Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Bai du thi tim hieu 85 nam ngay thanh lap Cong doan Viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BÀI DỰ THI Tìm hiểu “Công đoàn Việt Nam - 85 năm xây dựng và phát triển” Họ và tên: Hà Như Thịnh. Ngày tháng năm sinh: 25/05/1975 Giới tính: Nam. Dân tộc: Kinh. Đảng viên: . Đoàn viên: . Địa chỉ thường trú: Thôn 7, xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông, tỉnh ĐăkLăk Số điện thoại liên lạc: 0969.57.3789 Đơn vị công tác: Phòng GD&ĐT Krông Bông, ĐăkLăk. Chức vụ: Chuyên viên. Kiêm nhiệm: UV BTV CĐGD, Chủ nhiệm UBKT CĐGD, Chủ tịch CĐCS.. Câu 1: Anh (Chị) hãy trình bày sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam và ý nghĩa của sự kiện này ? Trả lời: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I của thực dân Pháp (1897 - 1914) và nhanh chóng trưởng thành trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ II (1919 - 1929). Do phải chịu hai tầng áp bức, bóc lột tàn bạo của chế độ thuộc địa nửa phong kiến nên đời sống giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta vô cùng khổ cực. Bởi vậy các cuộc đấu tranh của công nhân lao động ở các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền đã liên tiếp nổ ra chống lại chế độ tư bản và bọn phong kiến. Ban đầu các cuộc đấu tranh còn diễn ra lẻ tẻ, mang tính tự phát, nhưng về sau đã có sự liên kết, có tính tổ chức chặt chẽ hơn. Từ trong đấu tranh đã hình thành tính giai cấp và những người công nhân tập hợp lại thành tổ chức như các hội: Ái hữu, Tương tế, Phường hội, Nghiệp đoàn, Công hội… Đây chính là những tổ chức công đoàn sơ khai đầu tiên và có ở nhiều nơi. Sau đó tổ chức Công hội Ba Son, được lãnh tụ Tôn Đức Thắng thành lập tại Sài Gòn vào cuối năm 1920. Đến cuối năm 1925, tổ chức này đã có được khoảng 300 hội viên ở tại nhà đèn Chợ Quán, nhà thương Chợ Rẫy,... và nhất là tại công binh xưởng Ba Son. Chính công hội Ba Son đã tổ chức cuộc đình công của công nhân công binh xưởng Ba Son thắng lợi vào tháng 8 năm 1925. Cuộc đấu tranh này được xem là sự mở đầu cho phong trào công nhân Việt Nam từ tự phát tiến lên tự giác. Tuy nhiên Công hội Ba Son được thành lập vào thời điểm chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng cách mạng tháng Mười Nga chưa được phổ biến rộng rãi vào phong trào yêu nước. Bản thân lãnh tụ Tôn Đức Thắng lúc đó chưa phải là Đảng viên cộng sản, mà mới chịu ảnh hưởng của phong trào công nhân, công đoàn Pháp, về.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> mặt thời gian thì công hội Ba Son chỉ tồn tại đến cuối năm 1925. Các nhân vật lãnh đạo của công hội Ba Son, trong đó có lãnh tụ Tôn Đức Thắng đã gia nhập Tổ Chức Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên vào đầu năm 1926. Do vậy công hội Ba Son chỉ có thể xem là một tổ chức tiền thân của công đoàn cách mạng Việt Nam. Song, Công hội này tồn tại trong thời gian ngắn và chưa có chính cương, điều lệ. Từ năm 1925 đến 1928, nhiều Công hội bí mật đã hình thành do sự hoạt động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đặc biệt từ năm 1928, khi kỳ bộ Bắc kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương thực hiện "Vô sản hoá" thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, thúc đẩy sự phát triển của tổ chức công hội lên một bước mới cả về hình thức và nội dung hoạt động. Năm 1929 là thời điểm phong trào công nhân và hoạt động công hội ở nước ta phát triển sôi nổi nhất, đặc biệt là ở miền Bắc. Các cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra liên tục ở nhiều xí nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành động giữa các cuộc đấu tranh ở xí nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa phương và giữa địa phương này với địa phương khác trong toàn xứ. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và tổ chức công hội đòi hỏi phải có một tổ chức Mác xít, một Đảng thực sự Cách mạng của giai cấp công nhân có khả năng tập hợp, lãnh đạo công nhân đấu tranh giành độc lập tự do. Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. Tiếp đến, ngày 17/6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng ra đời. Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ chức Công hội đỏ, Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng quyết định triệu tập đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28/7/1929, tại số nhà 15 phố Hàng Nón – Hà Nội. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là người đứng đầu Ban Chấp hành lâm thời Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ. Sự kiện thành lập Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể Cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo công nhân lao động. Cụ thể: Thứ nhất, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ do Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập vào ngày 28 tháng 7 năm 1929 tại số nhà 15, phố Hàng Nón, Hà Nội. Đông Dương Cộng sản Đảng là 1 trong 3 tổ chức cộng sản được thành lập đầu tiên tại Việt Nam. Đông dương cộng sản Đảng lúc thành lập có phạm vi ảnh hưởng trên cả nước, có số lượng Đảng viên chiếm gần 2/3 tổng số Đảng viên lúc đó và hoạt động mạnh mẽ ở khu vực Bắc Kỳ, trung tâm cách mạng của cả nước. Đường lối, quan.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> điểm và sự chỉ đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng được quán triệt sâu sắc, đầy đủ trong hoạt động của Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ. Khi thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã thông qua Cương lĩnh, Điều lệ hoạt động, bầu Ban chấp hành do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đứng đầu và thành lập cơ quan ngôn luận là báo Lao Động, tạp chí Công Hội Đỏ. Cho nên, ngay từ đầu, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã thể hiện tính chính trị, tính Đảng và tính giai cấp của một tổ chức công đoàn cách mạng của giai cấp công nhân. Thứ hai là, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã thể hiện được vị trí, vai trò, phạm vi ảnh hưởng đối với phong trào công nhân Việt Nam ngay sau khi vừa mới ra đời. Cho dù về danh nghĩa mang tên là Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ, nhưng hoạt động của tổ chức này đã vượt qua ranh giới đó, đã khắc phục những hạn chế về địa phương, khu vực. Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã chủ trương xây dựng cơ sở công hội, phát huy thế lực trên phạm vi cả nướcẳ Nhiều thành viên của Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ như Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Lê Văn Lương,... và nhất là Nguyễn Đức Cảnh đã lần lượt vào Nam Kỳ và Trung Kỳ hoạt động. Do ảnh hưởng của Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ mà sau đó nhiều tổ chức công hội ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và ở nhiều tỉnh thành phố đã được thành lập, đưa số đoàn viên công hội đến tháng Giêng năm 1930 lên gần 1 vạn người. Thời điểm đó Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đang gánh vác tránh nhiệm là một tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân trên phạm vi cả nước. Hoạt động của tổ chức này đã góp phần quan trọng vào sự ra đời của Đảng, trên cơ sở thống nhất ba tố chức Cộng sản ở Việt Nam vào ngày mùng 3 tháng 2 năm 1930. Thứ ba là, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã thể hiện được tính liên tục về tổ chức và thời gian hoạt động từ khi thành lập cho đến ngày nay. Trải qua tiến trình lịch sử phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Việt Nam, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ được kế thừa, phát triển liên tục về tổ chức và tư tưởng. Trong 15 năm vận động giành chính quyền (1930- 1945). Từ Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ, Công đoàn Việt Nam đã lần lượt có các tổ chức mang những tên gọi khác nhau như: Công hội đỏ Việt Nam (1930- 1935); Nghiệp đoàn Ái hữu (1936- 1939); Hội công nhân phản đế (1939- 1941); và Hội công nhân cứu quốc (1941- 1946). Những tổ chức và tên gọi của Công đoàn Việt Nam trong từng giai đoạn, đã phản ánh tính liên tục về mặt thời gian và sự phát triển về mặt tổ chức của Công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuối cùng trên phạm vi quốc tế thì sự ra đời của Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã đánh dấu sự hội nhập của phong trào công nhân Việt Nam với phong trào công nhân, công đoàn quốc tế, đã thu hút sự chú ý của Quốc tế Công Hội Đỏ và của Đảng cộng sản Pháp. Chào mừng sự kiện này, báo Nhân Đạo cơ quan trung ương của Đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 7 tháng 12 năm 1929 đã viết: “Những người lao động Pháp chào mừng sự ra đời của phong trào công đoàn và cộng sản ở những nước thuộc địa Viên Đông. Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, sự áp bức thuộc địa, sự khủng bố tàn khốc, để đòi giải phóng những người bị kết án tử hình, những người anh em này sẽ tìm thấy ở giai cấp công nhân Pháp đứng bên cạnh trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung”..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Chính vì ý nghĩa đó, theo đề nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ chính trị TW Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày 28/7/1929 là ngày truyền thống của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Một số sự kiện, nhân vật về tổ chức Công đoàn Việt Nam từ ngày đầu thành lập đến nay: * Tổ chức Công đoàn thời kỳ sơ khai:. Người Việt Nam đầu tiên gia nhập Công đoàn là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Người gia nhập CĐ Kim khí, Quận 17 Pa- ri - Pháp năm 1919. Đ/c Nguyễn Ái Quốc. Tổ chức Công đoàn sơ khai đầu tiên ở Việt Nam được hình thành vào những năm 1919 - 1925 tại xưởng Ba Son - Sài Gòn, do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập Đ/c Tôn Đức Thắng Ngày 28-7-1929, tại số nhà 15 phố Hàng Nón - Hà Nội đã tiến hành Đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ.. Tham dự Đại hội này có đại biểu của Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, khu mỏ Đông Triều, Mạo Khê... Đại hội đã bầu Ban chấp hành lâm thời Tổng Công hội Đỏ do đ/c Nguyễn Đức Cảnh, uỷ viên Ban chấp hành Đông Dương Cộng sản Đảng lãnh đạo. Đ/c Nguyễn Đức Cảnh.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> * Chân dung các Chủ tịch Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ. Đ/c TÔN ĐỨC THẮNG Người sáng lập tổ chức Công hội Đỏ Ba Son, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam các khoá I, III. Đ/c NGUYỄN ĐỨC CẢNH Uỷ viên Trung ương Đông Dương Cộng sản Đảng, Chủ tịch Công hội Đỏ Bắc kỳ. Đ/c HOÀNG QUỐC VIỆT Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam các khoá I,II,III.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Đ/c NGUYỄN VĂN LINH Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam khoá IV. Đ/c NGUYỄN ĐỨC THUẬN Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam khoá V. Đ/c PHẠM THẾ DUYỆT Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam V.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Đ/c NGUYỄN VĂN TƯ UV Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá VI, VII. Đ/c CÙ THỊ HẬU UV Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá VIII,IX. Đ/c ĐẶNG NGỌC TÙNG UV Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam các khoá IX,X.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Câu 2: Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI đã xác định phương hướng, nhiệm vụ. Anh (Chị) tâm đắc với nhiệm vụ nào? Vì sao? Trả lời Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI xác định 8 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Một là, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động. Hai là, tuyên truyền, vận động, giáo dục đoàn viên và người lao động về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chủ trương công tác công đoàn. Ba là, tổ chức phong trào thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Bốn là, phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; nâng cao chất lượng và hiệu quả của đội ngũ cán bộ công đoàn. Năm là, công tác nữ công. Sáu là, công tác đối ngoại. Bảy là, công tác kiểm tra và hoạt động của Ủy ban kiểm tra. Tám là, công tác tài chính và hoạt động kinh tế công đoàn. Trong 8 nhiệm vụ trên, tôi tâm đắc nhất nhiệm vụ thứ nhất “chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động”. Không phải ngẫu nhiên mà nó được đưa lên làm nhiệm vụ hàng đầu. Thời nào cũng vậy, “có thực mới vực được đạo”, trước khi thực hiện bất kì một trách nhiệm nào, cái bụng phải no và ấm. Vì vậy, bảo vệ quyền lợi thiết thực cho CB-GVCNV sẽ là cơ sở để mọi cá nhân trong một tổ chức yên tâm cống hiến hết mình vì sự tiến bộ. Bởi vì từ trước tới nay, các văn bản của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28.1.2008 của Ban Chấp hành T.Ư Đảng (khoá X), kết luận số 09-KL/TW ngày 16.9.2011 của Bộ Chính trị, Bộ luật Lao động hiện hành, Luật CĐ hiện hành và các văn bản pháp luật khác đều quy định CĐ có chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho NLĐ và trong thực tế Tổng LĐLĐVN và các cấp Công đoàn đã và đang thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho CNVCLĐ. Mặt khác, về lý luận, chức năng đại diện là chức năng bẩm sinh của Công đoàn. Công đoàn sinh ra là để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho NLĐ. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân - giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Công đoàn không chỉ là tổ chức có chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NLĐ, mà còn phải đồng thời cùng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> với cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần phải kiên định quan điểm của Đảng và lập trường của giai cấp công nhân, kế thừa khái niệm Công đoàn hiện hành và khẳng định Công đoàn là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho NLĐ. Chính vì vậy, chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNCCVC và NLĐ là một trong các chức năng quan trọng của tổ chức Công đoàn.. Cùng tham gia tổ chức Hội nghị người lao động là một trong các phương pháp để chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động. Câu 3: Anh (Chị) quan tâm nhất là chức năng nào của tổ chức Công đoàn Việt Nam? Vì sao? Trả lời * Công đoàn Việt Nam có ba chức năng: - Đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động; - Tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; - Giáo dục, động viên, công nhân, viên chức, lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, đan xen tương tác lẫn nhau. Trong đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> mang ý nghĩa trung tâm - mục tiêu hoạt động công đoàn. Từ các chức năng này sẽ định ra các nhiệm vụ cụ thể của Công đoàn. Nếu gia đình là tế bào của xã hội thì cá nhân là tế bào của mỗi cơ quan. Mỗi tế bào có khỏe mạnh thì cơ thể mới phát triển tốt. Vì vậy, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi cá nhân trong cơ quan chính là tiền đề cho mọi cá nhân nỗ lực phấn đấu, làm tốt chức trách của mình. Vì lý do đó nên tôi quan tâm nhất là chức năng thứ nhất. Bởi vì: Chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVC, LĐ là quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn đối với CNVC, LĐ đó được ghi trong Điều 10 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 (Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc); Điều 1 Luật CĐ năm 2012 (Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa) và Điều 188 Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2012 (Vai trò của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động 1. Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động; tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động; đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. 2. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ sở thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại khoản 1 Điều này; tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết về pháp luật về lao động, pháp luật về công đoàn cho người lao động. 3. Ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1 Điều này..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 4. Tổ chức công đoàn các cấp tham gia với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và tổ chức đại diện người sử dụng lao động để trao đổi, giải quyết các vấn đề về lao động).. Cán bộ Công đoàn tặng quà cho người lao động nhân các dịp lễ, tết, … Đây còn là mong muốn, nguyện vọng của CNVC, LĐ; là chức năng số 1 của tổ chức Công đoàn. Vì Công đoàn chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVC, LĐ mà người lao động tham gia tổ chức Công đoàn. Nó là vấn đề xuyên suốt của hoạt động Công đoàn, các chức năng khác, nhiệm vụ khác xoay quanh vấn đề này. Câu 4: Anh (chị) hãy trình bày sự ra đời của tổ chức Công đoàn tỉnh Đắk Lắk và ý nghĩa của sự kiện này? Trả lời: a. Sự hình thành tổ chức công đoàn trong tỉnh giai đoạn trước năm 1975 Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng vào Bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu chính thức xâm lược Việt Nam. Quá trình thực dân Pháp xâm chiếm, thiết lập bộ máy thống trị, tiến hành khai thác vùng đất Đắk Lắk, lập các đồn điền cao su và cà-phê, xây dựng những cơ sở hạ tầng như giao thông, các công sở, dinh thự, đồn bốt, trường học, nhà thương, công trình điện nước... Theo đó, những bộ phận công nhân ngành giao thông vận tải, công nhân xây dựng, công nhân bưu điện ra đời đầu tiên ở Đắk Lắk vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với thành phần ban đầu là công nhân chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp hoặc công nhân công nhật. Cùng với công nhân ngành giao thông công chính, đội ngũ công chức cũng được hình thành với lực lượng lúc đầu chủ yếu là người Kinh, thuộc các tỉnh Trung kỳ được điều động, bổ nhiệm lên. Lực lượng công nhân đồn điền ra đời khoảng từ.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> năm 1923, và số lượng tăng nhanh cùng với việc các đồn điền được hình thành hàng loạt, thu hút nhiều nhân công. Năm 1925, có khoảng hơn 1.000 công nhân chuyên nghiệp và hàng nghìn công nhân thời vụ, những năm 1941 - 1942 đã có tới 7.000 công nhân thường trực làm việc trên các đồn điền lớn; đến năm 1946 có trên 1 vạn công nhân chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp; năm 1975, lực lượng công nhân Đắk Lắk đã lên đến 1,5 vạn người. - Về tổ chức Công đoàn: theo tài liệu ''Lịch sử phong trào công nhân, công đoàn tỉnh Đắk Lắk'' xuất bản năm 1997, tổ chức Công đoàn tỉnh Đắk Lắk đã hình thành từ những năm 1971 - 1972, phong trào công nhân toàn tỉnh đã có những bước phát triển mới. Tại các đồn điền, ta đã xây dựng được 3 chi bộ dự bị với 9 đảng viên ( chủ yếu là đảng viên dự bị), kết nạp được 15 đoàn viên Công đoàn giải phóng, lập 3 đội bảo vệ đấu tranh của công nhân, 4 Ban đại diện công nhân. Ban Công vận tỉnh đã có đảng viên và cốt cán phụ trách công tác Công vận ở 11 đồn điền, có cơ sở ở 26 đồn điền, có mối liên lạc với 15 đồn điền khác. Trong đó, đã nắm chắc 37 cơ sở với 608 công nhân, 451 lao động chính. Đến tháng 6/1972, Ban công vận tỉnh đã có chi bộ gồm 6 đảng viên, có 40 đoàn viên công đoàn ở vùng địch kiểm soát. Đến đầu năm 1974, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có khoảng 27 - 28 CĐCS tập trung chủ yếu ở một số đồn điền cà phê, cao su như: Đồn điền Đê-ki-pha-nô (có một công đoàn cơ sở, 18 đoàn viên), đồn điền Tôn Thất Thuyết ( một công đoàn cơ sở, 4 đoàn viên), đồn điền Tôn Trọng Sửu (có một đảng viên, một công đoàn cơ sở 13 đoàn viên), đồn điền Đặng Thanh An (có một công đoàn cơ sở, 4 đoàn viên), đồn điền Mỹ Cảnh, đồn điền Ba Tư, đồn điền Dương Văn Minh... Như vậy, trước năm 1975, chưa có tổ chức CĐ cấp trên như CĐ huyện, thị xã, CĐ ngành, công đoàn tỉnh mà chỉ có một số công đoàn cơ sở. b. Giai đoạn 1975 - 1976. - Sau chiến thắng 10/3/1975, Đắk Lắk được hoàn toàn giải phóng. Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung xây dựng hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, tập trung xây dựng kinh tế - xã hội, ổn định an ninh - quốc phòng, chăm lo đời sống cho công nhân và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. - Về tổ chức Công đoàn, đẩy mạnh công tác Công vận và nhanh chóng tập hợp lực lượng công nhân lao động, Khu uỷ khu V đã thành lập các đoàn công tác, trong đó có cả cán bộ Công vận tăng cường cho các tỉnh trong khu. - Tại Đắk Lắk, bộ phận cán bộ Công vận của tỉnh đầu tiên vào thị xã có các đồng chí A Ma Nga, Lê Tấn Toà, Nguyễn Tuấn Sang .... và làm việc tại nhà số 80 phố Quang Trung. Sau đó Tỉnh uỷ đã kiện toàn Ban Công vận tỉnh gồm đồng chí Đỗ Việt Thanh (Trưởng Ban), Trần Anh Tuấn, Nguyễn Tới (Uỷ viên) và các cán.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> bộ như Y Sai, Bùi Tuấn Sang, Trần Văn, Nguyễn Thị Bính, Nguyễn Thị Sâm.... Ngôi nhà số 07 Phan Chu Trinh được giao làm trụ sở công đoàn, khu nhà đồn điền cây số 3 giao cho Công đoàn làm Nhà nghỉ cho cán bộ công nhân viên. Nhiệm vụ lúc bấy giờ của Công đoàn Đắk Lắk được Tỉnh uỷ xác định là: Tập hợp công nhân, viên chức, trước hết là công nhân viên chức các ngành điện, nước, giao thông vận tải để phục vụ nhiệm vụ ổn định tình hình trước mắt, khắc phục hậu quả chiến tranh trong các thị xã, thị trấn, khu dân cư và phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh. - Ngày 12/7/1975, được sự chỉ đạo của Khu uỷ khu V và Công đoàn giải phóng khu V, Tỉnh uỷ Đắk Lắk đã ra Quyết định số 10/QĐ/TU về việc thành lập B " an vận động thành lập Công đoàn tỉnh Đắk Lắk" trên cơ sở tổ chức của Ban Công vận tỉnh và Công đoàn giải phóng. Kể từ khi thành lập đến tháng 12/1976, toàn tỉnh đã xây dựng được 7 công đoàn ngành, 6 công đoàn huyện, thị xã, 86 công đoàn cơ sở với 3.600 đoàn viên công đoàn. Các kỳ Đại hội Công đoàn tỉnh Đắk Lắk: Với sự phát triển của đội ngũ CNVC LĐ và các cấp công đoàn trong tỉnh, để khẳng định vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị-xã hội, đồng thời đảm bảo nguyên tắc về mặt tổ chức, thể hiện quyền dân chủ của đoàn viên và tổ chức công đoàn các cấp trong việc kiện toàn, xây dựng bộ máy Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn tỉnh trong giai đoạn cách mạng mới thay cho Ban chấp hành lâm thời do Tổng Công đoàn Việt Nam chỉ định. Tỉnh uỷ Đắk Lắk và Tổng Công đoàn Việt Nam đã chỉ đạo Ban chấp hành lâm thời Liên hiệp Công đoàn tỉnh tổ chức Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ Nhất. - Đại hội đại biểu Liên hiệp công đoàn tỉnh Đắk Lắk lần thứ I, nhiệm kỳ 1977 – 1981: Diễn ra trong các ngày từ 12 - 15 tháng 7 năm 1977 tại thị xã Buôn Ma Thuột. Dự Đại hội có 223 đại biểu chính thức thay mặt cho 6.690 đoàn viên công đoàn và 17.000 công nhân viên chức toàn tỉnh. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn tỉnh khóa I gồm 47 đồng chí. Đồng chí Đỗ Việt Thanh được bầu làm Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh, đồng chí Trần Anh Tuấn, Nguyễn Tới được bầu làm Phó Thư ký. Đại hội đã đánh giá tình hình phong trào công nhân và công đoàn Đắk Lắk lúc bấy giờ và đặt ra nhiệm vụ, mục tiêu của phong trào công nhân viên chức lao động và tổ chức Công đoàn Đắk Lắk nhiệm kỳ 1977-1981. Đại hội đại biểu lần thứ nhất công đoàn Đắk Lắk là sự kiện chính trị quan trọng đánh dấu bước trưởng thành về mặt tổ chức của công đoàn và phong trào công nhân viên chức trong tỉnh. - Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh lần thứ II: Diễn ra từ ngày 1112/3/1981. Dự Đại hội có 256 đại biểu chính thức đại diện 29.678 đoàn viên công đoàn thuộc 300 CĐCS và 45.100 CNVC, LĐ. Đại hội bầu BCH gồm 32 uỷ viên, trong đó Ban Thường vụ có 9 uỷ viên, Đồng chí AMa Zú ( tức Võ Ngọc Châu) uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ được bầu làm Thư ký Liên hiệp công đoàn tỉnh. Đại hội đã phát động phong trào “Công nhân viên chức thi đua phục vụ nông.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> nghiệp”. Mục tiêu Đại hội đề ra là: Phát huy quyền và trách nhiệm làm chủ tập thể, nêu cao ý thức tự lực tự cường, tổ chức phong trào thi đua của CNVC hoàn thành kế hoạch Nhà nước và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; chăm lo đời sống CNVC, xây dựng tổ chức, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đổi mới nếp nghĩ, nội dung và phương thức hoạt động công đoàn từ tỉnh xuống cơ sở. - Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh lần thứ III, nhiệm kỳ 1983 - 1988: Được tổ chức từ ngày 7-8/9/1983. Dự Đại hội có 243 đại biểu chính thức đại diện 39.000 đoàn viên công đoàn thuộc 361 CĐCS và 56.780 CNVCLĐ. Đại hội đã bầu BCH gồm 37 uỷ viên, Ban Thường vụ 9 uỷ viên. Đồng chí Nguyễn Đình Cư - Tỉnh uỷ viên, được bầu làm Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh. Phong trào thi đua sôi nổi nhất trong thời kỳ này là phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nhằm khắc phục thiếu thốn vật tư, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu để duy trì và đẩy mạnh sản xuất. Mục tiêu Đại hội đề ra là: Giáo dục CNVC nhận thức ý nghĩa quan trọng của sản xuất nông nghiệp; thực hiện tốt chế độ chính sách đối với CNVC, nhất là công nhân sản xuất nông nghiệp; chống tiêu cực, bảo vệ sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Ngày 25/11/1986, tại Hội nghị Ban Chấp hành bất thường (Khoá III), Đồng chí Hà Ngọc Đào, Tỉnh uỷ viên, Phó Giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo được Hội nghị bầu làm Thư ký, thay cho Đồng chí Nguyễn Đình Cư được chuyển công tác sang Ban Kinh tế Tỉnh uỷ. - Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh lần thứ IV, nhiệm kỳ 1988 - 1993: được diễn ra từ ngày 8-9/10/1988. Dự Đại hội có 250 đại biểu chính thức đại diện 60.000 đoàn viên công đoàn thuộc 628 CĐCS và 112.770 CNVC LĐ. Đại hội bầu Ban chấp hành khoá IV gồm 40 uỷ viên, trong đó Ban Thường vụ có 9 uỷ viên. Đồng chí Mai Văn Năm, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ được bầu làm Thư ký (Sau Đại hội VI Công đoàn Việt Nam tháng 10/1988, được gọi là Chủ tịch; Liên hiệp công đoàn tỉnh cũng được đổi tên thành Liên đoàn Lao động tỉnh). Phong trào thi đua nổi bật trong thời kỳ 1988-1993 là “Động viên công nhân viên chức phát huy quyền làm chủ và đi đầu trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý”. Mục tiêu Đại hội đề ra là: Phát huy quyền làm chủ và đi đầu trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh; chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của CNVC; thực hiện thắng lợi các cuộc vận động lớn của Đảng; nâng cao cảnh giác, chống mọi âm mưu phá hoại của địch, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngày 20/1/1992, Hội nghị Ban Chấp hành khoá IV, lần thứ IV đã bầu đồng chí Lê Thân làm Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh thay đồng chí Mai Văn Năm chuyển công tác khác. - Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh lần thứ V, nhiệm kỳ 1993-1998 : được tổ chức từ ngày 26-27/5/1993. Dự Đại hội có 250 đại biểu chính thức đại diện 69.816 đoàn viên công đoàn thuộc 723 CĐCS và 74.500 CNVCLĐ. Đại hội bầu BCH gồm 35 uỷ viên, trong đó Ban Thường vụ 7 uỷ viên. Đồng chí Lê Thân, Tỉnh uỷ viên được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh. Phong trào thi đua nổi bật trong thời kỳ 1993-1998 là “Phong trào thi đua lao động giỏi’’. Mục tiêu Đại hội.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> đề ra là: Hướng dẫn cho CNLĐ hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu chính đáng, hợp pháp của CNLĐ, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới. - Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 1998 - 2003: Được tổ chức từ ngày 2-3/7/1998. Dự Đại hội có 250 đại biểu chính thức đại diện 80.000 đoàn viên công đoàn thuộc 1.158 CĐCS và 83.116 CNVCLĐ. Đại hội bầu BCH gồm 35 Uỷ viên, Ban Thường vụ 9 uỷ viên. Đồng chí Nguyễn Văn Sự - Tỉnh uỷ viên được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh. Mục tiêu Đại hội đề ra là: V " ì sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, vì tương lai phát triển vững chắc của tỉnh nhà, vì việc làm, đời sống và quyền dân chủ của CNVC-LĐ, xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững mạnh". - Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2003 - 2008: Diễn ra từ ngày 25 -27/6/2003. Dự Đại hội có 242 đại biểu chính thức đại diện cho gần 100 ngàn đoàn viên công đoàn và CNVCLĐ. Đại hội bầu BCH gồm 37 uỷ viên, Ban Thường vụ 11 uỷ viên. Đồng chí Đinh Kim Anh - Tỉnh uỷ viên được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh. Mục tiêu của nhiệm kỳ này là: "CĐ chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức CĐ trong các thành kinh tế, xây dựng đội ngũ cán bộ CĐ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; phát động các phong trào hành động cách mạng thiết thực, hiệu quả trong CNVC, LĐ; góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và đảm bảo an ninh quốc phòng của tỉnh". Năm 2007, được sự nhất trí của Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn, Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh đã quyết định lấy ngày 27-01-1977 (ngày thành lập BCH lâm thời LHCĐ tỉnh) làm Ngày thành lập Công đoàn tỉnh Đắk Lắk. - Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2008 - 2013: Được tổ chức từ ngày 06 -07/5/2008. Tham dự, có 233 đại biểu chính thức đại diện cho trên 85 ngàn CNVCLĐ của tỉnh. Đại hội đã bầu BCH gồm 35 uỷ viên, Ban Thường vụ 11 uỷ viên. Đồng chí Đinh Kim Anh, Tỉnh uỷ viên được bầu làm Chủ tịch. Đại hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết của nhiệm kỳ với Khẩu hiệu hành động: V " ì quyền, lợi ích người lao động, vì sự phát triển bền vững của tỉnh Đắk Lắk, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh”. Mục tiêu phương hướng tổng quát: “Tập trung chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ; tham gia quản lý, phát huy dân chủ cơ sở; tăng cường các hoạt động tương trợ trong CNVCLĐ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và đào tạo nghề cho công nhân; tích cự xây dựng, phát triển tổ chức công đoàn, xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan và doanh nghiệp vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh”. Ngày 25/11/2010, Hội nghị Ban Chấp hành khoá VIII, kỳ họp bất thường đã bầu đồng chí Y Khút Niê làm Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh khoá VIII, thay đồng chí Đinh Kim Anh nghỉ hưu..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> -. Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2013 - 2018 diễn ra từ ngày 19 - 21/3/2013 tại thành phố Buôn Ma Thuột.. Trao nhà ”Mái ấm công đoàn”, một việc làm thiết thực của Công đoàn ĐăkLăk Câu 5: Tại Đại hội Công đoàn tỉnh Đắk Lắk lần thứ IX (nhiệm kỳ 2013 – 2018) diễn ra từ ngày 19 – 21/3/2013 đã quyết định những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của các cấp công đoàn trong nhiệm kỳ 2013 - 2018. Anh (chị) hãy nêu tóm tắt những nhiệm vụ, giải pháp đó? Trả lời: - Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2013 - 2018 diễn ra từ ngày 19 - 21/3/2013 tại thành phố Buôn Ma Thuột. Dự Đại hội có 211 đại biểu chính thức đại diện cho trên 100 ngàn CNVC LĐ của tỉnh. Đại hội đã bầu BCH gồm 38 uỷ viên, Ban Thường vụ 12 uỷ viên. Đồng chí Y Khút Niê, Tỉnh uỷ viên được bầu làm Chủ tịch. Đại hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết của nhiệm kỳ với Khẩu hiệu hành động: “Tiếp tục đổi mới hoạt động công đoàn; vì quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự ổn định và phát triển bền vững của tỉnh Đắk Lắk”. Hoạt động công đoàn và Phong trào CNVCLĐ tỉnh Đắk Lắk sẽ tập trung vào 7 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm chủ yếu: 1. Thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> 2. Tuyên truyền, giáo dục, vận động đoàn viên và người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững - an ninh quốc phòng của tỉnh. 3. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động. 4. Phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh. 5. Công tác vận động nữ công nhân viên chức lao động. 6. Công tác kiểm tra. 7. Công tác tài chính và hoạt động kinh tế công đoàn. để thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của giai cấp công nhân, xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh. Làm tốt công tác giáo dục chính trị - tư tưởng xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ công nhân - viên chức thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong các phong trào hành động cách mạng; quan tâm phát triển tổ chức CĐ. Thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo trong công nhân, viên chức, đội ngũ trí thức và người lao động. Đồng thời tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu”. Nhiệm kỳ IX (2013-2018) Đại hội xác định các chỉ tiêu phấn đấu cơ bản như sau: kết nạp mới ít nhất 10.000 đoàn viên và thành lập mới từ 150 công đoàn cơ sở (CĐCS) trở lên; 90% trở lên cán bộ chuyên trách công đoàn được đào tạo đại học chuyên môn nghiệp vụ; 100% cán bộ công đoàn được bồi dưỡng nghiệp vụ; đến cuối nhiệm kỳ có 90% trở lên trên tổng số CĐCS có Quỹ “Đoàn kết tương trợ” với số dư trên 25 tỷ đồng; vận động hỗ trợ, xây dựng mới và sửa chữa từ 400 nhà “Mái ấm công đoàn” trở lên; 85% trở lên CĐCS đạt vững mạnh và vững mạnh xuất sắc; 100% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có tổ chức công đoàn đạt Chuẩn văn hóa…. Ban Chấp hành LĐLĐ tỉnh khóa IX ra mắt nhận nhiệm vụ mới.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> * Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: a/ Tổ chức triển khai học tập, quán triệt nghị quyết gắn với công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. - Xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI và Công đoàn tỉnh ĐăkLăk lần thứ IX đến đội ngũ cán bộ chủ chốt của các Liên đoàn Lao động huyện, thành phố, Công đoàn ngành và tương đương, CĐCS trực thuộc và các ban, đơn vị trực thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh. - Chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Công đoàn triển khai Nghị quyết Đại hội đến cán bộ công đoàn, đoàn viên và người lao động theo hướng thiết thực, hiệu quả; trên cơ sở nắm vững nội dung của Nghị quyết gắn với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn, đề ra các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai thực hiện. - Quan tâm giáo dục, đào tạo, phát triển đội ngũ công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao nhận thức chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho đoàn viên và người lao động, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. - Tiếp tục triển khai có hiệu quả, thiết thực việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. b/ Chăm lo đời sống, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động. - Triển khai và xây dựng thực hiện tốt Chương trình “Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết và thực hiện có hiệu quả thỏa ước lao động tập thể”. - Tham gia với các cơ quan chức năng giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc trong công nhân như: việc làm, tiền lương, thu nhập, điều kiện làm việc, chế độ BHXH, BHYT, BHTN, nhà ở, nhà trẻ, thiết chế sinh hoạt văn hóa, ... - Bám sát cơ sở, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên và người lao động; tăng cường đối thoại, phối hợp chặt chẽ với người sử dụng lao động tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, Đại hội CNVC, hội nghị người lao động hàng năm bảo đảm thiết thực, hiệu quả; thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể với nhiều quy định có lợi cho người lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. - Đẩy mạnh hoạt động vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm và từ các nguồn khác; thành lập quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP); phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức các hội chợ việc làm. - Đẩy mạnh hoạt động xã hội, chương trình Mái ấm Công đoàn để hỗ trợ đoàn viên và người lao động có hoàn cảnh khó khăn, nhất là khó khăn về nhà ở. - Tích cực tham gia chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động ở doanh nghiệp, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, ngăn ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho CNLĐ..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Tăng cường công tác phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực pháp luật lao động, Luật Công đoàn, kiến nghị xử lý nghiêm, kịp thời những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động; đưa việc thi hành Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn vào nền nếp… c/ Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao kiến thức pháp luật, trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cho đoàn viên và người lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện tốt Chương trình “Nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của đoàn viên và người lao động”. - Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật cho đoàn viên và người lao động để nâng cao hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập quốc tế. - Đa dạng hóa các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục của các cấp Công đoàn, coi trọng hình thức tuyên truyền miệng, các hình thức tuyên truyền phù hợp với điều kiện sống và làm việc của đoàn viên và người lao động, nhất là ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước. - Sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng của tổ chức Công đoàn và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tuyên truyền của Đảng, Nhà nước để tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về nghị quyết, chủ trương công tác của Công đoàn. d/ Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động. - Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ, trọng tâm là các phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Thi đua xây dựng nông thôn mới”, “Thi đua học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển”, “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, “Xanh, sạch, đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, ... - Cải tiến, đổi mới nội dung, phương thức tổ chức, nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua, nhất là việc tổ chức, phát động phong trào thi đua trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có vấn đầu tư nước ngoài, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng. - Làm tốt công tác khen thưởng để động viên, khích lệ các tập thể, cá nhân tổ chức tốt, tích cực tham gia hưởng ứng các phong trào thi đua. e/ Đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, góp phần xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. - Xây dựng kế hoạch thực hiện hiệu quả Chương trình “Phát triển đoàn viên giai đoạn 2013 - 2018”; rà soát, nắm chắc tình hình doanh nghiệp và CNLĐ trong các loại hình doanh nghiệp, tăng cường công tác vận động thành lập CĐCS, phát triển đoàn viên ở các doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Xây dựng kế hoạch thực hiện hiệu quả Chương trình “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ công đoàn”. - Thực hiện tốt công tác quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn, nhất là cán bộ nữ, công nhân trẻ, cán bộ xuất thân từ công nhân trực tiếp lao động sản xuất. - Làm tốt trách nhiệm của Công đoàn trong việc bồi dưỡng, giới thiệu công nhân ưu tú, nhất là công nhân trực tiếp lao động sản xuất để Đảng xem xét kết nạp theo quy định của Điều lệ Đảng nhằm góp phần đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp. - Tiếp tục kiến nghị, tham gia với Tỉnh ủy, UBND tỉnh xây dựng cơ chế, chính sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng những cán bộ ưu tú xuất thân từ công nhân, góp phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. - Vận động cán bộ, công chức thực hiện tốt Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. g/ Công tác nữ công. - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Tổng Liên đoàn về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 2020; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em; Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. - Nâng cao chất lượng và hiệu quả phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” gắn với phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” do Hội LHPN Việt Nam phát động. - Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ nữ công và nâng cao chất lượng hoạt động của công tác nữ công và ban nữ công quần chúng của Công đoàn các cấp, nhất là ở cấp cơ sở. Giới thiệu nhiều cán bộ, đoàn viên, lao động nữ ưu tú, tiêu biểu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, Công đoàn để đào tạo, bồi dưỡng trở thành cán bộ lãnh đạo. - Tổ chức tốt cuộc vận động xây dựng và quản lý vốn “Vì nữ công nhân, viên chức lao động nghèo” góp phần hỗ trợ nữ CNVCLĐ phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo bền vững. h/ Công tác kiểm tra. Ban Chấp hành Công đoàn các cấp cần chú trọng công tác kiểm tra và hoạt động của UBKT, chú trọng kiểm tra thực hiện Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của Công đoàn. Ủy ban kiểm tra Công đoàn các cấp tham mưu giúp Ban Thường vụ Công đoàn các cấp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định của pháp luật và Điều lệ Công đoàn Việt Nam; khai thác các khoản thu khác để tăng nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi cho các hoạt động chủ yếu của Công đoàn. Quản lý chặt chẽ, thực hiện chi đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm. Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ tài chính cho cán bộ công đoàn các cấp, nhất là cấp cơ sở. g. Công tác tài chính và hoạt động kinh tế Công đoàn. Thực hiện đúng quy định của Luật Công đoàn năm 2012 và các Quyết định khác của Nhà nước và Tổng Liên đoàn về thu – chi, quản lý tài chính. Phối hợp với.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> cơ quan tài chính, thuế và thủ trưởng đơn vị thu đúng, đủ,kịp thời các khoản thutheo quy định của pháp luật, của Điều lệ và Luật Công đoàn. Khai thác triệt để các khoản thu khác để tăng nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi cho các hoạt động chủ yếu của Công đoàn. Quản lý chặt chẽ, chi đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm. Tăng cường công tác bồi dưỡng và tập huấn nghiệp vụ Công đoàn. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất thiết bị phục vụ hoạt động cũng như kiểm tra, giám sát khắc phục các hạn chế trong quản lý tài sản và hoạt động kinh tế Công đoàn. Câu 6: Theo Anh (chị) cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp của mình cần tập trung thực hiện những công việc gì để góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước? Vì sao? Trả lời: - Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, thường xuyên tổ chức đối thoại giữa chủ sử dụng lao động với người lao động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp. - Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chủ trương công tác công đoàn; giáo dục truyền thống cách mạng tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam, nêu cao tinh thần làm chủ đất nước trong quá trình CNH, HĐH. - Tham gia thanh tra giám sát chế độ, chính sách thực hiện lương, thưởng, ăn ca, BHXH, BHYT… của người sử dụng lao động đối với NLĐ. - Tham gia xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xây dựng lối sống lành mạnh trong CNLĐ. - Tích cực quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ công đoàn, CNLĐ; tổ chức ôn lý thuyết, luyện tay nghề, thi thợ giỏi, thi nâng bậc thường xuyên cho CNLĐ. - Quan tâm chăm lo đến đời sống, cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ, đặc biệt là những CNLĐ có nhiều khó khăn, CNLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… - Chủ động, tham gia tuyên truyền về chế độ, chính sách pháp luật cho người lao động; góp phần giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách trong công nhân, người lao động như: việc làm, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; xây dựng nhà ở, bệnh xá tại các khu công nghiệp, đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, khu vui chơi giải trí, nhà trẻ nơi có đông công nhân, người lao động làm việc; chăm lo công tác bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên công đoàn, công nhân ưu tú trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài cho Đảng xem xét, kết nạp..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Bởi vì trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nhu cầu về vật chất và tinh thần không ngừng nâng cao, nhu cầu vui chơi giải trí của công nhân viên chức lao động ngày càng lớn. Nên những giải pháp trên rất cần thiết cho việc xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Việc xây dựng đội ngũ gia cấp công nhân có vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc đổi mới và sự nghiệp cách mạng của đất nước; khẳng định vai trò, những đóng góp to lớn của đội ngũ CNVC- LĐ vào quá trình xây dựng, phát triển đất nước cũng như một số hạn chế yếu kém cần khắc phục. Nghị quyết nêu rõ quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Xây dựng giai cấp công nhân (CN) nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người CN và của toàn xã hội. Giai cấp CN VN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp. Giai cấp CN nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp CN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Câu 7: Anh (Chị) hãy viết một bài khoảng 1.500 từ cống hiến, đề xuất mô hình, đổi mới phương pháp hoạt động Công đoàn trong giai đoạn hiện nay hoặc những kỷ niệm sâu sắc hay những tấm gương tiêu biểu trong phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn? Bài làm: Tôi hiện đang là một Công chức ngành GD&ĐT, đã làm công việc giảng dạy cũng như quản lý của nhà trường với thời gian công tác đã hơn 13 năm; đồng thời tô cũng là một cán bộ công đoàn hơn 09 năm. Qua quá trình công tác và thực hiện nhiệm vụ Công đoàn, tôi nhận thấy tổ chức Công đoàn thật sự là tổ ấm của mỗi đoàn viên trong tổ chức công đoàn, những buồn,vui được chia sẻ cùng nhau, công đoàn cũn là một tổ chức thiết thực bảo vệ quyền lợi chớnh đáng hợp pháp cho đoàn viên công đoàn trong đơn vị, đồng thời là tổ chức sinh hoạt, hoạt động nâng cao nhận thức về chính trị xã hội, văn hóa cho người lao động. Muốn có một tổ chức công đoàn vững mạnh thì tất cả đoàn viên phải đồng lòng, nhất trí cao. Công đoàn Việt Nam đã qui định tổ chức công đoàn phải hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hoạt động công đoàn là một hoạt động mang tính chất quần chúng rộng rãi. Vậy để xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh và hoạt động có hiệu quả thì phải có một ban chấp hành thực sự có năng lực, thường xuyên chăm lo xây dựng công đoàn cơ sở nơi đang công tác, để hoạt động của Công đoàn có những bước phát triển, ngày được vững mạnh hơn. Như chúng ta đã biết, tổ chức công đoàn có phát triển hay không được quyết định bởi chất lượng của hoạt động CĐCS đó, xây dựng CĐCS vững mạnh là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác của công đoàn ngành. Với kinh nghiệm của bản thân, tôi xin trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động CĐCS. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là luôn sáng tạo, đổi mới nội dung sinh hoạt của công đoàn như: Tại đại hội cán bộ công chức, viên chức hàng năm, ngày quốc tế phụ nữ 8/3; ngày 20/10,... Không chỉ tổng kết thi đua khen thưởng mà công đoàn còn lồng ghép vào đó là liên hoan văn nghệ, vui chơi có thưởng dưới dạng bốc thăm câu hỏi về pháp luật nhà nước, về truyền thống của công đoàn, về nội dung quy chế của cơ quan,... Với cách làm như vậy đoàn viên công đoàn phấn khởi tin tưởng vào công đoàn, cán bộ công đoàn có kinh nghiệm hoạt động để trưởng thành và nâng cao được vai trò của công đoàn trong đơn vị. Để thực hiện được chức năng của công đoàn trong đơn vị thì người cán bộ công đoàn cần phải chủ động, tích cực trong việc phối hợp với lãnh đạo cơ quan thực hiện quy chế dân chủ, Nghị định 71/CP; Nghị định 87/2007/NĐ-CP. Đây là giải pháp tích cực, tạo điều kiện để CĐCS hoạt động. Coi trọng việc xây dựng quy chế phối hợp giữa CĐCS và lãnh đạo cơ quan, lãnh đạo doanh nghiệp. Thực hiện.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> quy chế tức là lãnh đạo chuyên môn phải quan tâm tới công đoàn và ngược lại CĐCS tích cực chủ động trong việc tổ chức thực hiện . Bên cạnh đó tuỳ theo tình hình thực tế, hàng tháng có thể xây dựng nội dung sinh hoạt phù hợp. Điều cần chú ý, trong mỗi kỳ sinh hoạt, BCH công đoàn cần nắm bắt tâm tư nguyện vọng, tìm hiểu hoàn cảnh của CNVC, lao động, nhắc nhở đoàn viên thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, cải tiến lề lối làm việc, xây dựng nếp sống văn minh nơi công sở, nơi doanh nghiệp, chấp hành nghiêm túc kỷ luật, nội quy lao động, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, giảm chi phí hành chính, nâng cao hiệu quả công việc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nội dung sinh hoạt cần đề cập đến các vấn đề thiết thực như: quyền lợi cơ bản, hợp pháp chính đáng về: tiền lương, tiền thưởng, BHXH, BHYT, chế độ làm thêm giờ cho người lao động, quan tâm tới các biện pháp cải thiện việc làm, nâng cao đời sống, đào tạo, đề bạt, thi đua khen thưởng, khoán hành chính đối với cán bộ viên chức cơ quan. Để nâng cao vai trò chỉ đạo của công đoàn trong hoạt động của đơn vị thì CĐCS phải phối hợp với chuyên môn xây dựng quy chế phối hợp làm việc giữa công đoàn và chuyên môn. Trong đó quy định rõ ràng những mặt, những việc trong hoạt động của đơn vị mà cơ sở được quyền tham gia, quyết định và giám sát. Qua đó công đoàn mới kịp thời can thiệp, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động trong đơn vị. Bằng những việc làm như vậy người lao động thấy việc tham gia vào tổ chức và được sinh hoạt trong tổ chức công đoàn trong đơn vị là nguyện vọng, là mục tiêu phấn đấu của mỗi cán bộ nhân viên. Hàng kỳ sinh hoạt, CĐCS nên tập trung vào 1-2 nội dung cơ bản, không nên dàn trải nhiều hoặc rập khuôn cứng nhăc. Trong sinh hoạt lấy CNVC,LĐ làm trung tâm phát huy trí tuệ cá nhân thành sức mạnh tập thể. Đó là điều kiện cốt lõi trong nâng cao chất lượng sinh hoạt CĐCS. Trước khi tổ chức sinh hoạt, BCH công đoàn nhất thiết phải họp trước để bàn kỹ nội dung của cuộc họp, điều chỉnh linh hoạt rõ ràng. Trong sinh hoạt cần tạo bầu không khí cởi mở, dân chủ để đoàn viên gắn bó với tổ chức công đoàn. Có như vậy, công đoàn cơ sở mới phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho cán bộ, đoàn viên. Ngoài ra cán bộ lãnh đạo công đoàn cần phải không ngừng học tâp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận, phương pháp giao tiếp, hiểu biết chính sách pháp luật. Trong công tác phải nhiệt tình sáng tạo để hướng CĐCS hoạt động sát với thực tế. Thực tế cho thấy, CĐCS nào có nội dung sinh hoạt đa dạng hấp dẫn thì công đoàn nơi đó có phong trào CNVC,LĐ sôi nổi, phong phú, tinh thần dân chủ được phát huy. Ngược lại những CĐCS tổ chức sinh hoạt lấy lệ qua loa đại khái, ít.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> người quan tâm bàn bạc, thảo luận nội sinh hoạt thì ở những nơi đó hoạt động công đoàn rất mờ nhạt, kém hiệu quả. Qua thực tiễn có thể rút ra mấy kinh nghiệm sau đây: Một là, luôn bám sát và vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và công đoàn cấp trên, cũng như nhiệm vụ chính trị của địa phương phù hợp với tình hình cụ thể của phong trào CNVCLĐ và hoạt động công đoàn của từng cấp. Hai là, các cấp công đoàn phải luôn quan tâm đến nhân tố xây dựng con người, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho CNLĐ, đồng thời có cơ chế bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân lao động, đáp ứng lợi ích thiết thực của người lao động; tập hợp đông đảo đoàn viên, CNLĐ gia nhập và tham gia hoạt động công đoàn. Ba là, phải hết sức coi trọng xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh, lấy địa bàn cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy CNLĐ làm đối tượng vận động chính, thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người lao động và chủ động tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở. Không ngừng xây dựng, củng cố tổ chức và đội ngũ cán bộ công đoàn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và kỹ năng công tác công đoàn, xây dựng đội ngũ cán bộ nhiệt tình, tâm huyết. Bốn là, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của cấp ủy đảng; sự phối hợp công tác của chính quyền, chuyên môn cùng cấp; sự phối hợp của các cấp, các ngành và các đoàn thể để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong hoạt động công đoàn. Đặc biệt trong giai đoạn tình hình phức tạp trên thế giới, đặc biệt tình hình Biển Đông trong gần hai tháng trở lại đây; Công đoàn cần là cầu nối yêu nước, là tổ chức thực hiện tốt công tác đoàn kết trong cơ quan đơn vị, trong khu dân cư,… để cùng chung tay “Hướng về Trường Sa, Hoàng Sa thân yêu”, tránh tình trạng bạo động, phá hoại tài sản các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Khu công nghiệp Vũng Áng gây mất trật tự an ninh, ảnh hưởng tới việc đầu tư hợp tác cũng như công ăn việc làm của CNLĐ..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> “Hướng về Biển Đông”, một việc làm thiết thực của Công đoàn để bảo vệ biển đảo quê hương Qua cuộc thi này, bản thân tôi đã hiểu biết về lịch sử của Công đoàn Việt Nam, nhận thấy hoạt động công đoàn là một hoạt động mang tính chất quần chúng rộng rãi, là tổ chức bảo vệ, phục vụ lợi ích chính đáng hợp pháp cho người lao động. Do đó, trong thời gian tới tôi và các công đoàn viên ở các đơn vị trường học sẽ cùng chung tay góp sức để xây dựng công đoàn ở cơ sở nói riêng và công đoàn Việt Nam nói chung ngày càng vững mạnh hơn. Krông Bông, ngày 15 tháng 6 năm 2014 NGƯỜI DỰ THI. Hà Như Thịnh.

<span class='text_page_counter'>(27)</span>

×