước ngoài. Các nguồn vốn cũng từ đây được mỡ
rộng hơn, vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, vốn của đầu tư nước
ngoài các hình thức đầu tư cũng được mỡ rộng tương ứng. Đầu tư của ngân sách tín dụng nhà nước,
tín dụng ngân hàng, đầu tư giao tiếp thông qua cổ phiếu, trái phiếu.
Bên cạnh đó nhằm tạo một môi trường ổn định để nhằm khuyến khích đầu tư, các chính sách
khuyến khích cũng phải được coi trọng và tạo điều kiện thuận lơi như: sự ổn định về chính trị, XH,
môi trường kinh tế, cơ sở hạ tầng và tâm lý, chính sách khuyến khích nhà nước và những lĩnh vực,
những vùng nhất định, coi trọng cả đầu tư trong nước cũnh như ngoài nước.
1988 Đảng và nhà nước ta ban hành luật đầu tư đặc biệt khuyến khích nguồn đầu tư nước
ngoài đã có phát triển mạnh mẽ đối với những việc này, xác định chính sách khuyến khích đầu tư
trực tiếp của nước ngoài đã trở thành một nguồn lực quan trọng góp phần đẩy mạnh tác động tăng
trưởng kinh tế của nước ta. Song đó, luật khuyến khích đầu tư trong nước 1988 đã huy động được
nguồn vốn tìm ẩn, khả năng quản lý trong dân và phát triển kinh tế-XH làm cho sản xuất phát triển
thoả mãng như cầu vế vật tư, hàng hoá cho sản xuất và sản phẩm tiêu dùng của nhân dân.
Mặt khác, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển, nhà nước đồng thời sử dụng hệ thống các
chính sách công cụ như: để ổn định kinh tế vĩ mô là việc xây dựng hệ thống luật lệ thể chế ổn định,
tạo một hành lang pháp lý vững vàng, bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia, kiềm chế nạn lạm phát
mất giá đồng tiền gây ra nạn lợi nhuận ảo trong sản xuất kinh doanh, giảm tỷ lệ thất nghiệp lãng phí
nguồn nhân lực lao động cũng là nguyên nhân chính gây ra các tệ nạn XH, bảo đảm một tỷ giá hợp lý
ở mức cho phép cải cách thủ tục hành chính công khai hoá quy trình và giảm thủ tục đã là nguyên
nhân gây nhiều phiền hà, khó khăn tạo tâm ký ngán ngại đầu tư cho các đối tượng tham gia đầu tư.
10
Qua các công cụ này nhà nước có thể khuyến khích đầu tư và những ngành, lĩnh vực, vùng cần thiết
thông qua, các công cụ như điều chỉnh mức thuế, tín dụng,giá đất đai, chính sách bảo hộ có chọn lộc
và có thời gian để phát triển những ngành công nghiệp nao trẻ.
Qua các hội Đảng toàn quốc, Đảng ta xác định sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
là vấn đề chiến lược lâu dài, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế các loại hình sản xuất kinh doanh,
tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tham gia tự do làm ăn công khai hợp pháp…Đây là những chính
sách quan trọng đã tạo được niềm tin và môi trường thuận lợi cho các chủ đầu tư.
Đứng về gốc độ nguồn vốn ta có thể phân ra nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu
tư ngoài nước.
Để khuyến khính nguồn vốn đầu tư trong nước trong kỳ họp thứ ba ngày 7 tháng 5 năm 1998
của Quốc hội khoá X đã thông qua luật khuyến kích đầu tư trong nước có sữa đổi với nội dung thể
hiện tinh thần vĩ đại của nghị quyết TW IV (khoá 8) nhằm phát huy nội lực để thức đẩy công cuộc
phát triển kinh tế của đất nước. Qua đó đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước
trong việc mỡ rộng các hình thức đầu tư như:BOT, BTO,OT thí điểm việc người nước ngoài tham gia
góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp VN, mỡ rộng nguồn vốn tham gia đầu tư sở hữu trí tuệ, bí
quyết kỹ thuật, khuyến khích đầu tư mỡ rộng và đầu tư chiều sâu, đầu tư xây dựng duy truyền sản
xuất mới, duy chuyển các cơ sỏ sản xuất ra khỏi thành phố mà trước mắt là các cơ sở gây ô nhiễm,
qua việc xây dựng, thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp, đa dạng hoá sản xuất ngành nghề cả
thiện môi trường sinh thái…hành lang pháp lý ôn định qua việc nhà nước ta khẳng định bảo vệ tài
sản và vốn đầu tư hợp pháp không bị quốc hữu quá, không bị tịch thu …bên cạch đó là cách chính
sách về hỗ trợ như: hỗ trợ đất đai, mặc bằng sản xuất doanh nghiệp, chế độ cho vay ưu đãi trung
hạng và dài hạng, chế độ bảo hành tuyển dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển
khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ việc nghiên du áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Để khuyến khích đầu tư vốn ở nước ngoài đây là nguồn vốn rất quan trọng trong tình hình đất
nước ta hiện nay. Đa số là người có thu nhập thấp, nguồn vốn huy động trong nước có giới hạn, do
đó việc huy động vốn tư nước ngoài là rất cần thiết trong quá trình đầu tư phát triển kinh tế đất
nước.
Huy động vốn nước ngoài có thể thông qua đi vay, các hình thức vay, có thể vay của chính phủ,
vay của các tổ chức tài chính, quốc tế thông qua hình thức ODA, vay của tư nhân nước ngoài thông
qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Vấn đề cần lưu ý ở đây là, vấn đề trả vốn và lãi, các tỷ xuất cho vay thường cao, hoặc vay có các
điều kiện kèm theo. Hiện nay các nguồn vốn vay từ ODA đang chựng lại, do vậy Đảng và Nhà nước ta
đang có những xu hướng khuyến khích vay từ nguồn FDI. Từ những nguồn vốn vay này nhằm phát
triển, mỗ rộng thị trường, đổi mới công nghệ, có thêm nguồn lực và kinh nghiệm quản lý, nhằm
chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập.
Mặt khác nhằn để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả việc đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài, khả năng huy động phải đặt trong mối tương quan trong việc sử dụng nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn đi vay, phải cải thiện môi trường đ6àu tư đi đôi với các biện pháp khuếch trương
đầu tư thông qua các ưu đãi về đầu tư như: miễm giải thuế, ưu đãi về tín dụng, giải thủ tục hành
chính bên cạnh đó chúng ta phải có hướng bồi dưỡng nâng cao năng lực ở phía VN trong các xí
11
nghiệp liên doanh và năng lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đào
tạo và bố trí cán bộ có năng lực phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong các xí nghiệp liên doanh./.
Câu 3: trình bày vai trò của chính sách kinh tế. Phân tích một số chính sách đầu tư chủ yếu ở nước ta.
BÀI LÀM
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, nhiệm vụ đổi mới quản lý kinh
tế, trong đó vai trò chính sách kinh tế có ý nghĩa rất lớn và giữ một vai trò cơ bàn chủ yếu, đây là cơ
sở lý luận nhằm bảo đảm, giữ vững cho công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN và
quyết định sự thành công CNH-HĐH. Để hiểu rõ vai trò của chính sách kinh tế trong quản lý kinh tế,
trước hết chúng ta đi vào các khái niệm. Vậy chính sách là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu
phướng thức, công cuộc hay những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các nội
dung kinh tế lớn trong quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong hoạt động quản lý kinh tế, chính sách kinh tế có những vai trò như sau : một là định
hướng cho hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, vai trò này mang tính bao quát, vĩ mô nhằm
hướng tất cả các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước theo mục tiêu đặt sẳn; Hai là tổ chức để xử
lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn vai trò này nhằm đưa ra các phương pháp và biện pháp thực hiện
các chính sách kinh tế xã hội mang tầm vĩ mô, xử lý và giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế như: các
chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách tài chính-tiền tệ. Ba là hỗ trợ để phát triển các
mục tiêu kinh tế đã được xác định: Chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài
hạn của nhà nước nhằm tổ chức quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định
hướng. Từ những cơ sở trên ta có thể nói chính sách kinh tế là những quyết định kinh tế ở tầm vĩ mô
do nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo mục
tiêu đã xác định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như : ổn định, tăng trưởng và
công bằng xã hội. Để đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công
cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách phải có những công cụ riêng biệt. Trong nền kinh tế thị
trường, thường có những chính sách kinh tế vĩ mô như: chính sách thương mại, chính sách đầu tư,
chính sách tài chính - tiền tệ.
Sau đây, chúng ta hãy tìm hiểu một trong những chính sách quan trọng của nhà nước, đó là
chính sách đầu tư. Ngày này với sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường trong nước và cả
trên thế giới, việc xác định chính sách đầu tư sao cho phù hợp và mang lại hiệu quả trong quá trình
đổi mới đất nước hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết.
Như vậy chính sách đầu tư là gì ? Chính sách đầu tư là hệ thống những quan điểm, những
biện pháp mà nhà nước sử dụng các công cụ, đòn bẩy kinh tế tác động vào các hoạt động đầu tư của
các chủ thể nhằm định hướng hoạt động, bảo đảm sự tăng trưởng và hiệu quả cao cho nền kinh tế
trong từng thời kỳ.
Nói cách khác, chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến kích và bảo đảm đầu tư của
nhà nước đối với các chủ thể tham dự. Chính sách khuyến khích đầu tư có vị trí quan trọng đối với
tăng trưởng kinh tế. trong tình hình đất nước ta hiện nay vấn đèên quyết định mọi sự tăng trưởng và
12
quyết định sự phát triển kinh tế-XH chính là giải quyết vấn đề đầu tư. Đây là hệ thống đồng bộ từ
quan điểm chiến lược, cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi bình đẳng cho hoạt động đầu tư.
Chính sách đầu tư bao gồm các chính sách về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, chính sách
tạo vốn và sử dụng vốn. Trước đây việc cung ứng vốn cho nền kinh tế thị trường có nhiều chủ thể
đầu tư với sự đa dang hoá các nguồn vốn. Các lực lượng tham gia đầu tư được mỡ rộng cho các đối
tượng. Nhà nước, doanh nghiệp, dân cứ và người nước ngoài. Các nguồn vốn cũng từ đây được mỡ
rộng hơn, vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, vốn của đầu tư nước
ngoài các hình thức đầu tư cũng được mở rộng tương ứng. Đầu tư của ngân sách tín dụng nhà nước,
tín dụng ngân hàng, đầu tư giao tiếp thông qua cổ phiếu, trái phiếu.
Bên cạnh đó nhằm tạo một môi trường ổn định để nhằm khuyến khích đầu tư, các chính
sách khuyến khích cũng phải được coi trọng và tạo điều kiện thuận lơi như: sự ổn định về chính trị,
xã hội, môi trường kinh tế, cơ sở hạ tầng và tâm lý, chính sách khuyến khích nhà nước và những lĩnh
vực, những vùng nhất định, coi trọng cả đầu tư trong nước cũnh như ngoài nước. Riêng ở nước ta,
để có môi trường dầu tư lý tưởng, một số điều kiện cần đảm bảo bao gồm : Ổn định về chính trị mà
sự lãnh đạo duy nhất của Đảng là điều kiện đảm bảo, Luật pháp phải đồng bộ và hiệu lực, phải có hệ
thống chính sách hữu hiệu, có công cụ hoạt động hiệu quả, ngăn chặn quan liêu tham nhũng và phải
tạo ra một môi trường thị trường tạo hệ thống thúc đẩy thị trường hình thành, phải xây dựng kết
cấu hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí.
Hiện nay trong quá trình phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế diễn ra
trong xu thế toàn cầu hoá, chính sách đầu tư là nhạy cảm và phải thường xuyên thay đổi để phù hợp.
Tuy nhiên sự thay đổi chính sách đầu tư phải luôn tuân thủ một số nguyên tắc như : phải pảo đảm
môi trường đầu tư hấp dẫn ổn định, phải có những biện pháp bảo hộ đầu tư trong nướng phải từng
bước bác bỏ những cản trở để phù hợp lộ trình kinh tế, những biện pháp khuyến khích đầu tư, hấp
dẫn tinh cậy, phải bảo đảm ổn định và lành mạnh hoá môi trường chính trị xã hội.
Năm 1988, Đảng và nhà nước ta ban hành Luật đầu tư, đặc biệt khuyến khích nguồn đầu tư
nước ngoài đã có phát triển mạnh mẽ đối với những việc này, xác định chính sách khuyến khích đầu
tư trực tiếp của nước ngoài đã trở thành một nguồn lực quan trọng góp phần đẩy mạnh tác động
tăng trưởng kinh tế của nước ta. Song đó, luật khuyến khích đầu tư trong nước 1988 đã huy động
được nguồn vốn tìm ẩn, khả năng quản lý trong dân và phát triển kinh tế-XH làm cho sản xuất phát
triển thoả mãng như cầu vế vật tư, hàng hoá cho sản xuất và sản phẩm tiêu dùng của nhân dân.
Mặt khác, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển, nhà nước đồng thời sử dụng hệ thống các
chính sách công cụ như: để ổn định kinh tế vĩ mô là việc xây dựng hệ thống luật lệ thể chế ổn định,
tạo một hành lang pháp lý vững vàng, bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia, kiềm chế nạn lạm phát
mất giá đồng tiền gây ra nạn lợi nhuận ảo trong sản xuất kinh doanh, giảm tỷ lệ thất nghiệp lãng phí
nguồn nhân lực lao động cũng là nguyên nhân chính gây ra các tệ nạn xã hội, bảo đảm một tỷ giá
hợp lý ở mức cho phép cải cách thủ tục hành chính công khai hoá quy trình và giảm thủ tục đã là
nguyên nhân gây nhiều phiền hà, khó khăn tạo tâm ký ngán ngại đầu tư cho các đối tượng tham gia
đầu tư. Qua các công cụ này nhà nước có thể khuyến khích đầu tư và những ngành, lĩnh vực, vùng
cần thiết thông qua, các công cụ như điều chỉnh mức thuế, tín dụng,giá đất đai, chính sách bảo hộ có
chọn lộc và có thời gian để phát triển những ngành công nghiệp nao trẻ.
13
Qua các Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta xác định sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần là vấn đề chiến lược lâu dài, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế các loại hình sản xuất kinh
doanh, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tham gia tự do làm ăn công khai hợp pháp…Đây là những
chính sách quan trọng đã tạo được niềm tin và môi trường thuận lợi cho các chủ đầu tư.
Đứng về góc độ nguồn vốn, ta có thể phân ra nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu
tư ngoài nước.
Để khuyến khính nguồn vốn đầu tư trong nước, trong kỳ họp thứ ba ngày 7 tháng 5 năm 1998
của Quốc hội khoá X đã thông qua Luật khuyến kích đầu tư trong nước có sửa đổi với nội dung thể
hiện tinh thần của Nghị quyết TW IV (khoá 8) nhằm phát huy nội lực để thức đẩy công cuộc phát
triển kinh tế của đất nước. Qua đó đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước trong
việc mở rộng các hình thức đầu tư như:BOT, BTO,OT thí điểm việc người nước ngoài tham gia góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp VN, mỡ rộng nguồn vốn tham gia đầu tư sở hữu trí tuệ, bí quyết
kỹ thuật, khuyến khích đầu tư mỡ rộng và đầu tư chiều sâu, đầu tư xây dựng duy truyền sản xuất
mới, duy chuyển các cơ sỏ sản xuất ra khỏi thành phố mà trước mắt là các cơ sở gây ô nhiễm, qua
việc xây dựng, thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp, đa dạng hoá sản xuất ngành nghề cả
thiện môi trường sinh thái…hành lang pháp lý ôn định qua việc nhà nước ta khẳng định bảo vệ tài
sản và vốn đầu tư hợp pháp không bị quốc hữu quá, không bị tịch thu …bên cạch đó là cách chính
sách về hỗ trợ như: hỗ trợ đất đai, mặc bằng sản xuất doanh nghiệp, chế độ cho vay ưu đãi trung
hạn và dài hạn, chế độ bảo hành, tuyển dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển
khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ việc nghiên du áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Khuyến khích đầu tư vốn ở nước ngoài là rất cần thiết đây là nguồn vốn rất quan trọng trong
tình hình đất nước ta hiện nay bởi vì đa số là người có thu nhập thấp, nguồn vốn huy động trong
nước có giới hạn, do đó việc huy động vốn tư nước ngoài là rất cần thiết trong quá trình đầu tư phát
triển kinh tế đất nước.
Huy động vốn nước ngoài có thể thông qua đi vay, các hình thức vay, có thể vay của chính phủ,
vay của các tổ chức tài chính, quốc tế thông qua hình thức ODA, vay của tư nhân nước ngoài thông
qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Vấn đề cần lưu ý ở đây là, vấn đề trả vốn và lãi, các tỷ xuất cho vay thường cao, hoặc vay có các
điều kiện kèm theo. Hiện nay các nguồn vốn vay từ ODA đang chựng lại, do vậy Đảng và Nhà nước ta
đang có những xu hướng khuyến khích vay từ nguồn FDI. Từ những nguồn vốn vay này nhằm phát
triển, mỗ rộng thị trường, đổi mới công nghệ, có thêm nguồn lực và kinh nghiệm quản lý, nhằm
chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập.
Mặt khác, nhằm để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả việc đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài, khả năng huy động phải đặt trong mối tương quan trong việc sử dụng nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn đi vay, phải cải thiện môi trường đ6àu tư đi đôi với các biện pháp khuếch trương
đầu tư thông qua các ưu đãi về đầu tư như: miễm giải thuế, ưu đãi về tín dụng, giải thủ tục hành
chính bên cạnh đó chúng ta phải có hướng bồi dưỡng nâng cao năng lực ở phía VN trong các xí
nghiệp liên doanh và năng lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đào
tạo và bố trí cán bộ có năng lực phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong các xí nghiệp liên doanh./.
14
Câu 4. Trình bày vai trò của chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường ?
Bài làm
Chính sách là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu phương thức công cụ mà chủ thề
quản lý xử dụng tác động lên hành vi của chủ thể và đối tượng nhằm thực hiện những nội
dung quản lý kinh tế những mục tiêu cần đạt tới hay những giải pháp mà nhà nước sử
dụng để xử lý và giải quyết các nội dung kinh tế lớn trong quá trình hoạt động và phát triển
của nền kinh tế quốc dân.
Trong hoạt động quản lý kinh tế, chính sách có những vai trò nhằm định hướng cho hoạt
động kinh tế-xã hội của đất nước, tổ chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn, hỗ trợ
để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định.
Chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm
tổ chức quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng. Hay có thể
nói chính sách kinh tế là những quyết định kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước đưa ra nhằm
thực hiện các chương trình, kế hoạch đã hoạch định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng
trưởng và công bằng xã hội. Để đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, nhà nước có thể
sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có những công cụ riêng
biệt. Trong nền kinh tế thị trường, thường có những chính sách kinh tế vĩ mô như: chính
sách thương mại, chính sách đầu tư, chính sách tài chính-tiền tệ.
Nhận thức về chính sách tài chính : chính sách tài chính là tổng thể các quan điểm mục
tiêu ,các giải pháp nhà nước sử dụng để tạo nguồn vốn huy động ,phân phối và sử dụng
các nguồn vốn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội ,về bản chất chính sách tài chính quốc
gia là chính sách huy động các nguồn lực của xã hội dưới hình thái giá trị để thực một cách
có hiệu quả những nhiệm vụ đất nước .chính sách đó phải nhằm hướng tới mục tiêu tăng
trưởng ,phát triển kinh tế ,nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ,giử gìn độc
lập tổ quốc an ninh quốc gia ,trật tự xã hội ,bảo đảm công bằng xã hội ,kiềm chế lạm pháp
và thất nghiệp và hội nhập với thế giới bên ngoài
Thứ nhất ;Để thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính cần thường xuyên đổi mới và
hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
trong nền kinh tế thị trướng trọng tâm là chuyển hoạt động tài chính vĩ mô sang chế độ tự
chủ tài chính ,chuyển nền tài chính đơn sở hửu sang một nền tài chính đa sở hữu ,hoàn
thiện hệ thống thuế,thu ngân sách ,đầu tư ,bảo hiểm tín dụng , Thứ hai ;tăng khả năng và
tốc độ vốn để thực hiện nội dung này cần phải có các chính sách cụ thể ,thực hiễn các biện
pháp khuyến khích đầu tư ,bảo vệ quyền lợi của chủ đầu tư và tạo môi trường đầu tư hấp
dẫn
Thứ ba ;thực hiện các điều chỉnh và cân đối lớn giữa tích luỹ và tiêu dùng ,giữa tích tụ
vốn và tập trung vốn .Thực tiển thời gian qua ở nước ta mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng chưa được giải quyết hợp lý .Tích luỹ và chưa tạo ra được một cơ cấu kinh tế tối
ưu.Trong tích luỹ nguồn vốn lớn nhưlà vốn xây dựng cơ bản đả bị sử dụng lảng phí phân
tán và kém hiệu quả .Tiêu dùng mặc dù chưa thoả mản nhu cầu trước mắt nhưng đả vượt
quá khả năng kinh tế
15
Thứ tư ;nhà nước quản lý nền tài chính một cách thống nhất bằng hệ thống pháp luật
,xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp huy về tài chính như luật thuế ,luật ngân sách
,phág lệnh ,thống kê …pháp luật cần được tuân thủ nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể
kinh tế trong một môi pháp lý kinh tế lành mạnh và công bằng .Môi trường đó một mặt
khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động kinh tế trong khuông khổ pháp luật
,mặt khác đảm bảo để nhà nước quản lý thống nhất các hoạt động kinh tế tài chính trong cả
nước ,các biện pháp kiểm tra ,kiểm soát thanh tra ,tài chính cần được thực hiện nghiên
khắc ,hiệunquả .
-Về nội dung chính sách tài chính ;chính sách về vốn là chính sách sử dụng các công cụ
tài chính vào việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và mọi tềm năng về vốn
trong nước và từ nước ngoài để phục vụ cho đầu tư và phát triển kinh tế ,tiềm năng về vốn
được biểu hiện dưới các hình thái ;các nguồn vốn ,vật tư tài sản trong mọi doanh chưa
được sử dụng với hiệu quả cao ,các nguồn tiền mặt và tài sản khác dự trử trong dân cư
,các nguồn tài nguyên và tài quốc gia đả ,đang hoặc chưa khai thác .Chiến lược khai thác
những nguồn này phải đảm bảo yêu cầu hiệu quả kinh tế xã hội cao ,tăng cường bền vửng
và bảo vệ môi trường ;tiềm năng lao động và chất ưu thế về lao động và chất xám có thể
tạo lợi thế đáng kể khi mở rộng hợp tác quốc tế .Khả năng nâng cấp ,cải thiện cơ sở hạ
tầng và môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài ,thực hiện
các dự án nghiên cứu ,các công trình khảo sát về tình hình thực trạng và khối lượng các
nguồn lực của đất nước .Nội dung các sắc lệnh thuế phù hợp và sử đa dạng các hình thức
huy động vốn nhất là hình thái trái phiếu ,cổ phiếu chính phủ ,địa phương và doanh
nghiệp ,phát triển các tổ chức tài chính trung gian ,hệ thống các công ty tài chính ,các công
ty bảo hiểm ,quỷ đầu tư ,quỷ phát triển ,quỷ bảo trợ ,quỷbảo hiềm ,công trái quốc gia để giải
toả các nguồn vốn ứ động hoặc vốn chết đang được lưu giữ trong khu vực dân cư và các
doanh nghiệp .Đối với các DNNN tăng cường quá trình cổ phần hoá giải thể các DNNNhoạt
động kém hiệu quả nhằm đưa các nguồn vốn vào quỷ đạo hoạt động có lợi cho nền kinh tế
xã hội .Tiến hành đổi mới và hoàn thiện cơ cấu phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh tế
quốc dân .Có chính sách ưu đải về đầu tư ưuđải về thuế để các nguồn vốn tập trung vào
những khu vực có lợi thế tự nhiên chưađược đánh thức vào các ngành kinh tế mũi nhọn
.Sửdụng vốn ngân sáchđể hổ trợ cho các khu vực ,các ngành cầnphát triển nhưng không
thu hút được các nguồnvốn trong xã hội .thực hiện tự chủ tài chính trong các doanh để có
thể phân phối vốn theo cơ chế hợp lý nhất ,sử dụng tiết kiệm có hiệu quả các nguồn vốnvà
các nguồn lực phát triển nền kinh tế quốc dân .
.…Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp là sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích
thích hoạt động kinh doanh có hiệu quả của các thành phần kinh tế ,làm cho nguồn vốn chu
chuyển nhanh và linh hoạt .Từ đó tạo cơ sở để nhà nước có khả năng kiểm soát được nền
kinh tế tài chính quốc gia .
Chính sách dịch vụ ngân sách nhà nước là chính sách động viên hợp lý các nguồn tài
chính vào quỷ ngân sách nhà nước một cách vửng chắc ,ổ định và bền vững ,không làm
suy yếu mà phải bảo đảm các đối tượng cho ngân sách nhà nước có đủ điều kiện tài chính
để tiếp tục phát triển .Điều chỉnh cơ cấu ngân sách của chính phủ cho các mục đích kinh tế
và xã hội trong điều chỉnh kinh tế hàng hoá nhiều thành phần .
Chính sách tài chính đối ngoại là chính sách mở rộng các quan hệ tài chính giữa trong
nước và ngoài nước ,sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư bên ngoài để phát triển kinh tế
và cải thiện các điều kiện xã hội nhằm đẩy nhanh xuất khẩu sản phẩm thô và nguyên liệu
16
khuyến khích nhập khẩu các thứ bị ,công nghệ hiện đại ,kỷ thuật cao hoàn thiện các chính
sách đầu tư nước ngoài đơn giản hoá các thủ tục hành chính ,nâng cấp cơ sở hạ tầng
nhằm tạo sức hấp dẫn nguồn vốn đầu tư nước ngoài ,tăng cường hoạt động ngoại giao mở
rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại
Chính sách tài chính hộ gia đình là sử dụng công cụ tài chính nhằm đảm bảo thu nhập
hợp cho người lao động và huy động nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển .
Các chính sách tài chính nới lỏng và thắt chặt ;chính sách tài chính trong điều kiện hoạt
động kinh tế có thể phân chia theo các gốc độ khác nhau ,căn cứ vào các chức năng trong
lỉnh vực điều tiết tổng kinh tế quốc dân có thể phân chia theo các gốc độ khác nhau ,căn cứ
vào các chức năng trong lĩnh vực điều tiết tổng lượng kinh tế quốc dân ,có thể phân chính
sách tài chính nới lỏng và thắt chặt .Chính sách nới lỏng thông qua hoạt động thu chi tài
chính làm tăng và kích thích tổng cầu xã hội ,khi tổng cầu nền kinh tế thấp ,biện pháp của
chính sách tài chính nới lỏng là giảm thuế và tăng chi tài chính nhằm kích mở rộng tổng cầu
xã hội .Chính sách tài chính thắt chặt thông qua thu chi tài chính để giảm bớt và kích thích
tổng cầu .Khi tổng cẩu trong nền kinh tế quá lớn việc thực thi chính sách tài chính thắt chặt
bằng cách tăng thu thuế và giảm chi tài chính sẻ góp phần giảm cầu đạt được sư cân đối
trong cung cầu ,từ đó giảm áp lực lạm phát .
Ngày nay với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, đồng tiền chiếm vị trí quan trọng trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế. Do đó cùng với chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là một
công cụ không thể thiếu được trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tiền là phương tiện thanh toán được chấp nhận chung và được dùng bất kỳ vàoluc nào,
để thanh toán bất kì một khoản là bao nhiêu, cho bất kỳ ai Tiền tệ có 5 chức năng như : là
thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, là phương tiện thanh toán, là phương tiện cất trữ,
làm chức năng tiền tệ thế giới.
Chính sách tiền tệ là một hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của nhà
nước nhằm tác động vàđiều chỉnh các hoạt động về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ngoại
hối, tạo ra sự ổn định của nền kinh tế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển.
Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, là một bộ phận hợp thành của
chính sách kinh tế, và trong một mức độ nào đó thì chính sách tiền tệ là một bộ phận của
kinh tế tài chính quốc gia và chính sách phát triển kinh tế.
Về mặt định lượng, chính sách tiền tệ cần phải phản ánh khối lượng tiền cung ứng tăng
thêm (hay giản bớt) trong một khoảng thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và tiền chuyển
khoản (tiền ghi sổ).
Chính sách tiền tệ gồm có 3 bộ phận chính : chính sách cung ứng và điều hoà khối
tiền; chính sách tín dụng và chính sách ngoại hối.
- Chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền.
Chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền được coi là bộ phận quan trong nhất của
chính sách tiền tệ. Do tính chất quan trong của nó mà người ta thường coi chính sách tiền
tệ là chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền.
17
Chính sách này nhằm duy trì một sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ trong nền
kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế vừa tránh được lạm phát nặng nề, vừa đảm bảo cung cấp
đủ phương tiện cho nền kinh tế, nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cung ứng và điều hoà khối tiền: được thực hiện theo các nhu cầu đối ứng, tức là đi từ
gốc theo 3 kênh tạo tiền: tín dụng tăng cho nền kinh tế; tạm ứng cho ngân sách; mua vàng
và ngoại tệ.
Chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền: được thực hiện một cách tốt nhất trên cơ sở
quan sát các tín hiệu của thị trường như: chỉ số giá cả hàng hoá thiết yếu, giá vàng và tỉ giá
hối đoái. Những tín hiệu trên có biến động hay tăng giảm đều kéo theo một sự thay đổi về
nhu cầu tiền tệ tăng giảm tương ứng. Vì vậy, ta có thể dựa vào đó để cung ứng và điều hoà
khối tiền.
- Ngoài ra trong chính sách tiền tệ còn có chính sách tín dụng và chính sách ngoại
hối.
Mục tiêu và phương pháp sử dụng các công cụ để thoả mãn mục tiêu là nội dung của
công việc soạn thảo chính sách tiền tệ được thực hiện bởi ngân hàng trung ương.
Ngân hàng trung ương là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung
ương là một cốp trong hệ thống ngân hàng hai cấp của Việt Nam. Hệ thống ngân hàng hai
cấp có đặc điểm:
+ Phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng trung ương với chức
năng tác nghiệp kinh doanh của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
+ Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác tồn tại và hoạt động với tư cách là
những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ-tín dụng và dịch vụ nhằm kiếm lợi
nhuận một cách chính đáng góp phần thúc đầy các ngành sản xuất kinh doanh cùng phát
triển.
+ Hoạt động của ngân hàng trung ương là những hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô không
nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm mục đích ổn định tiền tệ, ổn định giá cả thị trường,
ngoại hối để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, nó được phép sử dụng những công cụ
quản lý vĩ mô quan trọng, phù hợp với luật [háp để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của
đồng tiền; ổn định và thúc đẩy tăng trưởng GNP; làm giảm thất nghiệp, ổn định trật tự xã
hội.
Các mục tiêu trên đây tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi thời kì cụ thể mà cần phải
xác định mục tiêu chủ yếu, thứ yếu và thậm chí còn gạt bỏ một vài mục tiêu nào đó. Chẳng
hạn, chính sách tiền tệ để tạo công việc làm, giảm thất nghiệp thì rất có thể đi đến tình trạng
lạm phát cao. Vấn đề quan trọng ở chỗ làm thế nào để vừa kiểm soát được lạm phát lại vừa
tạo được công ăn việc làm.
* Những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ.
- Dự trữ bắt buộc : Tất cả các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều bắt buộc
phải duy trì một mức “dự trữ tối thiểu bắt buộc” tính theo tỉ lệ phầm trăm trên nguồn vốn huy
18
động. Dự trữ bắt buộc tăng làm nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại giảm từ đó
làm lượng cung tiền giảm.
- Lãi suất : về nguyên tắc: lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ kệ lạm phát; lãi suất cho vay
bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất
ngắn hạn.
Để sử dụng công cụ lãi suất tín dụng thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương
có thể:
+ Ấn định lãi suất: lãi suất tối đa cho tiền gửi và lãi suất tối thiểu cho tiền vay; hoặc lãi
suất tối thiểu cho tiền gởi và lãi suất tối đa cho tiền vay.
+ Thả nổi lãi suất, tuy nhiên ngân hàng trung ương vẫn có thể tác động gián tiếp đến lãi
suất tính dụng bằng lãi suất tái chiết khấu.
- Lãi suất tái chiết khấu : là lãi suất do ngân hành trung ương áp dụng đối với các ngân
hàng thương mại khi ngân hàng trung ương với tư cách là người cung cấp tín dụng cho
cácngân hàng thương mại vay qua nghiệp vụ tái chiết khấu các thương phiếu hoặc các
chứng từ có giá khác. Lãi suất tái chiếc khấu tăng (giảm) sẽ làm giảm (tăng) nguồn vốn cho
vay của các ngân hàng thương mại.
- Thị trường mở: thị trường mở là nơi ngân hàng trung ương phát hành tiền hoặc thu hẹp
lhối tiền của nền kinh tế thông qua việc mua hoặc bán các trái phiếu ngắn hạn.
- Ấn định mức tín dụng: Ngân hàng trung ương sẽ phân bố “hạn mức tín dụng” cho mỗi
ngân hàng thương mại trên cơ sở dư nợ và tín dụng vốn tự có của mỗi ngân hàng. Khi ngân
hàng trung ương tăng hay giảm hạn mức nói trên thì khối lượng tín dụng của nền kinh tế
tăng hay giảm theo.
- Điều chỉnh tỷ giá hối đoái : Được áp dụng trong trường hợp tỷ giá thực tế trên thị trường
biến động với biên độ lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình sản xuất và đời sống,
tới ngoại thương, tín dụng và thanh toán quốc tế. các biện pháp điều chỉnh: thay đổi lãi suất,
can thiệp ngoại hối, nâng giá hoặc phá giá tiền trong nước…
- Thanh tra và kiểm soát hoạt động ngân hàng trong nước. Như đã trình bày ở trên, chính
sách tiền tệ cần phản ánh khối lượng cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một khoảng
thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi sổ). Tuỳ theo nội dung
của chính sách tiền tệ là tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế mà ta
có các chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt.
- Chính sách tiền tệ mở rộng (nới lỏng): Được sử dụng khi nền kinh tế đang trong tình
trạng suy thoái, nạn thất nghiệp gia tăng. Trong trường hợp này việc nới lỏng tiền tệ, làm
cho kượng tiền cung ứng cho nền kinh tế tăng sẽ tạo công ăn việc làm cho người lao động,
thúc đẩy dsự đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Chính sách tiền tệ mở rộng đồng nghĩa
với chính sách tiền tệ chống suy thoái.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt : được sử dụng khi nền kinh tế đang trong tình trạng “phát
triền quá nóng, đồng thời lạm phát ngày càng gia tăng. Chính sách tiền tệ thắt chặt đồng
nghĩa với chính sách tiền tệ chống lạm phát.
19
Trên đây là những vấn đề cơ bản của chính sách tiền tệ, trong quản lý khi thực hiện
chính sách tiền tệ cần chú ý những vấn đề sau:
- Cho phép tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi khiến tỷ giá hối đoái thực ổn định.
- Duy trì các mức dự trữ ngoại hối hoặc các mức tín dụng dự phòng đầy đủ.
- Đánh thuế vào các dòng vốn ngắn hạn đổ vào hoặc kiểm soát việc vay mượn của các
ngân hàng nước ngoài.
- Áp dụng giám sát chặt chẽ các ngân hàng và các Cty tài chính.
- Cải thiện tính minh bạch cũng như hệ thống kế toán của tư nhân và nhà nước.
- Cải thiện việc quản trị Công ty và Luật phá sản.
- Phát triển và gia tăng thị trường cổ phiếu và trái phiếu nội địa áp dụng hệ thống chế độ
lương hưu tự cấp vốn.
- Cố gắng thu hút các nguồn vốn FDI và dài hạn.
- Ngăn chặn tình trạng quá nóng của nền kinh tế bằng các chính sách tài chính và tiền tệ.
- Tăng cường tính cạnh tranh của các ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay để chính sách tiền tệ có thể phát huy được
hiệu quả cần đổi mới chính sách tiền tệ theo những phương hướng sau:
- Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá
với các chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhằm giải phóng và
phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của doanh nghiệp, của các tầng lớp
dân cư. Đa dạng hoá các công cụ và các hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi ngân hàng
và các quỹ đầu tư nhằm động viên cho các nguồn lựcphát triển kinh tế.
- Thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân phối lại
các nguồn thu nhập trong xã hội.
- Cải thiện quản lý doanh nghiệp và luật phá sản.
- Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các
dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội:
+ Kiện toàn các ngân hàng thương mại nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh trạnh trên thị trường.
+ Xoá bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nứơc đối với các hoạt động cho
vay của các ngân hàng thương mại nhà nước.
+ Nâng cao năng lực giám sát của ngân hàng nhà nước và công tác kiểm tra nội bộ của
các ngân hàng thương mại.
- Tách tín dụng ưu đãi theo chính sách khoỉi tín dụng thương mại.
20
- Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hoá tỷ
giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
- Cuối cùng là xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển, bảo đảm nền kinh
tế tăng trưởng cao và bền vững. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công
cụ chính sách gián tiếp. Thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở rộng
cung cầu trên thị trường, từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam,
trước hết là đối với những tài khoản vãng lai. Nâng cao vai trò ngân hàng nhà nước trong
lĩnh vực điều hành, quản lý tiền tệ, giám sát các hoạt động tín dụng; tăng cường năng lực
của ngân hàng Nhà nước về tổ chức, thể chế và cán bộ.
Tóm lại ;chính sách là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó rộng lớn
các quyết định tác nghiệp .Đó là những quyết định chung hướng dẩn đối tượng quản lý thực
hiện mục tiêu quản lý .chính sách tồn tại ở tất cả các cấp của hệ thống quản lý ,chính sách
quốc gia chính sách ngành chính sách địa phương …Việc đề ra những chính sách phù hợp
sẽ làm bật dậy tiềm năng mới và ngược lại .Cho nên có thể nói chính sách kinh tế là một
loại quyết định có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quản lý kinh tế -xã hội mà trong đó chính
sách tài chính là một công cụ vị trí trung tâm.
Câu 5. Cơ sở khách quan và vai trò của Doanh nghiệpnhà nước. Nêu rõ giải pháp cơ bản nâng cao
hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệpnhà nước ?
Bài làm
Phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay đang là một yêu
cầu cấp thiết, tạo ra sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp là những tế bào kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc
dân rất đa dang về hình thức, quy mô, trình độ kỹ thuật, tính chất sở hữu và phương thức hoạt động
tạo ra sự năng động của nền kinh tế và có thể nói rằng sức mạnh của nền kinh tế là dựa vào sức
mạnh của các doanh nghiệp. Muốn có nền kinh tế mạnh phải có những doanh nghiệp mạnh, có nhiều
sản phẩm đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của thế giới. Trong hệ thống doanh nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu khoa học-xã hội do
nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước là hình thức tổ chức kinh tế phổ biến ở tất cả các nước chứ
không phải là hình thức đặc thù, riêng có của các nước XHCN, tuy nhiên số lượng và tính chất hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước khác nhau tuỳ theo từng quốc gia. Doanh nghiệp nhà nước
hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
và là sức mạnh vật chất của nhà nước. Việt Nam đang phát triển theo con đường XHCN dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp nhà nước phải chiếm giữ vai trò, vị trí
then chốt và thể hiện vai trò chủ đạo, là công cụ để nhà nước định hướng - điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Về vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, trước hết doanh nghiệp nhà
nước được xây dựng và phát triển trong những ngành có ý nghĩa chiến lược quan trọng của mỗi
quốc gia và có vốn đầu tư lớn. Với tư cách là tổ chức kinh tế lớn của một quốc gia, doanh nghiệp
nhà nước có đủ sức mạnh và uy tín để thu hút vốn đầu tư, liên doanh với nước ngoài, đồng thời có
khả năng vươn ra thị trường thế giới khi có điều kiện. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế
để bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ trong quá trình phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
trong nền kinh tế thị trường, mỗi quốc gia đều phải dựa trên sức mạnh kinh tế của chính nội lực mà
5-1
21
doanh nghiệp nhà nước chính là tổ chức kinh tế đảm bảo điều đó. Doanh nghiệp nhà nước còn góp
phần quan trọng bảo đảm dự trữ quốc gia đồng thời nó còn có đầy đủ các khả năng làm chủ đầu tư
vào các ngành, các lĩnh vực thuộc các thành phần kinh tế khác, nhằm chủ động liên kết, hợp tác và
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, bảo đảm sự phát triển ổn định và hiệu quả của toàn bộ nền kinh
tế. Nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
bởi doanh nghiệp nhà nước nắm đầu cầu chi phối và cuốn hút các thành phần kinh tế khác hoạt
động hướng vào mục tiêu chung.
Trong những năm qua, doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam nắm 60% giá trị tài sản sản xuất của
đất nước, thu hút khoảng 1,4 triệu lao động và tạo ra 42%cơ cấu GDP của cả nước. Doanh nghiệp
nhà nước đã khẳng định vai trò quan trọng trong sự ổn định phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đã
và đang chiếm giữ vị trí trọng yếu của nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm phần lớn những điều
kiện về hạ tầng cơ sở xã hội với chất lượng ngày càng tốt hơn. Một số doanh nghiệp duy trì được tốc
độ tăng trưởng khá cao, đóng góp vào nguồn ngân sách và tăng sản phẩm quốc nội. Một số doanh
nghiệp nhà nước khi chuyển sang cổ phần hóa đã cho thấy hiệu quả ngày càng tốt hơn. Quan hệ
giữa cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp đã thay đổi theo hướng phân định rõ quyền
quản lý nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều nhược điểm. Mặc dù từ
năm 1989 đến năm 2004, vốn tích lũy của doanh nghiệp nhà nước tăng gấp 5 lần (từ 34.000 tỷ Việt
Nam đồng lên 186.000 tỷ Việt Nam đồng) nhưng tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả còn phổ biến,
tình trạng thiếu vốn lưu động của các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất lớn dẫn đến tình trạng
chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước. Trang thiết bị của các doanh nghiệp nhà
nước còn đầu tư thiếu đồng bộ, chậm đổi mới công nghệ, lạc hậu từ 2-5 thế hệ kỹ thuật nên tính
cạnh tranh yếu. Trong kinh tế nhà nước, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tuy đã được điều chỉnh
nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý và mang tính tự phát, cơ chế tài chính vẫn còn nhiều sơ
hở, việc thành lập một số tổng công ty cũng làm nảy sinh nhiều nhân tố hạn chế cạnh tranh. Năm
2004, tổng số doanh nghiệp nhà nước là 4.722 doanh nghiệp (giảm 62% số lượng so với năm 1989
có 12.300 doanh nghiệp nhà nước) nhưng trong đó chỉ có 40% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả,
còn lại 40% doanh nghiệp huề vốn và 20% doanh nghiệp làm ăn thua lổ. Những doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả phần lớn là những doanh nghiệp hoạt động trong những những ngành, những lĩnh
vực khai thác tài nguyên quý hiếm hoặc những ngành do nhà nước độc quyền. Điều này cho thấy
rằng năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém,
chưa tương xứng với tiềm lực mà nhà nước trang bị cho doanh nghiệp nhà nước kể cả các Tổng
công ty lớn của nhà nước đều yếu về khả năng cạnh tranh, do đó chỉ hoạt động chủ yếu ở trong
nước, chưa đủ tiềm lực để vươn ra và hoạt động có hiệu quả ở nước ngoài.
Những nhược điểm, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan nhưng
nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, nó xuất phát từ việc doanh nghiệp nhà nước luôn được sự
bảo vệ của chính phủ, trách nhiệm vật chất giữa chủ sở hữu và người quản lý chưa được rõ ràng
nên không tạo áp lực buộc doanh nghiệp phải vươn lên, cơ chế quản lý còn thiếu đồng bộ, thiếu
động lực, còn thiếu nhiều cán bộ quản lý kinh tế kinh doanh giỏi và đội ngũ công nhân làm nghề, một
bộ phận cán bộ quản lý trình độ năng lực yếu kém, sa sút phẩm chất hoặc do động cơ cá nhân nên
đã gây thất thoát, lãnh phí, tham ô, tham nhũng trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc sắp xếp, đổi mới và phát triển hệ thống doanh nghiệp nhà
nước đang là yêu cầu bức bách có tính quyết định sống còn đối với nền kinh tế nhà nước. Để doanh
nghiệp nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thực sự là một công cụ để nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô về kinh tế, đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật, cần tập trung
một số giải pháp như sau:
Giải pháp thứ nhất là phải tiến hành phân loại, sắp xếp đổi mới hoạt động của các doanh
nghiệp : Thời gian qua, nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo tập trung rà soát, sắp
xếp thu hẹp hơn lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn sở hữu. Đối với các doanh
5-2
5-3
22
nghiệp nhà nước thuộc nhóm 1 duy trì 100% vốn nhà nước (=1.931 doanh nghiệp) thuộc lĩnh vực
không cổ phần hoá bao gồm một số doanh nghiệp nhà nước đang có đóng góp lớn cho ngân sách
nhà nước hoặc có vị trí quan trọng trong cân đối xuất, nhập khẩu trong đổi mới công nghệ, ưu tiên
phục vụ vùng sâu, vùng xa : giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động chính là : nhanh chóng kiện
toàn tổ chức, ưu tiên bổ sung vốn lưu động, cho vay một phần vốn với lãi xuất ưu đãi để doanh
nghiệp đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm 3 bao gồm những doanh nghiệp thua
lỗ kéo dài, không trả được nợ đến hạn, không nộp đủ thuế cho nhà nước, sẽ xử lý theo 2 hướng :
một là nếu doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ nhưng hoạt động kém hiệu quả do thiếu vốn, năng lực
quản lý yếu kém (khoảng 205 doanh nghiệp) sẽ áp dụng biện pháp khoán kinh doanh hoặc cho thuê,
khi hoạt động có hiệu quả sẽ tiến hành thực hiện biện pháp chuyển đổi cơ cấu sở hữu; hai là trường
hợp doanh nghiệp không còn khả năng khắc phục, bế tắt trong kinh doanh (146 doanh nghiệp) sẽ
làm thủ tục giải thể, phá sản. Còn lại đông nhất là các doanh nghiệp thuộc nhóm 2 sẽ tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp, đây là một hướng đi đúng để từng bước thiết lập môi trường cạnh tranh bình
đẳng, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư thay đổi trang thiết bị công nghệ, tạo thêm việc làm nâng
cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp; tạo điều kiện cho người lao động được làm chủ thực sự, thay
đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản
nhà nước nâng thu nhập cho người lao động. Hình thức cổ phần hoá gồm có 4 hình thức sau : hoặc
giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn;
hoặc bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp; hoặc tách một bộ phận của
doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá và phát hành thêm cổ phiếu; hoặc bán toàn bộ giá trị của
doanh nghiệp hiện có để chuyển thành công ty cổ phần. Thực tế cho thấy tuyệt đại đa số các doanh
nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá đều có cải thiện rõ rệt về hiệu quả sản xuất kinh doanh, điều
đó cho thấy chủ trương cổ phần hoá là đúng và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hầu hết các địa phương và các ngành đều đã có chương trình sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước và sự cam kết về lịch trình thực hiện, nhưng thực tế tiến độ này vẫn còn diễn
ra rất chậm chạp. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân (phức tạp trong cách tính giá trị tài sản, giải
quyết công nợ của doanh nghiệp ), nhưng nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý ợ mất chức-mất việc, tư
tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào cơ chế bao cấp. Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, xóa bỏ cơ chế bao cấp, bảo hộ, thực hiện tốt
quy chế dân chủ, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
Giải pháp thứ hai là củng cố, hoàn thiện cơ chế hoạt động các Tổng công ty nhà nước.
Các tổng công ty nhà nước hiện nay có trên 300 tổng công ty, đây là những tổ chức kinh tế lớn của
nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động, cần phải đổi mới cơ chế hoạt động của các tổng công ty
bao gồm : đổi mới mối quan hệ giữa chủ tịch hội đồng quản trị với các tổng giám đốc (Hội đồng quản
trị mới có thực quyền, tổng giám đốc phải chịu sự giám sát toàn diện của hội đồng quản trị), quan hệ
giữa Tổng Công ty với các đơn vị thành viên (Tổng công ty phải cấp vốn, bảo lãnh, hỗ trợ, cung cấp
thông tin, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển cho các công ty con, tạo tính năng động nhưng
không phụ thuộc của các công ty con) .
Giải pháp thứ ba là lập kế hoạch đổi mới công nghệ và hoàn thiện quản lý nhằm nâng cao
sức cạnh trạnh trong quá trình hội nhập quốc tế. Đây cũng là yêu cầu khách quan đòi hỏi khi Việt
Nam đã tham gia vào các khu vực mậu dịch tư do của hiệp hội các quốc gia Đông nam á (AFTA –
năm 1995), diễn đàn hợp tác sản xuất Châu á – Thái Bình Dương (OPEC – năm 1998), và sẽ tham
gia tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Bốn là hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Trước hết phải lành mạnh hóa
tài chính doanh nghiệp: xác định tài sản doanh nghiệp chính xác, bổ sung phương pháp định giá
doanh nghiệp, xác định đúng công nợ, phân tích rõ nguyên nhân của công nợ khó đòi, vật tư ứ đọng
để có biện pháp xử lý, hoàn chỉnh các chính sách tài chính đối với trước, trong và sau khi thực hiện
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng
và thực hiện bảo toàn phát triển vốn. Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tiếp tục mở rộng quyền tự
chủ tài chính trong hoạt động của danh nghiệp nhà nước về vay vốn, quản lý tài sản ,quyết định kế
5-4
23
hoạch sản xuất, kinh doanh, chế độ trả lương, thưởng, chấm dứt tình trạng can thiệp trực tiếp của
các bộ quản lý ngành và các bộ chức năng vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Phân
định rõ quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và trách nhiệm của người sử dụng
vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước : chủ sở hữu có quyền quyết định thành lập, sát nhập, chia
tách, giải thể, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển
và định hướng kế hoạch kinh doanh trung hạn, dài hạn của doanh nghiệp, ban hành điều lệ mẫu tổ
chức hoạt động doanh nghiệp, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức danh quản lý
chủ chốt, tổ chức kiểm tra giám sát thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ nhà nước giao và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, người sử dụng vốn nhà nước có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo
toàn và phát triển vốn nhà nước để thực hiện các mục tiêu kinh doanh và nhiệm vụ do nhà nước giao;
thực hiện đúng chế độ và các quy định về quản lý vốn, tài sản, các quỹ về hạch toán, kế toán, chế độ
kiểm toán và các chế độ khác do nhà nước quy định, về tính trung thực và hợp pháp của các hoạt
động tài chính, các báo cáo tài chính. Bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh
nghiệp nhà nước, hoàn thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý doanh
nghiệp, đặc biệt là giám đốc, thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn quyền lợi, nghĩa vụ với kết
quả sản xuất kinh doanh. Kết hợp đào tạo bồi dưỡng trong nước và nước ngoài, kết hợp việc đào tạo
bồi dưỡng qua các trường lớp với khuyến khích dám nghĩ, dám làm, dám hành động và trưởng thành
qua hoạt động thực tiễn. Có chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người có tay
nghề cao, trình độ chuyên môn giỏi, đóng góp lớn để họ gắn bó lâu dài và cống hiến ngày càng
nhiều cho doanh nghiệp. Đồng thời với các biện pháp trên là phải nâng cao vai trò của tổ chức Đảng
ở doanh nghiệp nhà nước và tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
Tóm lại, chúng ta đang đứng trước nhu cầu bức xúc của thực tiển phải cải cách mạnh
mẽ nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là đất nước đang đứng trước
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, việc đổi mới, phát triển và nâng cao năng lực hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quyết định rất lớn và vì vậy nó đòi hỏi phải có sự
chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về mặt quản lý nhà nước cũng như của bản thân các doanh nghiệp
nhà nước. Có như vậy, doanh nghiệp nhà nước phải hoàn thành vai trò chủ đạo, có ý nghĩa quyết
định tạo môi trường cho sự hợp tác liên kết nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, nâng cao hiệu
quả kinh tế xã hội.
Câu 6. Về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở Việt Nam
Bài làm
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang hướng tới là xây dựng Việt
Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân
chủ, văn minh. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội để đạt được những mục tiêu đó, vai trò của
người quản lý kinh tế có ý nghĩa quyết định rất lớn đến sự thành công hay thất bại. Trong bất cứ lĩnh
vực hoạt động kinh tế nào, người quản lý cũng phải là những chủ thể hội đủ các phẩm chất và năng
lực tương ứng. Làm gì để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế giỏi, bản lĩnh và đáp ứng được
nhu cầu phát triển kinh tế đất nước đang là vấn đề bức xúc đặt ra hàng đầu cho Đảng và nhà nước
ta.
Cán bộ quản lý kinh tế là tất cả các cá nhân thực hiện chức năng quản lý nhất định trong bộ máy
quản lý kinh tế, họ cũng là người lao động nhưng khác những người trực tiếp hoạt động sản xuất -
kinh doanh ở chỗ lao động mà họ thực hiện là lao động quản lý - một thứ lao động sản xuất đặc biệt,
nó không nằm ngoài mà nằm trong quá trình sản xuất vật chất, tạo ra giá trị mang lại lợi nhuận cho
từng đơn vị kinh tế. Do đó, quản lý kinh tế trước hết là một nghề có chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác,
5-6
5-5
24
nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ phải được đặt trong mối quan hệ xác định;
quan hệ với đường lối, nhiệm vụ, chính trị trong từng thời kỳ nhất định; quan hệ với bộ máy và cơ chế
chính sách; quan hệ với thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước.
Trong hoạt động kinh tế, cán bộ quản lý giữ vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định sự
thành công hay thất bại trong phát triển kinh tế của một quốc gia, một doanh nghiệp, bởi họ trực tiếp
tham gia xây dựng đường lối, thể chế, kế hoạch chính sách, công cụ quản lý kinh tế và cũng là người
trực tiếp thực hiện những đường lối, kế hoạch đó, sử dụng những công cụ, thực lực kinh tế để tác
động quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường hoặc trực tiếp tổ chức hoạt động sản xuất, đặc biệt là đối
với cán bộ quản lý kinh tế, các quyết định quản lý mà họ đưa ra có tác động sâu sắc, lâu dài đến đời
sống KTXH … . Có hai nhóm cán bộ quản lý kinh tế hoạt động ở hai lĩnh vực khác nhau : quản lý nhà
nước về kinh tế và quản lý trong sản xuất - kinh doanh. Hai nhóm cán bộ này thực hiện chức năng
quản lý có khác nhau, có những đặc điểm và yêu cầu riêng khác nhau nhưng có đặc điểm và yêu cầu
chung của một loại nghề nghiệp đặc biệt : nghề quản lý. Do vậy họ phải đáp ứng những yêu cầu cơ
bản về phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực quản lý nhất định.
Về phẩm chất chính trị, biểu hiện cao nhất và tập trung nhất của cán bộ quản lý kinh tế hiện nay là
phải nắm vững quán triệt được quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, nhà nước
và ở từng cấp phải biết cụ thể hoá đường lối quan điểm vào nội dung quản lý, vào trong hoạt động
thực tiễn của đơn vị, biểu hiện qua việc làm, kết quả cống hiến vào sự nghiệp phát triển kinh tế của
từng ngành, từng địa phương. Cụ thể hơn, yêu cầu về phẩm chất chính trị cho mỗi cán bộ quản lý là :
phải có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có bản lĩnh và kiên định trong công việc được
giao, có ý chí và có khả năng làm giàu cho tập thể - xã hội và cho bản thân, có khả năng tự hoàn
thiện, tự quản lý, tự đánh giá kết quả công việc của bản thân, đánh gía con người mà mình quản lý,
biết cách biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức của mọi người, tạo được lòng tin và lôi
cuốn mọi người tham gia cũng như hoạt động trong quá trình đổi mới họ vừa phải có bản lĩnh chính
trị vững vàng, vừa phải rất năng động sáng tạo.
Về phẩm chất đạo đức, người quản lý kinh tế phải sống và làm việc theo pháp luật, đồng thời với
tư cách là người quản lý, họ phải biết chăm lo việc công của đơn vị, của nhà nước cũng như chăm lo
đến con người, tập thể, cộng đồng, biểu hiện qua cách xử sự công bằng, công tâm, khách quan, có
văn hoá, tôn trọng con người… Bên cạnh đó, người quản lý phải là tấm gương cho người dưới
quyền và người lao động trực tiếp noi theo, điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý phải là người liêm
khiết, khiêm tốn, trung thực, thẳng thắn, không vụ lợi. Sự công bằng, công tâm của người lãnh đạo,
quản lý và thực hiện bình đẳng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm là yếu tố
hết sức quan trọng bởi nó đem lại sự đồng thuận, đoàn kết và thống nhất cao của tập thể mà họ quản
lý. Cuối cùng, người quản lý kinh tế còn phải biết lưu giữ và hàm chứa những truyền thống dân tộc,
kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại trong tính cách.
Về yêu cầu năng lực quản lý, họ phải có khả năng hoàn thành một hoạt động nhất định, bao gồm
năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý.
Về năng lực chuyên môn, người quản lý kinh tế phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực được
giao trách nhiệm quản lý mới thực để biết sử dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, các cán bộ chuyên
môn dưới quyền, giao đúng việc và tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng chuyên môn cho nhiệm
vụ chung. Bên cạnh đó, người quản lý kinh tế không những phải có kiến thức về lĩnh vực kinh tế thị
trường; nắm vững bản chất, quy chế vận động để ứng xử, lựa chọn trong kinh doanh, để sử dụng
công cụ điều tiết kinh tế thị trường trong quản lý nhà nước mà còn phải có kiến thức về khoa học
quản lý hiện đại đồng thời trong hoạt động quản lý, người quản lý kinh tế phải xuất phát từ thực tế
hoạt động sản xuất kinh doanh, thực tế địa phương, thực tế đời sống kinh tế - xã hội để tìm lời giải,
biện pháp cụ thể, tránh giáo điều sách vở.
Về năng lực tổ chức quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế là những người trực tiếp tổ chức
điều hành bộ máy quản lý để phối hợp hoạt động của từng đơn vị kinh tế cụ thể, do đó người cán bộ
25
quản lý phải có năng lực thực tế và phân tích các tình huống, năng lực quyết sách và giải quyết các
vấn đề, năng lực tổ chức và chỉ huy để tạo được chuyển biến nhảy vọt về lực lượng sản xuất và năng
suất lao động. Người quản lý kinh tế phải có bản lĩnh, kiên quyết, nhạy cảm, linh hoạt, có khả năng
quan sát, biết thích nghi kinh tế thị trường, năng động và lợi dụng được các tác động qua lại giữa thị
trường với sản xuất kinh doanh để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Họ cũng phải là người có
tầm nhìn xa trông rộng, ít phải trả giá cho những sai lầm, bình tĩnh, tự chủ nhưng quyết đoán, dứt
khoát trong công việc, có kế hoạch làm việc rõ ràng và tiến hành công việc nhất quán theo kế hoạch,
dám nghĩ dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu trách nhiệm, biết dồn đúng tiềm lực vào khâu yếu, biết
tận dụng thời cơ có lợi cho hệ thống. Người quản lý kinh tế phải có tác phong đúng mực, thông cảm
và hiểu cấp dưới, có thái độ chân thành, cộng tác, đồng thời hướng cho cấp dưới tác phong cộng
tác, giúp đỡ lẫn nhau, biết sử dụng đúng tài năng từng người, đánh giá đúng con người, biết xử lý tốt
các mối quan hệ ở trong và ngoài hệ thống, quan hệ với người dưới quyền; quan hệ với cấp trên trực
tiếp …
Ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế được hình thành, phát triển gắn liền với chủ trương,
đường lối cán bộ của Đảng và nhà nước. Bên cạnh những ưu điểm như : đã có đội ngũ cán bộ tương
đối đủ vể cơ cấu trình độ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tận tuỵ tâm huyết với công việc; có những
bước phát triển về số lượng và chất lượng; có phẩm chất trong sáng, thích ứng nhanh và có nhiều
đóng góp xây dựng cơ chế kinh tế mới… Song trước những yêu cầu đặt ra từ thực tế biến động
không ngừng của nền kinh tế thị trường, sự thách thức cạnh tranh kinh tế, sự phát triển khoa học-
công nghệ và hòa nhập kinh tế quốc tế, các nước trên thế giới , đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
nước ta cũng bộc lộ những hạn chế và khuyết điểm : đó là tình trạng mất cân đối về cơ cấu trình độ,
về ngành nghề lứa tuổi; thiếu những nhà kinh doanh và công chức quản lý kinh tế giỏi, cán bộ quản lý
doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu mới về trình độ năng lực do kiến thức về kinh tế thị
trường, về luật pháp và năng lực quản lý còn nhiều bất cập; công tác quản lý cán bộ còn yếu chưa
đồng bộ ở tất cả các khâu; một bộ phận cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức - chính trị, chạy theo lối
sống thực dụng, lợi dụng các sơ hở yếu kém để trục lợi cá nhân…
Từ thực trạng trên, vấn đề bức xúc hiện nay là phải xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế có đủ
khả năng thích nghi, làm chủ và vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Đầu tư cho cán bộ quản lý kinh tế cũng chính là đầu tư cho phát triển, chống lại nguy cơ tụt
hậu. Do đó, đây là một quá trình lâu dài và gắn chặt với quá trình đổi mới hoàn thiên cơ chế, cải cách
hành chính, bao gồm việc thực hiện đồng bộ các giải pháp như sau:
Một là phải đổi mới quan niệm, nhận thức về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế : vấn đề chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề hệ trọng của sự nghiệp đổi mới, vì vậy Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý cán bộ. Mặt khác, quản lý kinh tế cần phải được nhìn nhận như một chức
nghiệp, một nghề nghiệp lao động đặc biệt trong cơ cấu lao động xã hội, nó đòi hỏi cán bộ quản lý
bên cạnh những phẩm chất, năng lực đặc biệt còn phải được đào tạo thật bài bản, chuyên nghiệp.
Song song đó, cần tiếp tục cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị TW 3 (khoá VIII) về cán bộ quản lý kinh tế,
chuẩn bị đội ngũ cán bộ thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từ đó có biện pháp cụ thể từ phát
hiện, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, đánh giá cán bộ quản lý kinh tế. Để việc tuyển chọn,
đánh giá cán bộ được khách quan, khoa học, cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn có tính chất
pháp lý cho từng loại cán bộ quản lý trên hai mặt cơ bản : phẩm chất và năng lực đồng thời cần phân
định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh để trền
cơ sở đó mà tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cho từng lĩnh vực.
Hai là phải xây dựng chiến lược về cán bộ quản lý kinh tế : Đối với cán bộ quản lý nhà nước về
kinh tế, phải có chiến lược đào tạo những cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế vĩ mô bởi họ là những
người có sự tác động rộng, toàn diện trên các mặt chính trị, xã hội và toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
do đó phải là những công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có
năng lực chuyên môn đủ cao khả năng hoạch định chính sách, định hướng đúng đắn cho sự phát
triển nến kinh tế nước ta. Đối với cán bộ quản lý sản xuất - kinh doanh nhất là trong các doanh