Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Ứng dụng vi sinh vật trong sản xuất nước tương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.74 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI BÁO CÁO

ỨNG DỤNG NẤM MỐC TRONG SẢN XUẤT NƯỚC TƯƠNG ĐẬU NÀNH
(Aspergillus oryzae hoặc A.sojae)

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN TRẦN MINH ANH
Khoa: CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM.
Ngành: BẢO QUẢN VÀ CHẾ BIẾN NÔNG SẢN THỰC PHẨM
Mã số sinh viên: 06125005
Niên khóa: 2006-2010


I/ Đặt vấn đề:
-

-

Xì dầu hay nước tương (phương ngữ miền Nam Việt Nam) là một loại nước chấm
được sản xuất bằng cách lên men hạt đậu tương, ngũ cốc rang chín, nước và muối
ăn. Nước chấm này, có nguồn gốc từ Trung Quốc, được sử dụng khá phổ biến trong
ẩm thực châu Á tại khu vực Đông Á và Đông Nam Á, gần đây cũng xuất hiện trong
một số món ăn của ẩm thực phương Tây, đặc biệt là một thành phần của nước chấm
Worcestershire.
Xì dầu đích thực được lên men bằng men ( là một trong hai loài nấm Aspergillus
oryzae hay A. sojae) cùng các vi sinh vật liên quan khác. Xì dầu đích thực được sản
xuất từ hạt đậu tương nguyên vẹn, nhưng nhiều loại rẻ tiền được làm từ protein đậu
tương thủy phân. Các loại xì dầu này khơng có màu sắc tự nhiên của xì dầu đích
thực và nói chung được nhuộm màu bằng nhuộm màu caramel để có màu nâu đen.



-

Ngồi ra, theo truyền thống thì hạt đậu tương được lên men trong các điều kiện tự
nhiên, chẳng hạn như trong các bình hay lọ to để ngoài trời mà người ta tin rằng sẽ
tạo thêm hương vị cho sản phẩm. Ngày nay, phần lớn xì dầu sản xuất ở quy mơ
thương mại được lên men trong mơi trường do máy móc kiểm sốt.

-

Dường như tất cả các loại xì dầu đều được bổ sung thêm một chút rượu khi đóng
chai, có tác dụng như là chất bảo quản chống hư hỏng. Xì dầu nói chung nên được
bảo quản nơi râm mát, tránh bị nắng chiếu trực tiếp. Chai xì dầu đã mở nắp mà
khơng được lưu giữ nơi có nhiệt độ thấp sẽ hơi bị đắng.

-

Mặc dù có nhiều loại xì dầu, nhưng tất cả đều là chất lỏng màu nâu có vị mặn, được
sử dụng để tạo gia vị khi nấu ăn hay làm nước chấm. Cái mà một số người phương
Tây chỉ có thể miêu tả như là một loại vị ngọt có mùi thơm thì đối với người phương
Đơng lại là một vị cơ bản, được người Nhật gọi là "umami", còn người Trung Quốc
gọi là "tiên vị" (nghĩa văn chương là "vị tươi"). Chất tạo ra vị umami này là glutamat
mononatri, có tự nhiên trong xì dầu.

Nước tương đậu nành
Nước tương đậu nành lên men có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ở Nhật có khoảng 3600
cơng ty, trong đó có 5 cơng ty lớn nhất sản xuất 1,2 triệu tấn chiếm khoảng 1/2 sản lượng
hàng năm . Nước tương có nhiều dạng khác nhau, nhưng Koikuchi-Shoyu là đại diện tốt
nhất của nước tương lên men (Yokotsuka and Sasaki 1998). Nó là một chất lỏng nâu xậm
trong với thành phần xấp xỉ: 22°Bé, 17% NaCl, 1,6% đạm tổng số, 1% đạm formol, 3%

đường khử, 2,3% rượu alcohol và pH 4.7. Về cơ bản của quá trình chế biến bao gồm 3
giai đoạn: làm koji (đậu nành lên mốc), lên men trong nước muối và lọc trong. Làm koji
là quá trình lên men bề mặt của hỗn hợp đậu nành nấu/hấp và bột mì rang. Nó được
chủng giống với bào tử Aspergillus oryzae hoặc A.sojae và được ủ ở 25°C trong 2-3 ngày
để thu được sự phát triển dày đặc và sự tạo bào tử xanh vàng chỉ ra rằng mức độ cao của
enzim đã được tạo ra. Những enzim này bao gồm peptidases, proteinases, glutaminase,
amylase, pectinases và cellulases cần thiết cho sự thuỷ phân từng phần của đạm và các
hợp chất carbon của vật liệu thô.


Giai đoạn 2 lên men trong nước muối diễn ra trong mẽ nước muối 22-25% NaCl để vi
sinh vật gây hư hỏng không thể phát triển nhưng sự phân cắt enzim vẫn diễn ra. Tuy
nhiên, trong 2 tháng đầu ở 15-20°C, vi khuẩn axít lactic (Tetragenococcus halophila) và
những tháng tiếp theo ở 30°C, nấm men ưa muối (Zygosaccharomyces rouxii) sẽ phát
triển, vào khoảng thời gian chín, những sản phẩm trao đổi chất của chúng thêm vào thành
phần hương vị thực chất thơm ngon của nước tương.
II/ Các phương pháp sản xuất nước tương:
- Nước tương có thể được chế biến theo 2 phương pháp chủ yếu: phương pháp thủy
phân bằng hóa chất và phương pháp lên men vi sinh vật.
* Phương pháp thủy phân (hóa giải): Nguyên liệu được ngâm nấu sôi ở nhiệt độ
110-120oC với acid clorhidric 15-16% trong 18-24 giờ sau khi sơi. Để nguội hồn
tồn, lọc rửa dịch thủy phân, trung hòa acid bằng natri hiđroxid hoặc natri carbonat
đến pH từ 5- 6 (thấp hơn 5 có vị chua; cao hơn 6 có vị đắng, mùi nồng) thêm muối
vào, cô đặc đến hàm lượng đạm cần thiết (tiêu chuẩn đạm: 10-22g/l). Sau đó đem
thanh trùng, vơ chai, bảo quản và phân phối tiêu thụ.
* Phương pháp lên men vi sinh vật: Chủ yếu dựa vào tác dụng của Enzym (men)
thu được từ mốc giống đã chọn lọc và nuôi cấy để thủy phân protid và glucid của
nguyên liệu thực vật. Mốc giống được nuôi trong môi trường thạch sẽ được nhân ra
và cấy vào hỗn hợp khô đậu tương (bã đậu nành) hoặc khô lạc (bánh dầu đậu phộng)
và bột mì (bột làm bánh mì chớ khơng phải bột khoai mì) đã hấp chín, đánh tơi ra và

để nguội. Sau đó ủ mốc ở nhiệt độ ấm (30-38oC), nơi thống khí, có độ ẩm tương đối
của khơng khí hơn 90%. Khi giai đoạn phát triển mốc kết thúc, làm tơi nguyên liệu
đã lên mốc, pha trộn vào đó dung dịch nước muối 20% theo tỷ lệ từ 25-30% và đem
ủ ấm ở nhiệt độ 50-60oC. Sau đó chiết rút và pha tiếp nước muối vào và tiếp tục
chiết rút nước tương,... (nước cốt hay nước 1, nước 2, nước 3,..).
III/ Quy trình sản xuất nước tương đậu nành:
* Mơ tả quy trình cơng nghệ:
- Hạt đậu nành (ngâm, hấp, cấy mốc) → Nuôi ủ bán rắn 2 ngày (+ nước, muối) → Ủ 01
tháng (+ VSV gây mùi) → Tiếp tục ủ 12 tháng (lọc) → Dịch lọc (khử trùng) → Đóng
chai → Bã tương (+ đường, gia vị) → Tương đặc.

* Làm tương hoàn toàn bằng đậu nành:
- Ủ mốc hoàn toàn bằng đậu nành.


- Lượng hạt đậu nành sau khi lựa chọn, loại bỏ hạt lép và sâu mọt, đem rang vàng và bỏ
vào nồi nấu cùng với nước (khoảng 3 - 4 kg đậu với 8 lít nước), nấu nhừ trong 3 - 4 giờ.
Vớt hạt đậu nành ra nia, tãi mỏng lấy lá chuối, lá sen, lá củ khoai mì hay lá nhãn đậy ủ lại
cho lên mốc đỏ hoa cau là tốt. Nước nấu đậu đổ vào vại, hủ riêng cho thêm muối và để
chừng 6 – 7 ngày sau sẽ ngả tương.
- Tương ủ có mốc vàng hoa cau đã lên đều khắp lấy tay bóp, trộn đều và đem phơi nắng
(2 - 3 nắng) cho khơ, sau đó cho vào nước nấu đậu, cho thêm muối như các cách làm
tương nếp, tương ngô khuấy đều, đậy kỹ và chờ thời gian ngả tương đến khi ngấu.
* Quá trình thực hiện :
- Chuẩn bị nguyên liệu.
- Làm mốc giống.
- Nuôi mốc trên nguyên liệu giàu đạm.
- Ủ ẩm ( thủy phân ).
- Trích li nước chấm.
- Lọc - thanh trùng – đóng chai – bảo quản.

* Nguyên liệu :
-Đậu nành , đậu phộng : 70 – 90 %
-Bột mì : 10 – 30 %
-Muối ăn : 0.8 – 0.9 kg /kg nguyên liệu đậu.
-Nước.
-Mốc giống : có nhiều lọai , chủ yếu là Aspergillus Oryzae.
*Aspergillus Oryzae:
-Thuộc chủng nấm mốc dạng sợi.
-Có màu vàng.
-Cho protease họat tính cao.
-Khơng tạo độc tố.
-Tạo hương tốt .
* Q trình làm mốc giống :
Có 3 giai đọan :
Mơi trường thạch nghiêng.
Mơi trường bình tam giác.
Môi trường trung gian.
* Môi trường thạch nghiêng:
-Môi trường thường là dịch đường hóa làm từ Malt.
-Bổ sung Gluco.
-Thạch 20 – 25 g / lít dịch đường.
-Tất cả cho vào ống nghiệm sạch đã được thanh.
trùng -> đặt nghiêng -> nguội -> cấy giống->
nuôi 38 – 48 giờ ở 35 độ .
* Mơi trường bình tam giác :
-Thường dùng gạo , bắp đã xay nhỏ .
-Bổ sung thêm trấu cho xốp.
-Hấp chín.
-Dày 1 cm.
-Để nguội 30 – 35 độ.

-Cấy chuyền từ ống nghiệm ra bình tam giác.


-Nuôi 38 – 48 giờ , nhiệt độ 30 – 35 độ .
* Môi trường trung gian :
-Bắp, gạo ngâm nước 3 – 4 giờ , hấp chín , trải lớp mỏng 1 – 2 cm .
-Cấy tòan bộ mốc bình tam giác ra , trộn đều.
-Ni 36 – 42 giờ , nhiệt độ 28 – 30 độ , ta được mốc giống , màu vàng đều .
-Sấy ở 40 độ cho khô .
* Nuôi mốc trên nguyên liệu giàu đạm :
-Vô trùng khay.
-Nguyên liệu đậu nành , đậu phộng ngâm nước , hấp chín , để nguội đến 30 – 35 độ.
-Cấy mốc giống với tỷ lệ 0.8 – 1 % .
Trải lớp mỏng 1.5 – 2.5 cm .
-Nuôi ở phịng có độ ẩm cao 90 – 100 % ở nhiệt độ 40– 42 giờ , khi có màu vàng hoa cau
là được.
-Trộn đều , bóp rời.
* Xử lí nguyên liệu :
-Đậu nành đãi, tách vỏ .
-Ngâm trong nước.
-Hấp.
-Làm nguội.
-Trộn với bột mì để ni nấm mốc A.oryzae.
* Ủ ẩm-thủy phân :
-Thủy phân protit đậu nành dưới tác dụng của enzym nấm mốc.
-Nguyên liệu đã mọc nấm , trộn đều với nước muối .
-Môi trường phải ẩm .
-ủ thành khối ở 35 – 40 độ trong 3 – 4 ngày .
-Nếu nhiệt độ cao quá thì phải trải mỏng và đảo để hạ nhiệt độ xuống dưới 50 – 55 độ.
* Trích ly:

-Khối mốc cho vào thiết bị có van mở ở đáy .
-Dùng nước muối cho vào khối mốc , để ngập và ngâm 8 – 12 giờ .
-Rút nước chấm ra .
-Lại tiếp tục cho muối vào bả, ngâm vài giờ và rút ra nước chấm lọai thấp đạm hơn .
-Thanh trùng ở 90 – 100 độ .
-Cho Natri benzoat để chống váng mốc.
* Trong quá trình chế biến tương cần chú ý một số kỹ thuật sau đây:
- Lượng hạt đậu nành sau khi lựa chọn, loại bỏ hạt lép và sâu mọt, đem rang vàng và bỏ
vào nồi nấu cùng với nước (khoảng 3 - 4 kg đậu với 8 lít nước), nấu nhừ trong 3 - 4 giờ.
Vớt hạt đậu nành ra nia, tãi mỏng lấy lá chuối, lá sen, lá củ khoai mì hay lá nhãn đậy ủ lại
cho lên mốc đỏ hoa cau là tốt. Nước nấu đậu đổ vào vại, hủ riêng cho thêm muối và để
chừng 6 – 7 ngày sau sẽ ngả tương.
- Tương ủ có mốc vàng hoa cau đã lên đều khắp lấy tay bóp, trộn đều và đem phơi nắng
(2 - 3 nắng) cho khô, sau đó cho vào nước nấu đậu, cho thêm muối như các cách làm
tương nếp, tương ngô khuấy đều, đậy kỹ và chờ thời gian ngả tương đến khi ngấu.
- Quá trình ủ mốc phải đảm bảo nhiệt độ và ẩm độ thích hợp cho mốc phát triển. Loại
mốc vàng hoa cau chính là mốc Aspergilluss oryzae, với nhiệt độ là 30 -32oC, ẩm độ 80
-90% chỉ sau 38- 48 giờ là mốc phát triển rất đều.
- Phải theo dõi nước nấu đậu đúng lúc. Nếu nước đậu non thì tương dễ bị chua (tương nấu


đậu non là nếm thấy ngọt). Ngược lại nước nấu đậu già (nếm thấy nhạt và mùi tương
giảm) thì tương dễ bị thối. Nước đậu đủ ngày (8 -19 ngày) và nếm thấy ngọt và có mùi
thơm của tương.
- Khi thấy mốc ở nia bắt đầu mọc thì rang đậu và ngâm nước đậu là vừa.
- Trường hợp ngâm nước đậu đã đủ ngày mà mốc chưa phát triển kịp thì cho muối
(thường là ½ tổng số muối) vào nước đậu để hãm chờ mốc.
- Trường hợp mốc phát triển quá nhanh mà nước đậu chưa đủ ngày thì ta cũng dùng muối
hoà tan với nước và trộn vào nia mốc để hãm mốc.
- Khi ngả tương (phơi tương) phải đậy kỹ tránh để ruồi muỗi và nước mưa rơi vào hủ

tương.
- Tương làm xong có thể sử dụng 6 – 7 tháng hoặc cả năm, tương càng ngấu ăn càng
thơm ngon.
* Sơ đồ làm Nước tương đậu nành lên men:

* Giải thích quy trình:
3.1 Xử lí ngun liệu
- Loại bỏ tạp chất
- Nghiền nhỏ bằng máy nghiền búa đến kích thước 0.5-1mm ( để tăng diện tích tiếp xúc
giữa nguyên liệu với HCl trong quy trình Hiệu suất thủy phân cao, thời gian ngắn
đi.thủy phân)
3.1.2 Thủy phân.
Đây là một quá trình quan trọng trong quy trình sản xuất nước tương dưới tác dụng của


HCl và ở nhiệt độ cao trong một khoảng thời gian dài. Các chất trong nguyên liệu sẽ
được thủy phân.
• protein --> peptone --> polypeptide --> a.a
• Tinh bột --> maltose --> glucoza
• Xenlulose --> pentoza --> fulfurol
• Chất béo --> axit béo + glixerin
- Nhiệt độ cao -->gậy cháy, phá hủy axit amin.
- Nhiệt độ thấp -->thời gian lâu
- Thời gian quá ngắn -->hiệu suất thủy phân thấp.
- Thời gian quá dài -->tốn nhiên liệu, phá hủy các a.a
- Trong quá trình thủy phân cần quan tâm tới 3 yếu tố: nhiệt độ, thời gian thủy phân và
nồng độ NaCl.
a. Nhiệt độ thủy phân:
- Với thiết bị chịu áp lực, nhiệt độ thủy phân từ 125 – 135 độ C
- Với thiết bị thủ công như chum, vại nhiệt độ thủy phân là 105-112 độ C.

b. Thời gian thủy phân:
- Nếu thời gian thủy phân quá ngắn, quá trình thủy phân chưa hết --> hiệu suất thủy phân
thấp.
- Nếu thời gian thủy phân quá dài --> gây cháy khét, phá hủy các a.a, thay đổi mùi vị sản
phẩm.
- Thiết bị chịu áp lực: 2,5 kg/cm2 thì thời gian 6-12 giờ.
Sử dụng giấy lọc aniline axetat để thử: ta đem giấy lọc đem hơ lên chỗ khí bay ra, nếu
giấy lọc chuyển sang màu đỏ thẫm thì lúc đó fulfurol đã sinh ra --> đã thủy phân xong.
- Thiết bị thủ công chum, vại --> thời gian 18-24 giờ
- Thời gian thủy phân phụ thuộc vào nguyên liệu, loại lò nấu, nồng độ axit,…
c. Nồng độ HCl: Thường là 36-37%
- Qua thực nghiệm người ta phải hạ nồng độ xuống (16-25%) để tránh gây cháy nguyên
liệu.
- Tùy thiết bị mà ta sử dụng nồng độ khác nhau. Thiết bị thủ công, sử dụng nồng độ thấp
16% để khi bốc hơi nồng độ sẽ đậm đặc, cịn thiết bị cơng nghiệp sử dụng nồng độ cao
hơn.
3.2. Trung hòa:
- Dung Na2CO3 hoặc NaOH để trung hòa lượng axit dư:
HCl + Na2CO3 --> NaCl + CO2 + H2O
- Người ta sử dụng Na2CO3 nhiều hơn vì nó là muối khơng gây độc cho cơng nhân bằng
NaOH, và sản phẩm của nó tạo ra CO2 bay hơi, khi nó bay hơi kéo theo các mùi, vị
không mong muốn cũng bay theo.
- Sau khi thủy phân làm nguội dịch xuống 50-60 độ C rồi dung NaOH hoặc Na2CO3 để
trung hòa lượng HCl dư và điều chỉnh pH của nước chấm đến pH thích hợp (pH= 5-5,8)
+ Ở mơi trường axit yếu nước chấm sẽ có mùi vị thơm ngon. Nếu dư NaOH nước chấm
sẽ nồng, ngược lại trung hịa chưa đến pH thích hợp nước chấm sẽ chua.
+ Làm nguội xuống 50-60 độ C mới trung hịa vì:
• Nếu ở nhiệt độ cao, khi trung hòa sinh nhiệt làm cho nhiệt độ của dịch lúc đó tăng cao
hơn nữa sẽ làm cho các a.a bị phân hủy.
• Nếu ở nhiệt độ thấp thì càng tốt nhưng kéo dài thời gian.

Khi trung hòa bật cánh khuấy lên và cho từ từ NaOH vào không để bọt trào ra gây tai nạn


cho người công nhân và tránh cháy khét cục bộ.
3.3 Lọc :
-Sau khi trung hòa sẽ đem dịch đi lọc
-Mục đích: Tách dịch thủy phân ra khỏi bã. Bã này gồm các chất khơng hịa tan và hệ
keo. Nếu sản xuất cơ giới thì có thể sử dụng máy lọc khuing bản, li tâm. Nếu sử dụng thủ
cơng thì dung chum và vải lọc cùng với rổ, rá.
-Lọc lần 1, nước lọc được chứa trong thùng như phuy, sô chậu … sau đó bã được đổ vào
nước nóng và ngâm rồi lọc tiếp lần 2. Nước lọc 1 và nước lọc 2 có thể phối trộn với nhau
hoặc để riêng, tùy thuộc vào nơi sản xuất, muốn sản xuất loại tương có độ đạm nào. Sau
đó bổ xung thêm muối đến nồng độ 240g/l.
3.4 Thanh trùng:
Mục đích: tiêu diệt vi sinh vật, cải thiện màu ( cho đậm hơn), cô đặc
- nhiệt độ thanh trùng: 75-80 độ C
- thời gian: 20-30 phút
Sau đó bổ xung thêm chất chống mốc C6H5COONa: 0,07 – 0,1%
-->Sau đó nước tương sẽ được chứa trong các thùng inox trong khoảng thời gian 1 tuần.
Là giai đoạn để ổn định nước tương (hay lên men phụ)
Sau đó sẽ được bơm đi lọc, rồi chiết rót vào chai -->bảo quản
IV/ Giới thiệu về nấm mốc trong sản xuất nước tương:

Hình: Aspergillus oryzae
-

Nấm mốc Aspergillus oryzae sinh ra các enzym amylaz, invertaz, maltoz, proteaz và
cataz có khả năng phân giải tinh bột, protein thành đường, acid amin. Nấm mốc
Aspergillus oryzae là tác nhân chủ yếu lên men trong sản xuất nước tương theo
phương pháp vi sinh vật. Trong công nghiệp người ta nhân giống nấm mốc này để

sản xuất tương.

-

Nấm mốc Aspergillus flavus cũng là mốc vàng rất giống Aspergillus oryzae chỉ khác
là Aspergillus flavus có kích thước nhỏ hơn (chiều cao của cuống sinh bào tử từ 0,41mm so với Aspergillus oryzae từ 1-2mm). Nấm mốc này có thể sinh ra độc tố
aflatoxin gây ung thư.

-

Nấm Aspergillus cịn gọi là mốc tương. Sợi nấm có vách ngăn, cuống mang bào tử
bụi phồng lên ở ngọn. Các chuổi bào tử bụi từ đầu phồng mọc tỏa khắp mọi hướng.


Bào tử bụi có thể màu vàng (Aspergillus flavus), màu đen (Aspergillus niger). Nấm
Aspergillus oryzae là lồi mốc chính trong quá trình chế tạo tương và tương do
Aspergillus oryzae lên men ngon hơn các tương khác vì loại mốc này có khả năng
biến đổi tinh bột của gạo nếp thành đường làm cho tương có vị ngọt. Hai lồi khơng
độc làm tương là Aspergillus oryzae và Aspergillus sojae có hình thái và màu sắc rất
giống với 2 loài rất nguy hiểm là Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus sản
sinh ra độc tố Aflatoxin gây bệnh ung thư.
-

Bộ gen di truyền của Aspergillus oryzae hiện đã được phân tích và biết rất kỹ vào
năm 2001. Nấm này có thể dùng trong cơng nghiệp để sản xuất nhiều loại enzyme
khác nhau (amylase, protease, lipase, hemicellulase, cellulase, oxidoreductase,
phytase, pectinesterase…).

-


Người nghiên cứu sớm nhất về loài nấm này là một nhà khoa học Nhật Bản tên là
Jokichi Takamine, Ông sinh ngày 03/10/1854 tại Takaoka. Năm 1894 ơng lấy được
bằng sáng chế về q trình sản xuất men đường hóa (US Patent số 252.823) trình
bày phương pháp nuôi nấm sợi Aspergillus trên cám và dùng cồn để chiết xuất ra
men amylase (men đường hóa tinh bột). Sau đó Takamine đã chứng minh được men
này có thể ứng dụng trong y học và ông nhận được Bằng sở hữu trí tuệ. Mặc dầu
nghề làm tương ở Việt Nam và nghề làm sake ở Nhật Bản đã có từ lâu đời, nhưng
việc chiết rút ra enzyme và sản xuất chế phẩm enzyme thì Takamine là người đi tiên
phong.
Khuẩn lạc ln khơng
nhỏ (trừ các lồi
Aspergillus ưa thẩm
thấu) khơng có màu nâu
đỏ. Bào tử trần khơng
hình thành sau sự phân
chia của sợi hữu thụ.

V/ Một số hình ảnh về nấm mốc :

Độc tố Aflatoxin B1


Aspergillusflavus

Aflatoxin

Nấm sợi Aspergillus flavus


VI/ Tài liệu tham khảo:

- © Nguyễn Lân Dũng
- Nguồn: Sách Bảo quản và Chế biến nông sản sau thu hoạch/ Nhà xuất bản Nơng nghiệp
2006.
- © và Nguyễn Lân Dũng



×