Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Xây dựng chương trình đào tạo liên thông lên cao đẳng chuyên nghiệp ngành công nghệ kỹ thuật điện cho học sinh trung cấp nghề điện công nghiệp tại trường cao đẳng cơ điện và nông nghiệp nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 111 trang )

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1

Lý do chọn đề tài
Hiện nay, với xu thế đổi mới công nghệ diễn ra liên tục, việc áp dụng công

nghệ mới trong lao động và sản xuất là điều tất yếu của một xã hội phát triển hiện
nay. Với xu thế đó, giáo dục đào tạo cũng phải liên tục cập nhật và đa dạng hóa
thơng tin, phát triển kịp thời để đáp ứng với sự phát triển của khoa học công nghệ.
Đảng và Nhà nước luôn đặt giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu. Mặc dù trong
những thập niên qua nền giáo dục của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
góp phần vào sự nghiệp phát triển của nước nhà bên cạnh những thành tựu đó nền
giáo dục vẫn cịn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập nhất là đào tạo nguồn nhân lực để
đáp ứng nhu cầu xã hội, đáp ứng sự nghiệp cơng nghiệp hố – hiện đại hoá đất nước
hiện nay. Đặc biệt, trong giai đoạn vừa qua hệ thống giáo dục nghề nghiệp Việt Nam
chưa phát huy hết cơ hội, điều kiện cho nguồn nhân lực tiếp tục học tập, học tập suốt
đời theo tiêu chí của ILO. Hệ thống đào tạo nghề chưa có được cơ hội học tập liên
thơng lên các chương trình cao hơn của hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Cơ hội cho
học sinh học nghề của hệ Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề vẫn còn bị cơ chế quản lý
tác động gây ra khơng ít hạn chế cho việc học tập nâng cao trình độ của người học.
Tuy nhiên, tháng 10/2010 thơng tin chính thức trên trang web của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội cũng như của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức thơng
qua quy chế liên thông giữa hệ Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề lên Cao đẳng, Đại
học (Thông tư số: 27/2010/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH, ngày 28 tháng 10 năm 2010
Hướng dẫn đào tạo liên thông từ trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề lên trình độ
cao đẳng và đại học).
Đánh giá cao tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, mục tiêu chiến lược
phát triển giáo dục trong giai đoạn 2001 – 2010, Đảng và Nhà nước đã xác định:
“Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình


độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam,... ; Ưu tiên nâng cao chất

1


lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực Khoa học - Cơng nghệ trình độ
cao, ... ; Đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục các cấp
bậc học và trình độ đào tạo; … vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng dạy học; đổi mới quản lý giáo dục...”[1]. Một trong những mục tiêu quan trọng của
chiến lược đó là “Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục”. Trong đó,
đối với giáo dục nghề nghiệp: “Xây dựng và ban hành danh mục ngành nghề đào
tạo, đổi mới và chuẩn hố nội dung chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo,
nâng cao kỹ năng thực hành, tự tạo việc làm, thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng
của cơng nghệ và thực tế sản xuất,...”
Đối với việc đào tạo các chun ngành nói chung, chương trình quyết định
đến chất lượng đào tạo. Việc xây dựng chương trình của ngành, nghề đào tạo phù
hợp với đối tượng đảm bảo được chất lượng nguồn nhân lực đồng thời tiết kiệm
được thời gian và kinh phí đào tạo cho người học và cho xã hội, nâng cao hiệu quả
trong việc đào tạo nguôn nhân lực. Chính vì vậy, để đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu xã hội, đáp ứng với sự thay đổi khoa học cơng nghệ thì chương trình
phải linh hoạt, khoa học, sát với thực tiễn đồng thời cũng phải được thường xuyên
cập nhật, chuẩn hoá nội dung, bổ sung sửa đổi phù hợp với điều kiện xã hội.
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều bộ chương trình khung được ban hành và
là cơ sở cho các cơ sở đào tạo ban hành các chương trình đào tạo của mình. Các bộ
chương trình khung hiện nay, tùy theo hệ do các cơ quan chủ quản khác nhau ban
hành: Hệ Giáo dục chuyên nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; hệ Giáo
dục nghề nghiệp do Bộ lao động, Thương binh và Xã hội ban hành. Do đó, một thực
trạng khó khăn hiện nay là sự liên thông chéo giữa các hệ này chưa thực hiện được,
điều này gây nhiều khó khăn cho việc học tập suốt đời của nhiều đối tượng tham gia
học tập. Thực tế chỉ mới hình thành được các bộ chương trình liên thông lên các bậc
học cao hơn trong cùng một hệ thống. Hiện nay, mới chỉ có được một vài bộ

chương trình thí điểm mới được xây dựng để làm cơ sở cho việc học liên thông từ
hệ Cao đẳng nghề lên Đại học ở một số ngành tại một số địa chỉ cụ thể (Chương
trình liên thơng từ Cao đẳng nghề lên Đại học ngành Công nghệ ô tô – Trường Đại

2


học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh,...). Cho nên, việc xây dựng thí điểm các
bộ chương trình khung liên thông giữa đào tạo nghề với đào tạo chuyên nghiệp là
một nhu cầu thực tiễn đặt ra nhằm tạo điều kiện cho người học tiếp cận khoa học
công nghệ một cách chính thống, cung cấp cho thị trường lao động nguồn nhân lực
phù hợp với thực tiễn lao động và thực tiễn doanh nghiệp.
Qua phân tích tình hình thực tiễn như ở trên, nhu cầu tiếp tục học tập để nâng
cao trình độ kiến thức về cơng nghệ thực tế là cấp thiết. Đồng thời, qua thực tiễn
tham gia giảng dạy tại Trường Cao Đẳng Cơ Điện và Nông nghiệp Nam bộ (tiền
thân là trường Dạy nghề Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam bộ (1997),
Trường Trung học cơ điện và KTNN Nam Bộ (2003)) trong thời gian vừa qua, nhà
trường đã đào tạo ra số lượng khá lớn cán bộ kỹ thuật có trình độ cơng nhân kỹ
thuật cho vùng đồng bằng sông Cửu long. Sau thời gian tham gia công tác tại các
doanh nghiệp, một lượng rất lớn người học có nhu cầu nâng cao trình độ chun
mơn nghiệp vụ với mục đích tiếp cận cơng nghệ mới trong sản xuất và tìm kiếm cơ
hội làm việc mới. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay là việc đào tạo liên thông
cho đối tượng là công nhân đang bị hạn chế bởi cơ chế đào tạo liên thông giữa Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Giáo dục Đào tạo chưa được thông nhất.
Chương trình giữa hai Bộ vẫn cịn khoảng cách. Xuất phát từ nhu cầu của người học
(thông qua việc thu thập số liệu hằng năm của trường); của các doanh nghiệp về nhu
cầu sử dụng khả năng, trình độ của người lao động; thực tiễn quản lý đào tạo nghề
Điện Công nghiệp, và ngành Công nghệ kỹ thuật điện hệ Cao đẳng, người nghiên
cứu thấy rằng:
-


Hiện nay, thực tế khách quan là chưa có một bộ chương trình khung

nào cho việc đào tạo liên thông từ Trung cấp nghề lên Cao đẳng chuyên nghiệp.
-

Chương trình đào tạo đang được giảng dạy cho nghề Điện Công nghiệp

hệ trung cấp nghề, hiện đang thực hiện tại trường Cao đẳng Cơ điện và Nông
nghiệp Nam Bộ dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội ban hành có thể tiếp cận được với Chương trình ngành Cơng nghệ kỹ
thuật điện hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.

3


-

Thực tế, nhu cầu học tập của nhiều công nhân kỹ thuật trong các khu

công nghiệp ở khu vực Đồng bằng sông Cửu long về việc nâng cao hiểu biết chuyên
sâu về nghề nghiệp là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, người nghiên cứu đă chọn đề tài nghiên cứu
“Xây dựng chương trình đào tạo liên thơng lên Cao đẳng chuyên nghiệp ngành
Công nghệ kỹ thuật điện cho học sinh Trung cấp nghề Điện công nghiệp tại trường
Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam Bộ” để thực hiện luận văn tốt nghiệp cao
học ngành Giáo dục học.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để xây dựng chương trình đào tạo liên thơng trình độ Cao đẳng
chun nghiệp ngành Công nghệ kỹ thuật điện cho đối tượng học sinh tốt nghiệp

Trung cấp nghề Điện công nghiệp tại trường Cao đẳng Cơ điện và Nơng nghiệp
Nam Bộ nhằm góp phần nâng cao chất lượng, trình độ kỹ thuật cho lực lượng lao
động trong khu vực Công nghiệp trên địa bàn Thành phố Cần Thơ cũng như các địa
phương khác trong khu vực Đồng bằng sông Cửu long.
1.3 Đối tượng và khách thể nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu: Chương trình đào tạo liên thơng từ trình độ Trung
cấp nghề Điện Công nghiệp lên bậc Cao đẳng chuyên nghiệp ngành Công nghệ Kỹ
thuật điện
1.3.2 Khách thể nghiên cứu: Nghề Điện Công nghiệp hệ Trung cấp nghề và ngành
Công nghệ kỹ thuật điện hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.
1.4. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu chương trình đào tạo liên thơng trình độ Cao đẳng chuyên nghiệp chuyên
ngành Công nghệ kỹ thuật điện cho học sinh đã tốt nghiệp Trung cấp nghề Điện
công nghiệp tại trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam Bộ được triển khai
sẽ đáp ứng được nguyện vọng nâng cao trình độ, kỹ năng, cập nhật kiến thức của
một số lượng lớn công nhân nghề Điện công nghiệp và nhu cầu về nguồn nhân lực
trình độ cao của các cơ quan, doanh nghiệp, công ty trên địa bàn thành phố Cần thơ
và các tỉnh lân cận trong khu vực đồng bằng sông Cửu long.

4


1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc cải tiến, xây dựng chương trình đào tạo hệ
Cao đẳng chuyên nghiệp theo hệ thống tính chỉ để làm cơ sở cho việc xây dựng
chương trình liên thông lên Cao đẳng chuyên nghiệp ngành Công nghệ kỹ thuật
điện cho đối tượng học sinh tốt nghiệp trình độ Trung cấp nghề Điện công nghiệp
theo dự kiến.
 Khảo sát yêu cầu tuyển dụng lao động trình độ Cao đẳng chuyên nghiệp
ngành Công nghệ kỹ thuật điện của các công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp trên địa

bàn Tp Cần thơ và các khu vực lân cận.
 Tìm hiểu thực trạng đào tạo trình độ Trung cấp nghề Điện Cơng nghiệp,
Dân dụng; và trình độ Cao đẳng ngành Cơng nghệ kỹ thuật điện tại trường Cao
Đẳng Cơ Điện và Nông nghiệp Nam Bộ và các trường trên địa bàn Tp Cần Thơ và
khu vực lân cận. Phân tích, đánh giá, so sánh chương trình đào tạo của các ngành
nghề trên đang thực hiện tại trường để làm cơ sở đề xuất chương trình liên thơng.
 Đề xuất chương trình đào tạo liên thông ngành Công nghệ kỹ thuật điện hệ
Cao đẳng chuyên nghiệp cho đối tượng là người tốt nghiệp hệ Trung cấp nghề Điện
Công nghiệp, để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trên địa bàn Tp Cần Thơ và khu
vực lân cận.
1.6 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện và thời gian có giới hạn nên người nghiên cứu giới hạn đề tài
trong phạm vi: xây dựng chương trình đào tạo liên thơng trình độ Cao đẳng ngành
Cơng nghệ kỹ thuật điện từ trình độ trung cấp nghề Điện cơng nghiệp theo cấu trúc
tín chỉ và đề cương chương trình chi tiết một số mơn học chun ngành phục vụ cho
việc giảng dạy tại trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam Bộ đồng thời chỉ
khảo nghiệm với ý kiến của chuyên gia.
1.7 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thông qua các nguồn tài liệu, cơng trình
nghiên cứu liên quan đã được cơng bố, các sách báo, tập chí khoa học, các văn bản
pháp qui, các căn cứ, văn bản, tài liệu hướng dẫn xây dựng chương trình, nghiên

5


cứu, phân tích các chương trình ngành Cơng nghệ kỹ thuật điện hiện hành và các tài
liệu liên quan khác.
- Phương pháp khảo sát- điều tra [2,tr125]: Thiết kế các phiếu khảo sát các
đối tượng nghiên cứu để lấy thông tin cần thiết để thực hiện đề tài, đề xuất chương
trình sát hợp với thực tiễn.

- Phương pháp chuyên gia [2 tr 114]: Do thời gian nghiên cứu không cho
phép thực nghiệm chương trình nên người nghiên cứu sử dụng phương pháp này để
lấy ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm thực tế với lĩnh vực liên quan đến đề tài
nghiên cứu để đánh giá khả năng áp dụng vào thực tế của chương trình đào tạo liên
thơng từ bậc Trung cấp nghề Điện Công nghiệp – Dân dụng lên bậc Cao đẳng
ngành Công nghệ kỹ thuật điện tại Trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam
Bộ.
- Phương pháp quan sát, trò chuyện, trao đổi: trao đổi với giáo viên, giảng
viên, nhà tuyển dụng, bộ phận quản lý nhân sự…để lấy những thông tin cần thiết
phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
- Các phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng máy tính để xử lý các số liệu thu
thập được, xử lí bằng phương pháp thống kê. Phương pháp này sẽ cho người nghiên
cứu những số liệu tổng hợp, trên cơ sở những số liệu này người nghiên cứu sẽ đưa ra
những nhận định cũng như kết luận của mình.
1.8. Điểm mới của đề tài
Sau khi hồn thành luận văn sẽ đưa ra được một bộ chương trình đào tạo liên
thơng trình độ Cao đẳng chun nghiệp chun ngành Cơng nghệ kỹ thuật điện từ
trình độ trung cấp nghề Điện cơng nghiệp. Bộ chương trình sẽ đáp ứng được nhu
cầu đào tạo cho đối tượng Công nhân kỹ thuật, trung cấp nghề với tiêu chí tiếp cận
có hệ thống; có cơ hội liên thơng lên trình độ cao hơn.

6


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO LIÊN THƠNG THEO TÍN CHỈ
Thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh như vũ bão của khoa học công nghệ, sự
bùng nổ của thơng tin tồn cầu, sự giao lưu mở trong xu thế tồn cầu hóa – thế giới

phẳng - đang đặt ra những thách thức mới đối với hệ thống giáo dục nói chung và
về phát triển nguồn nhân lực có chất lượng nói riêng. Theo đó, các quốc gia đang
hết sức coi trọng việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và đạt hiệu quả cao
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của kinh tế cho quốc gia mình. Từ những
thách thức đó đòi hỏi hệ thống giáo dục nước ta phải lựa chọn những xu thế và giải
pháp thích hợp để đáp ứng nhu cầu cao về nguồn nhân lực. Một trong các xu thế có
ý nghĩa quan trọng trong thời gian tới là phát triển xu thế liên thông cho các bậc học
trong cùng hệ thống, một xu thế đang được nhiều quốc gia quan tâm thực hiện.
2.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài:
2.1.1.Chương trình: [5]
Chương trình là hệ thống các thông tin được biên soạn cho giáo viên bao
gồm: trình tự về nội dung, trang thiết bị, dụng cụ, vật tư tiêu hao, các yêu cầu về
tiêu chuẩn đạt được.
2.1.2.Đào tạo:[9]
Đào tạo là quá trình cải tiến năng lực của con người bằng cách cung cấp các
kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để một cá nhân có thể đạt được mục tiêu
hành nghề cụ thể. Đào tạo là q trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp
những kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc nhằm giúp cho người học có thể tự tạo
việc làm cho bản thân và góp phần xây dựng đất nước.
2.1.3. Chương trình đào tạo:(Curriculum) [8 tr 126]
Wentling (1993) cho rằng: “Chương trình đào tạo là một bảng thiết kế tổng
thể cho một hoạt động đào tạo (đó có thể là một khóa học vài giờ, một ngày, một

7


tuần hoặc một vài năm). Bảng thiết kế tổng thể đó cho biết tồn bộ nội dung cần
đào tạo, chỉ rõ ra những gì có thể trong đợi người học sau khóa học, nó phác họa ra
qui trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, nó cũng cho biết các phương pháp
đào tạo và các cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập, và tất cả các cái đó được

sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ”
Về cấu trúc của một chương trình đào tạo, Tyler (1949) cho rằng chương
trình đào tạo phải bao gồm 4 thành tố cơ bản của nó, đó là:
1. Mục tiêu đào tạo;
2. Nội dung đào tạo;
3. Phương pháp hay qui trình đào tạo;
4. Cách đánh giá kết quả đào tạo.
Như vậy, CTĐT được xem như là một bản thiết kế tổng thể cho hoạt động
dạy học bao gồm: nội dung dạy học, phương pháp dạy học, cách thức kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một trình tự chặt
chẽ về thời gian.
2.1.4. Xây dựng chương trình đào tạo:
Xây dựng chương trình đào tạo là tạo ra một bảng thiết kế tổng thể thực tiễn
và hợp lý, bao gồm việc thu thập các dữ liệu cần thiết để đi đến xác định mục tiêu
đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp và cách thức kiểm tra đánh giá quá trình
đào tạo.
2.1.5. Khái niệm về liên thông:
Theo tác giả Nguyễn Viết Sự cho rằng khái niệm liên thơng thường được tìm
hiểu trên hai bình diện:[8, tr 77]
- Một là: sự xuyên suốt, khớp nối (Articulation) của hệ thống kiến thức giữa các
lớp học, cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, hay cịn gọi là liên
thơng dọc.
- Hai là: sự kế tục, tương đương về mặt bằng của hệ kiến thức, kĩ năng thuộc môn
học hoặc lĩnh vực học tập trong hệ thống giáo dục quốc dân để từ đó có thể chuyển
đổi (transfer) giữa các loại hình đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân hay còn

8


gọi là liên thông ngang (hoặc liên thông chéo). Trong một thời gian dài, loại hình

này chỉ giới hạn trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, chưa tạo điều kiện cho loại
hình đào tạo nghề được tham gia liên thơng, gây nhiều khó khăn cho người học.
Điều này đã được giải tỏa bằng thông tư liên bộ số: 27/2010/TTLT-BGDĐTBLĐTBXH, ngày 28 tháng 10 năm 2010 Hướng dẫn đào tạo liên thơng từ trình độ
trung cấp nghề, cao đẳng nghề lên trình độ cao đẳng và đại học.
Theo tác giả Phạm Xuân Hậu trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, cho
rằng ĐTLT có hai loại hình liên thơng:[4]
- Liên thơng dọc (articulation) là liên thông theo chiều dọc từ thấp đến cao đối với
những đơn vị có cùng chuyên ngành trong trường hoặc trường khác và có đủ các
điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Liên thông ngang (tranfer) là liên thông theo chiều ngang giữa các trường khi
được công nhận kết quả lẫn nhau về chương trình đào tạo, kết quả đào tạo, giúp cho
người học có thể thay đổi ngành học từ trường này sang học ngành khác ở trường
khác (công nhận các tín chỉ mơn học, mơn tương đương chuyển đổi…).
Tóm lại, liên thơng chính là sự ghép nối của hai hay nhiều hệ thống giáo dục
trong một cộng đồng trường học để giúp người học chuyển dễ dàng từ bậc học này
tới một bậc học khác mà không phải học lại hoặc mất tín chỉ. Bên cạnh đó, nó cho
phép người học đạt đến một trình độ kỹ năng cao hơn sau khi hồn tất khóa học.
Hiện nay ở nước ta phổ biến hình thức đào tạo liên thơng dọc, liên thơng
ngang có nhu cầu ngày càng nhiều nhưng chưa được nghiên cứu giải quyết, đặc biệt
là chưa có được các văn bản pháp quy liên quan đến chương trình đào tạo nâng cao
trình độ chun sâu cho đối tượng cơng nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên trong khối đào
tạo nghề và nhu cầu nâng cao đối với các bậc học cao hơn như đại học chuyên
nghiệp và sau đại học.
2.1.6. Đào tạo liên thông:
Đào tạo liên thông trong hệ thống dạy nghề là q trình đào tạo trên cơ sở
cơng nhận kết quả học tập và kiến thức kỹ năng đã có của người học để học tiếp ở
trình độ cao hơn cùng nghề đào tạo hoặc học nghề đào tạo khác cùng cấp độ [10].

9



Đào tạo liên thơng là q trình đào tạo cho phép sử dụng kết quả học tập đã
có của người học để học tiếp ở trình độ cao hơn cùng ngành nghề hoặc chuyển sang
ngành đào tạo, hình thức giáo dục và trình độ đào tạo khác.[5]
“Đào tạo liên thơng là một trong những phương thức giúp cho người học có
cơ hội học tập liên tục, học tập suốt đời cho nhiều đối tượng, tầng lớp xã hội, nhất là
các học viên gặp nhiều trở ngại trên con đường học vấn".[3]
Mục tiêu bao trùm của đào tạo liên thông là rút ngắn thời gian học nhưng vẫn
đảm bảo đào tạo ra lực lượng lao động chất lượng cao, đa dạng và hiệu quả để đáp
ứng đòi hỏi của sự phát triển của công nghệ sản xuất của phát triển kinh tế.
2.2. Xu thế đào tạo liên thông trong giáo dục:
2.2.1 Mục đích và ý nghĩa của đào tạo liên thơng:[9]
Trong đề án “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”,
phần “ Các nhiệm vụ và giải pháp đổi mới giáo dục đại học” có đề cập đến giải
pháp thứ 2 “xây dựng quy trình đào tạo mềm dẻo liên thông, đổi mới mục tiêu,
nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập ở đại học” trong đó có nội dung:
“tổ chức rà sốt lại cấu trúc và quan hệ giữa các khung chương trình và nội dung
đào tạo của các cấp học cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ nhằm đảm bảo sự liên
thông giữa các cấp học của giáo dục đại học; Xây dựng thể chế nhập học mềm
dẻo để người học có thể học đại học bất cứ lúc nào và không chỉ một lần trong
suốt cả cuộc đời”.

Chương trình cao đẳng
Chương trình liên thơng từ
trung cấp lên cao đẳng
Chương trình trung cấp

Hình 2.1 Mơ hình chương trình đào tạo liên thơng từ trung cấp lên cao đẳng

10



Từ đó, ta có thể thấy mục đích và ý nghĩa của đào tạo liên thông nhằm:
- Tạo điều kiện cho mọi người trong xã hội có cơ hội học tập suốt đời, học tập
liên tục nhằm nâng cao trình độ phục vụ tốt cho mỗi hoạt động của mỗi cá nhân ở
từng vị trí của mình trong các lĩnh vực, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.[3]
- Nâng cao hiệu quả trong đào tạo trên cơ sở giảm thời gian đào tạo lại những kiến
thức và kỹ năng mà người học đã thu được ở các bậc học khác.
- Sử dụng một cách thơng minh và có hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có của cơ
sở đào tạo và phù hợp với khả năng kinh tế của xã hội.
- Tăng cường dân chủ hóa trong giáo dục và đào tạo.
- Mở rộng các lộ trình đào tạo cho hệ thống giáo dục Việt Nam, đặt biệt là mối
liên hệ, liên kết, hợp tác và sự thống nhất giữa ngành giáo dục và các ngành nghề
khác trong đào tạo nhân lực cho nhà nước. [3]
- Tạo điều kiện để phân luồng cho học sinh sau trung học cơ sở và nâng cao vị trí
của trung học nghề, Cao đẳng nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng khi trở
thành đối tác của các trường đại học trong q trình đào tạo liên thơng. [5]
- Ngồi những mục đích trên ra, chủ trương đào tạo liên thơng cịn nhằm để nâng
cao chất lượng đào tạo và vai trò quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo
đồng thời giải tỏa áp lực tâm lý của một phần khơng nhỏ các gia đình và các học
sinh thường cho rằng vào đại học là con đường duy nhất cho phát triển sự nghiệp.
2.2.2 Quan điểm tiếp cận trong đào tạo liên thông:
Quan điểm thực tiễn: dựa vào thực tiễn để đề ra hướng giải quyết theo nhu
cầu thực tế.
Quan điểm khách quan: vấn đề nghiên cứu mang tính khách quan, đảm bảo
giá trị khoa học và thực tiễn.
Quan điểm hệ thống: các hoạt động phải có mối quan hệ chặt chẽ có sự tác
động qua lại, chi phối lẫn nhau trong tổng thể. Trong dạy học, đây chính là nguyên
tắc cơ bản để đảm bảo việc hình thành kiến thức và kỹ năng ở người học.


11


Quan điểm phát triển: xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng theo
quy luật phát triển, là quan điểm có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét nghiên
cứu vấn đề theo quá trình được diễn ra từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Với quan
điểm này, chương trình đào tạo liên thơng kế thừa những nội dung đã được thực
hiện và tiếp cận được với công nghệ hiện đại một cách liên tục.
Việc xây dựng chương trình đào tạo liên thơng phải đảm bảo mục tiêu của đào tạo.
2.2.3. Các yếu tố liên thông: [8, tr 78]
2.2.3.1. Liên thông về cơ cấu hệ thống giáo dục – đào tạo:
Trường trung
học chuyên
nghiệp

Trường nghề

Trường
cao đẳng

Trường
đại học

Hình 2.2 : Sơ đồ liên thông hệ thống giáo dục nghề nghiệp
Giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp là quá trình giáo dục tiếp nối của giáo dục
phổ thơng để hình thành và phát triển lao động kỹ thuật. Mặt khác, đây cũng là
bước chuẩn bị phát triển ở trình độ cao hơn: ở đại học, sau đại học cho người lao
động. Do đó, hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần có các loại hình đào tạo nối tiếp
nhau nhằm tạo cơ hội cho người lao động vừa làm việc vừa học, học tập liên tục

suốt đời để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp ngày
càng phức tạp với kỹ thuật, công nghệ ngày càng được nâng cao, cải tiến liên tục.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần được xây dựng đảm bảo liên thông dọc với các
loại hình trường đào tạo cùng lĩnh vực kỹ thuật, đồng thời phải có tính liên thơng
chéo để đảm bảo quyền được học tập nâng cao trình độ chun mơn của mọi đối
tượng trong xã hội học tập hiện nay. Điều này thể hiện tính bình đẳng trong học tập
của mọi đối tượng.
2.2.3.2. Liên thông về nội dung và cấu trúc chương trình đào tạo
Nội dung giáo dục được thể hiện bằng hệ thống các môn học hoặc các
mô đun đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đào tạo xác định cho ngành hoặc nghề
cụ thể. Việc lựa chọn nội dung đào tạo cần đảm bảo sự kế tiếp, tránh trùng lặp,

12


theo nguyên tắc cơ bản, hiện đại, tinh giản, thiết thực đồng thời tiếp cận được
với kiến thức mới mang tính cập nhật cao.
Việc cấu trúc nội dung đào tạo cần đảm bảo phần ổn định và phần linh
hoạt mở rộng, cập nhật; đồng thời cần tính đến sự chuyển đổi, lắp lẫn và phát
triển nội dung đào tạo với mục đích tạo được tính liên thơng giữa các cấp học,
bậc học. Điều này với cấu trúc nội dung theo mơn học có khó khăn hơn so với
cấu trúc nội dung theo mơ đun đào tạo hoặc tín chỉ.
2.2.3.3. Liên thơng về ch̉n trình đợ và văn bằng chứng chỉ đào tạo:
Hệ thống chuẩn trình độ từ đào tạo nghề đến trung cấp chuyên nghiệp,
cao đẳng và đại học cần được xác định có tính kế tiếp, liên thơng nhau, thể
hiện ở các bậc trình độ. Tùy điều kiện ở mỗi quốc gia mà có sự lựa chọn số
bậc trình độ khác nhau như ở Anh chọn 5 bậc, ở Úc chọn 7 bậc . . . tương ứng
mỗi bậc có quy định rõ lượng kiến thức, kỹ năng cần đào tạo. Đối với Việt
Nam, hệ thống chuẩn trình độ được tác giả Nguyễn Viết Sự đề nghị chọn 7 bậc như
sau: [7, tr 78]

Bậc 7: Đại học kỹ thuật

(Engineer)

Bậc 6: Cao đẳng kỹ thuật

(Master)

Bậc 5: Kỹ thuật viên cấp cao

(Higher Technician)

Bậc 4: Kỹ thuật viên

(Technician)

Bậc 3: CNKT lành nghề diện rộng (All-round Skilled Worker)
Bậc 2: CNKT lành nghề

(Skilled Worker)

Bậc 1: CNKT bán lành nghề

(Semi Skilled Worker)

Tương ứng với bậc 1 cấp chứng chỉ, còn từ bậc 2 đến bậc 7 cấp bằng tốt
nghiệp. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những thập kỷ
tới sẽ địi hỏi ngày càng lớn về quy mô đội ngũ lao động kỹ thuật với chất
lượng cao. Giáo dục có vai trị quan trọng trong sự nghiệp ấy khơng chỉ vì
chiếm tỉ trọng cao trong nguồn nhân lực mà còn là sự đáp ứng linh hoạt, phong

phú của những thách thức, đòi hỏi mới do phát triển kinh tế – xã hội đặt ra.
Bởi vậy, phát triển giáo dục theo xu thế liên thông là định hướng quan trọng

13


của chiến lược phát triển nguồn nhân lực tương lai nhằm đảm bảo cơ cấu trình
độ hợp lý, đáp ứng thị trường lao động trong nước và quốc tế trong thời gian
tới.
2.2.4. Giới thiệu hình thức đào tạo liên thơng ở một số nước trên thế giới: [8]
Hiện nay, hệ thống giáo dục của nhiều nước trên thế giới đã xây dựng theo
hình thức ĐTLT, trong khn khổ luận văn, xin được giới thiệu hình thức đào tạo liên
thơng ở một số nước.
2.2.4.1. Pháp:
Ở Pháp, sự liên thông giữa các cấp học cũng tương tự như Việt Nam. Những
sinh viên tốt nghiệp hệ cao đẳng (2 năm) được chuyển tiếp vào năm thứ 3 bậc Đại
học. Việc học chuyển tiếp của sinh viên được hội đồng nhà trường quyết định và đề
nghị dựa trên kết quả học tập. Những sinh viên hệ Cao đẳng có điều kiện học tiếp sẽ
tốt nghiệp Đại học cùng năm với sinh viên vào Đại học trực tiếp và có thể học tiếp
lên bậc đại học cao nhất.
2.2.4.2. Đài Loan:
Hệ thống đào tạo nghề của Đài Loan theo hướng cơng nghệ gồm 5 cấp trình
độ, người học dễ dàng học liên thơng từ trình độ nghề thấp lên trình độ nghề cao
hơn tùy thuộc vào khả năng và vị trí cơng việc của mình.
Năm cấp trình độ gồm:
- Dạy nghề ngắn hạn: đào tạo nghề trình độ cơng nhân.
- Trung học chun nghiệp: đào tạo công nhân lành nghề.
- Cao đẳng kỹ thuật: đào tạo kỹ thuật viên, công nhân cao cấp.
- Đại học công nghệ: đào tạo công nghệ gia.
- Sau đại học: đào tạo các chuyên gia cao cấp.

2.2.4.3. Nhật Bản:
Ở Nhật, để thuận lợi cho việc đào tạo liên thông trong quá trình học tập về
sau, cơng tác phân luồng học sinh đã được thực hiện từ bậc trung học cơ sở. Sau khi
tốt nghiệp trung học sơ sở (THCS), học sinh có thể đi theo ba hướng khác nhau:
- Hoặc học Trung học phổ thông (THPT) (3 năm).

14


- Hoặc học Trung học chuyên nghiệp (THCN) (3 năm).
- Hoặc học Cao đẳng chuyên nghiệp (CĐCN) (5 năm).
Sau khi học xong trung học (phổ thông hay chuyên nghiệp) học sinh có thể
theo học hệ Đại học ngắn hạn (2 năm), Đại học kỹ thuật (4 năm), Đại học tổng hợp
(4 năm) hoặc vào học năm thứ 4 của bậc CĐCN. Sau khi tốt nghiệp bậc CĐCN,
sinh viên có thể thi vào năm thứ 3 bậc Đại học (kỹ thuật hay tổng hợp), số còn lại
tham gia thị trường lao động hoặc có thể tiếp tục học nâng cao sau đại học.[8]. Với
mơ hình đào tạo này, người học có thể học lên trình độ cao với cùng một thời gian
nhưng có thể đi theo nhiều con đường khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và khả
năng của mỗi người.
2.2.4.4. Trung quốc:
Ở Trung Quốc, sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở người học có 2 hướng để lựa chọn:
- Hoặc học trung học phổ thông, đại học, sau đại học. Ở hướng này, sau khi học
xong trung cấp nghề người học có thể vào học đại học. Sau khi học xong giáo dục
cao cấp nghề người học có thể học sau đại học.
- Hoặc có thể học trung cấp nghề, đại học, sau đại học. Ở trung học phổ thơng
người học có thể học sang giáo dục cao cấp nghề.
Giáo dục
nghề
trung
cấp

Giáo
dục
cơ sở
9
năm

Trung
học
phổ
thông

Giáo
dục
nghề
cao cấp

Đại
học

15

Sau đại
học

Giáo dục
thường
xuyên

Tiến




Hình 2.3: Sơ đồ hệ thống giáo dục Trung Quốc
Từ sơ đồ trên ta thấy, nền giáo dục Trung Quốc cũng có nhiều hướng đi để
người học lựa chọn, tùy vào khả năng, sở thích của mình mà người học chọn cho
mình một hướng đi thích hợp để cuối cùng họ cũng đạt được một trình độ nhất
định để ni sống bản thân. Nền giáo dục này cũng thể hiện rất rõ tính liên thơng
rất chặt chẽ.
* Nhận xét: Qua tìm hiểu hệ thống giáo dục nghề nghiệp của một số
nước trên thế giới, người nghiên cứu thấy rằng, hệ thống giáo dục nghề nghiệp
của các nước trên thế giới luôn được sự phân luồng từ rất sớm, được tổ chức
đào tạo nhiều cấp trình độ nghề từ ngắn hạn, dài hạn, đại học, sau đại học giúp
cho người học dễ dàng lựa chọn cho mình một hình thức học phù hợp. Sự liên
thơng giữa các trình độ rất chặt chẽ với các loại hình liên thơng dọc và liên
thơng ngang nhằm tạo điều kiện cho người học không ngừng học tập để nâng
cao trình độ, học tập suốt đời trong nhân dân.
2.2.5. Đào tạo liên thông ở Việt Nam:
2.2.5.1.Những quy định về đào tạo liên thông:
“Quy định đào tạo liên thơng trình độ cao đẳng, đại học” đã được ban hành
theo quyết định số: 06/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 13 tháng 02 năm 2008. Quyết định
này quy định: Những người đã có bằng tốt nghiệp trung cấp hoặc bằng tốt nghiệp
cao đẳng có nhu cầu học tập lên trình độ cao đẳng hoặc đại học. Đặc biệt trong
tháng 10 năm 2010, thông tư số: 27/2010/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH liên Bộ Giáo
Dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Hướng dẫn đào tạo liên
thơng từ trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề lên trình độ cao đẳng và đại học.
Theo hướng dẫn này, những người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, cao đẳng
nghề cùng ngành nghề đào tạo được dự thi tuyển sinh đào tạo liên thơng lên trình độ
cao đẳng và đại học theo quy định về đào tạo liên thông của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, nếu chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở
phải học đủ khối lượng kiến thức và thi tốt nghiệp các mơn văn hóa trung học phổ


16


thông đạt yêu cầu theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì có đủ điều kiện để
tham gia kỳ tuyển sinh vào các hệ liên thông theo quy định.
2.2.5.2.Tình hình đào tạo liên thơng ở nước ta hiện nay:
Đào tạo liên thông là một hoạt động đã thực sự tồn tại trong hệ thống giáo
dục Việt Nam từ lâu dưới nhiều hình thức: tại chức, chuyên tu, vừa học vừa làm…
và mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân lực. Hình
thức này thực sự được đẩy mạnh trong hệ thống giáo dục Việt Nam từ khi Bộ
GD&ĐT có Quyết định số 06 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 13 tháng 02 năm 2008 của
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thay thế Quyết định 49 về ĐTLT, đồng thời cho phép hơn
sáu mươi trường CĐ, ĐH được thực hiện hoạt động này trên tổng số các cơ sở giáo
dục ĐH tồn quốc, kể cả liên thơng ngang giữa các ngành và liên thông dọc từ hệ
TCCN lên hệ CĐ, từ hệ CĐ lên hệ ĐH và từ hệ TCCN lên hệ ĐH. Tạo cơ hội cho
các học sinh, sinh viên muốn học lên các hệ cao hơn tiếp theo đáp ứng nhu cầu rất
lớn của những người lao động muốn học tập nâng cao trình độ để đáp ứng nhu cầu
công việc hiện đang thực hiện.
Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hiện nay cần có đội ngũ nhân lực đảm
bảo chất lượng và số lượng như hiện nay, hình thức liên thơng là giải pháp tối ưu
nhất, điển hình như:[16, tr 26].
- Tạo điều kiện cho mọi người trong xã hội có cơ hội học tập suốt đời; học tập liên
tục nhằm nâng cao trình độ phục vụ tốt nhất cho hoạt động của mỗi cá nhân ở từng
vị trí của mình trong các lĩnh vực, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
- Khai thác được tri thức của đội ngũ nhân lực trình độ cao tham gia vào đào tạo
nhân lực để bổ sung nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển kinh tế xã hội có
hiệu quả cho từng vùng và cả nước.
- Mở rộng các lộ trình đào tạo cho hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt là mối

liên hệ, hợp tác và sự thống nhất giữa ngành giáo dục và các ngành nghề khác trong
đào tạo nhân lực cho nước nhà.

17


- Hồn thiện chương trình khung thống nhất trên tồn lãnh thổ, tạo niềm tin tuyệt
đối cho mọi công dân trong xã hội có ước mơ học tập cho dù gặp phải bất cứ trở
ngại nào trên con đường học vấn.
- Khẳng định được sự lớn mạnh và hiệu quả của Hệ thống giáo dục Việt Nam
trong đào tạo nhân lực phục vụ cho đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Tuy nhiên, đào tạo liên thông ở nước ta hiên nay vẫn còn thể hiện bất cập về
nhiều mặt như:[16, tr 25]
- Quy mô của hoạt động đào tạo liên thơng cịn hẹp, chỉ diễn ra trong từng cơ sở
giáo dục, chưa có quy mơ trên tồn quốc.
- Việc cấp phép đào tạo liên thông được thực hiện theo cơ chế “xin cho” tức là
trường đào tạo “xin” (đề nghị cấp phép) và Bộ Giáo dục và Đào tạo “cho” (đồng ý
cấp phép đào tạo).
- Thực hiện liên thông trong nội bộ từng trường và giữa các trường với nhau hần
như là tự phát, tự liên hệ cam kết với nhau mà chưa có qui định, quy trình, qui phạm
mang tính chuẩn mực thống nhất trong tồn ngành dưới sự quản lý nhà nước của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
- Nội dung, chương trình đào tạo liên thơng chưa được thống nhất, còn nhiều
chồng chéo giữa các trường.
- Quan hệ phối hợp giữa các bộ ngành chưa được thống nhất.
Do đó, để việc đào tạo liên thơng có hiệu quả cao, nhà nước, các cơ quan
chức năng phải có những cơ chế, chính sách hợp lý.
2.3.Nguyên tắc xây dựng chương trình đào tạo liên thơng: [16, tr 15]
Để thực hiện việc tổ chức đào tạo CĐ, ĐH đạt chất lượng tốt, Bộ GD&ĐT đã
cho thí điểm chương trình đào tạo liên thông trong một số trường ĐH, CĐ. Bộ cũng

đã ban hành Quyết định số 49/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 05 tháng 12 năm 2002
"Quy định tạm thời về đào tạo liên thông dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học". Sau mấy năm làm thí điểm Bộ GD&ĐT đã chính thức ban hành
Quy định đào tạo liên thơng trình độ cao đẳng, đại học theo Quyết định số
06/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 13 tháng 02 năm 2008 tạo cơ sở pháp lý để các trường

18


triển khai đào tạo theo phương thức này. Điều 2 của Quy định nêu rõ: "Đào tạo liên
thông là quá trình đào tạo cho phép sử dụng kết quả học tập đã có của người học để
học tiếp ở trình độ cao hơn cùng ngành nghề hoặc khi chuyển sang ngành đào tạo,
hình thức giáo dục và trình độ đào tạo khác". Điều 9 của quyết định nêu trên quy
định về việc xây dựng chương trinh đào tạo như sau: " Chương trình đào tạo liên
thơng (CTĐTLT) phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau:
a. CTĐTLT được thiết kế theo nguyên tắc mềm dẻo, phát triển theo hướng kế thừa
và tích hợp để giảm tối đa thời gian học lại kiến thức và kỹ năng mà người học đã
tích lũy ở các trình độ khác.
b. CTĐTLT phải phản ánh đúng mục tiêu đào tạo, yêu cầu học tập, nội dung
phương pháp dạy và học, thời gian đào tạo, kế hoạch thực hiện và phương pháp
đánh giá theo trình độ và theo ngành đào tạo tương ứng.
c. CTĐTLT được xây dựng dựa trên việc so sánh giữa CTĐT trình độ CĐ cho
những người có bằng tốt nghiệp trung cấp. Tuy nhiên, đây là vấn đề khá khó khăn
đới với việc xây dựng CTĐTLT chéo từ đào tạo nghề sang chuyên nghiệp. Việc xây
dựng CTĐTLT nói trên được thực hiện theo nguyên tắc bù đủ những khối lượng
kiến thức còn thiếu và kiến thức cập nhật mới phù hợp với thực tế xã hội.
d. CTĐTLT phải được xây dựng trên cơ sở chương trình khung và được thiết kế
phù hợp với các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo.”
Như vậy, có thể thấy chương trình đào tạo liên thơng sẽ tạo cho người học
những thuận lợi cơ bản trong việc tích lũy kiến thức và chuyển đổi ngành nghề đào

tạo. Điều này có thể tiết kiệm đáng kể cả về thời gian lẫn kinh phí của người học và
đồng thời tạo ra sự linh hoạt trong tổ chức đào tạo. Đáng lưu ý là trong quy định
này của Bộ, CTĐTLT được áp dụng cho cả hình thức đào tạo chính quy và hình
thức vừa làm vừa học, đáp ứng được nhu cầu của người học và khả năng tổ chức
đào tạo của các cơ sở đào tạo trong cả nước.
2.4. Các hướng tiếp cận khi xây dựng chương trình đào tạo: [8, tr 127]
Theo tác giả Lâm Quang Thiệp, trong lịch sử phát triển của hệ thống giáo
dục, có thể thấy có ba cách tiếp cận khác nhau trong việc xây dựng chương trình

19


đào tạo: cách tiếp cận nội dung (content approach), cách tiếp cận mục tiêu
(objective approach) và cách tiếp cận phát triển (development approach).
2.4.1 Tiếp cận nội dung:
Nhiều người cho rằng, chương trình đào tạo là bản phác thảo nội dung đào
tạo. Đây là cách tiếp cận kinh điển trong xây dựng chương trình đào tạo, theo đó
thành phần chính là nội dung kiến thức.
2.4.2 Tiếp cận mục tiêu:
Vào giữa thế kỷ 20 cách tiếp cận mục tiêu bắt đầu được sử dụng ở Mỹ. Theo
cách tiếp cận này, chương trình đào tạo phải được xây dựng bằng các mục tiêu đào
tạo. Dựa trên mục tiêu đào tạo người dạy mới quyết định lựa chọn nội dung,
phương pháp đào tạo cũng như cách đánh giá kết quả học tập. Mục tiêu đào tạo ở
đây được thể hiện dưới dạng mục tiêu đầu ra: những thay đổi về hành vi của người
học sau khi kết thúc khóa học. Cách tiếp cận mục tiêu chú trọng đến sản phẩm đào
tạo và coi đào tạo là công cụ để tạo nên các sản phẩm với các tiêu chuẩn định sẵn.
Theo cách tiếp cận này người ta quan tâm những thay đổi ở người học sau khi kết
thúc khóa học về hành vi trong các lĩnh vực nhận thức, kỹ năng và thái độ. Mục tiêu
đào tạo phải được xây dựng rõ ràng sao cho có thể định lượng được và dùng nó làm
tiêu chí để đánh giá hiệu quả của quá trình đào tạo. Dựa vào mục tiêu đào tạo có thể

đề ra nội dung kiến thức đào tạo, phương pháp giảng dạy cần thực hiện để đạt được
mục tiêu đề ra và phương pháp đánh giá thích hợp theo các mục tiêu đào tạo.
Với cách tiếp cận mục tiêu có thể chuẩn hóa qui trình xây dựng chương trình
đào tạo cũng như qui trình đào tạo theo một cơng nghệ nhất định. Giống như một
qui trình cơng nghệ, các bước đều được thiết kế chặt chẽ nhằm tạo ra sản phẩm với
một chất lượng đồng đều theo các chỉ tiêu kỹ thuật. Khái niệm “công nghệ giáo
dục” xuất hiện trên ý nghĩa này và chương trình đào tạo được xây dựng theo kiểu
này cịn được gọi là “chương trình đào tạo kiểu cơng nghệ”.
Ưu điểm của cách xây dựng chương trình theo cách tiếp cận mục tiêu:
- Mục tiêu đào tạo cụ thể và chi tiết thuận lợi cho việc đánh giá hiệu quả và chất
lượng chương trình đào tạo.

20


- Người học và người dạy biết rõ cần phải học và dạy như thế nào để đạt được
mục tiêu.
- Cho phép xác định các hình thức đánh giá kết quả học tập của người học.
Đối với cách xây dựng chương trình theo cách tiếp cận mục tiêu, điều quan
trọng đầu tiên là xác định rõ mục tiêu đào tạo. Phương pháp tổng quát phân chia
mục tiêu đào tạo theo 3 lĩnh vực nhận thức, kỹ năng và tình cảm thái độ của Bloom
là cơ sở để tham khảo xác định các mục tiêu cụ thể.
2.4.3 Tiếp cận theo sự phát triển (tiếp cận quá trình):
Theo cách tiếp cận này, giáo dục phải phát triển tối đa mọi năng lực tiềm ẩn
trong mỗi con người, làm cho họ làm chủ được những tình huống, đương đầu được
với những thách thức sẽ gặp phải trong cuộc đời một cách chủ động và sáng tạo; giáo
dục là quá trình tiếp diễn liên tục, suốt đời, do đó nó khơng thể được đặc trưng bằng
chỉ một mục đích cuối cùng nào. Theo cách tiếp cận này, người ta chú trọng đến phát
triển sự hiểu biết ở người học hơn là truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác định
trước hay tạo nên sự thay đổi hành vi nào đó ở người học. Với quan điểm giáo dục là

một quá trình, mức độ làm chủ bản thân tiềm ẩn ở mỗi người được phát triển một
cách tối đa. Con người không thể học tất cả những gì cần trong cuộc đời chỉ qua
quá trình đào tạo ở nhà trường, vì vậy chương trình đào tạo phải được xây dựng
sao cho tạo ra được những sản phẩm có thể đương đầu với những địi hỏi của nghề
nghiệp không ngừng thay đổi, với một thế giới khơng ngừng biến động. Do đó,
chương trình đào tạo phải là một quá trình cần phải thực hiện sao cho có thể giúp
người học phát triển tối đa các tố chất sẵn có nhằm đáp ứng được mục đích đào
tạo nói trên. Như vậy, sản phẩm của đào tạo phải đa dạng chứ khơng gị bó theo
một khn mẫu đã định sẵn. Cách tiếp cận theo quá trình chú trọng việc dạy
người ta học cách học hơn là chỉ chú trọng đến nội dung kiến thức.
Vì quan niệm giáo dục là một sự phát triển, người thiết kế chương trình chú
trọng nhiều đến khía cạnh nhân văn của chương trình đào tạo. Cách tiếp cận này
chú trọng đến lợi ích, nhu cầu của từng cá nhân người học, chú trọng đến những giá
trị mà chương trình đem lại cho từng người học. Chương trình đào tạo theo cách

21


tiếp cận phát triển xem cá nhân người học như một thực thể chủ động, độc lập suy
nghĩ và quá trình đào tạo giúp người học phát triển được tính tự chủ, khả năng sáng
tạo trong việc giải quyết vấn đề. Để có thể tự chủ, con người phải phát triển sự hiểu
biết của mình cả về bề rộng lẫn bề sâu, biết nhìn nhận thế giới một cách sáng tạo và
cần có khả năng tự bổ khuyết tri thức của mình. Vì vậy chương trình đào tạo phải
đáp ứng tối đa mọi nhu cầu của người học. Việc xây dựng chương trình đào tạo theo
mođun cho phép người học với sự giúp đỡ của thầy có thể tự mình xác định lấy
chương trình đào tạo cho riêng mình. Theo Kelly, chương trình đào tạo chỉ thực sự
có tính giáo dục nếu nội dung của nó bao gồm những cái mà người học q trọng và
thơng qua việc kiên trì theo đuổi những cái đó người học phát triển được sự hiểu
biết và mọi năng lực tiềm ẩn của mình.
Như vậy, cách tiếp cận phát triển gắn với quan niệm “người học là trung

tâm”. Các bài giảng được tổ chức dưới dạng các hoạt động khác nhau nhằm giúp
cho học viên lĩnh hội dần các kinh nghiệm học tập thông qua việc giải quyết các
tình huống, tạo cho sinh viên cơ hội thử thách trước những thách thức khác nhau.
Trong khi theo cách tiếp cận mục tiêu, người ta quan tâm nhiều đến việc học sinh
sau khi học có đạt được mục tiêu hay không mà không quan tâm nhiều đến quá
trình đào tạo thì theo cách tiếp cận phát triển người ta quan tâm nhiều đến các hoạt
động của người dạy và người học trong quá trình. Người dạy phải hướng dẫn
người học tìm kiếm và thu thập thơng tin, gợi mở giải quyết vấn đề, tạo cho
người học có điều kiện thực hành, tiếp xúc với thực tiễn, học cách phát hiện vấn
đề và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
Tóm lại, sau khi tìm hiểu các hướng tiếp cận khi xây dựng CTĐT trên thế giới,
đề tài sẽ kết hợp cả 03 hướng tiếp cận trên để xây dựng CTĐTLT cho ngành Công
nghệ kỹ thuật điện hệ Cao đẳng chuyên nghiệp cho đối tượng là học sinh tốt nghiệp
Trung cấp nghề Điện Công nghiệp tại trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam
Bộ đáp ứng được nhu cầu xã hội.
- Hướng tiếp cận mục tiêu: Dựa vào mục tiêu đào tạo, đề tài xác định những nội
dung, phương pháp đào tạo,cách đánh giá kết quả học tập để đạt được mục tiêu.

22


- Hướng tiếp cận nội dung: Theo hướng tiếp cận này đề tài sẽ xác định môn học
được lựa chọn làm nội dung CTĐTLT. Tuy nhiên, việc quyết định lựa chọn mơn học
để đưa vào CTĐTLT cịn phụ thuộc vào đặc điểm bên ngồi và bên trong của mơn
học.
+ Đặc điểm bên ngồi của mơn học là độ chính xác và phạm vi của mơn học
đó mang ý nghĩa thực tiễn vượt ra ngồi kinh nghiệm hiện có của người học.
Như vậy, yếu tố thực tiễn là một trong những tiêu chí quan trọng để lựa chọn
mơn học cho CTĐTLT.
+ Đặc điểm bên trong đề cập đến tính logic cố hữu của mơn học bất kỳ mơn học

nào cũng có các ngun tắc tổ chức, tính logic bên trong khơng được vi phạm.
- Hướng Tiếp cận phát triển: CTĐTLT được xây dựng bám sát các bước phát triển
của khoa học kỹ thuật và phát huy được năng lực tiềm ẩn trong mỗi con người.
2.5. Lý thuyết tín chỉ: [16]
2.5.1 Định nghĩa:
Theo tác giả James Quann thuộc Đại học Washington “Tín chỉ học tập là một
đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của người học bình thường để học một môn
học cụ thể, bao gồm: 1.Thời gian lên lớp; 2. Thời gian trong phịng thí nghiệm, thực
tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; 3 Thời gian dành
cho đọc sách, nghiên cứu giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài…; Đối với mơn
học lý thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với 2 giờ chuẩn bị bài) trong tuần và
kéo dài trong một học kỳ 15 tuần; Đối với các mơn học ở sudio hay phịng thí
nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với một giờ chuẩn); Đối với các mơn học tự
học, ít nhất là 3 giờ trong một tuần ”
Theo tác giả Vũ Quốc Phóng, Trường ĐH Ohio, Mỹ “Tín chỉ là đơn vị dùng
để đo lượng kiến thức trong trường”.
Theo tác giả Hoàng Văn Vân, Đại học Quốc gia Hà Nội “Tín chỉ là đại lượng
dùng để đo khối lượng kiến thức, kỹ năng mà người học cần phải tích lũy trong một
khoảng thời gian nhất định thơng qua các hình thức: 1. Học tập trên lớp; 2. Học tập
trong phịng thí nghiệm, thực tập trong các xưởng thực hành hoặc làm các phần việc

23


khác (có sự hướng dẫn của giáo viên); 3. Tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên
cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài… Tín chỉ cịn được hiểu là khối lượng lao
động của người học trong một khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện
học tập tiêu chuẩn.
Như vậy, tín chỉ là đơn vị dùng để đo lượng kiến thức và kỹ năng của người
học, là mối tương tác giữa người dạy và người học trên lớp. Một tín chỉ được qui

định 15 tiết lý thuyết, hoặc 30 tiết thảo luận trên lớp, bài tập thí nghiệm, hoặc 45
đến 60 tiết thực tập, kiến tập, làm tiểu luận, đồ án tốt nghiệp.
Hệ thống tín chỉ là hệ thống nhờ đó mà người học có khả năng để đạt được
những phần kiến thức và kỹ năng của một bậc học trong những khoảng thời gian
khác nhau từ một số cơ hội học tập. [12]
Vì vậy, việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ, người học phải tích lũy đủ số tính
chỉ theo quy định của khóa học đó để được đánh giá kết quả học tập và được cấp
văn bằng cho khóa đào tạo.
2.5.2 Chức năng quản lý cơ bản của hệ thống tín chỉ
- Đối với sinh viên: Hệ thống tín chỉ cho phép thực hiện nội dung đào tạo linh
hoạt. Sinh viên được quyền thay đổi chuyên ngành, chương trình học, chuyển từ
trường này sang trường khác thơng qua hệ thống chuyển đổi tín chỉ. Họ có thể đo
lường tiến độ học tập của mình thơng qua số lượng tín chỉ đã tích lũy được sau thời
gian tham gia học tập.
- Đối với giảng viên: Hệ thống tín chỉ cung cấp một thước đo cho năng suất lao
động của giảng viên. Năng suất lao động của giảng viên cũng có thể đo lường thêm
bằng cách nhân khối lượng công việc với số lượng sinh viên mỗi lớp để tính ra đóng
góp của giảng viên đối với nhà trường. Các khoản bù đắp có thể tính tốn trực tiếp
dựa trên năng suất lao động tính theo đơn vị giờ lên lớp.
- Đối với nhà trường: Nhà trường dùng đơn vị giờ tín chỉ (credit hour) để xây
dựng các mức học phí, phân bố nguồn lực về cơ sở vật chất và con người, phân tích
năng suất của từng cá nhân giảng viên và của từng khoa. Học phí thường được ấn

24


định dựa trên số lượng giờ tín chỉ được chọn. Hệ thống tín chỉ cung cấp cho các nhà
quản lý một cơng cụ để phân tích hoạt động của nhà trường.
- Đối với nhà nước: Hệ thống tín chỉ cung cấp cho nhà nước cơ sở để hợp lý hóa chi
phí ngân sách dành cho giáo dục đại học. Nhà nước có thể đưa ra các quy định cấp phát

ngân sách dựa trên số lượng giờ và tín chỉ trong chương trình đào tạo của các trường.
2.5.3 Đặc điểm của hệ thống tín chỉ:
Hệ thống tín chỉ được xây dựng trên cơ sở tôn trọng người học, lấy người
học làm trung tâm. Người học chủ động đề ra kế hoạch học tập cho phù hợp với khả
năng và điều kiện của mình, mang lại hiệu quả kinh tế rất cao nên được nhiều nước
trên thế giới áp dụng. Hệ thống tín chỉ có những đặc điểm sau:[1]
- Người học phải tích lũy kiến thức theo từng học phần.
- Mỗi học phần cấu tạo theo module, phân bổ theo mốc thiết kế của năm học.
Ngoài phần đại cương chung cho một chương trình, cịn cấu tạo mơn học tự chọn,
chia nhánh sâu cho mỗi chuyên ngành hẹp.
- Chương trình đào tạo mềm dẻo, người học dễ dàng điều chỉnh ngành nghề khi
thấy khơng thích hợp.
- Dạy học lấy người học làm trung tâm, vì thế phải đổi mới phương pháp dạy,
người học phải làm việc nhiều hơn và trao đổi với giáo viên, bạn bè thông qua giờ
thảo luận, qua mạng hay giáo viên bố trí trả lời trực tiếp người học.
- Đánh giá thường xuyên.
- Chỉ có một loại văn bằng cho tất cả các loại hình đào tạo.
Thật vậy, đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một hình thức đào tạo thể hiện tính
liên thơng, chủ động, khoa học, thực tiễn và linh hoạt rất cao.
2.5.4. Ưu điểm của phương thức đào tạo theo tín chỉ:
- Phát huy tính chủ động, năng động sáng tạo của người học, người học chủ yếu là
tự học, tự nghiên cứu với sự trợ giúp, hướng dẫn của giáo viên, giảm sự nhồi nhét
kiến thức của người học.
- Tạo được sự liên thơng giữa các cơ sở đào tạo trong và ngồi nước.

25


×