Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu Chơi chữ Trong Ca Dao docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.37 KB, 17 trang )

Chơi chữ Trong Ca Dao

Chơi Chữ là một nghệ thuật, đòi hỏi phải nhanh trí và có một kiến thức rộng lớn. Đôi lúc
đòi hỏi ở đầu óc dí dỏm, pha chút châm chọc, ngạo đời ..... bm trước khi vào đề xin định
nghĩa về :
1- Chơi chữ là gì?
Ngày xưa các cụ nhà ta thích dùng chữ để tả cảnh, tả tình, nhiều khi dùng chữ lắc léo để
" móc " nhau, hoặc mĩa mai. Có những câu đố đọc lên rất tục, nhưng lúc giảng thì thanh
như :" Da trắng vỗ bì bạch ". Hoặc nói lái nghe ra tục tỉu nhưng giảng thanh tao. Dùng
cùng một vần, âm điệu giống nhau :
"Phất phất phóng phong phan, pháp phái phi phù, phù phụng Phật.
Căng căng canh cổ kệ, ca cao kỉ cứu, cứu cùng kinh".
( Phất phất cờ phứơng bay trứơc gió, đạo pháp làm phép đốt bùa, bù thờ Phật ;
Oanh oanh hòa giọng đọc kệ cổ, cất cao tiếng nghiền ngẩm kinh, nghiền ngẩm đến cùng
.)
Đây là câu đó chọc ghẹo ông sư móm và chú Tiểu ngọng của Ông Nguyễn Khuyến.
Vậy chơi chữ là dùng phương thức diễn đạt đặc biệt, sao cho ở đó song song tồn tại hai
lựơng ngữ nghĩa khác hẳn nhau đựơc biểu đạt bởi cùng một hình thức ngôn ngữ, nhằm
tạo nên sự thú vị mang tính chất chữ nghĩa. Càng làm phong phú thêm ngôn ngữ, văn
chương Việt Nam.
2- Chơi chữ trong văn chương.
Trong văn chương có hai lối chơi chữ dựa vào ca['c phương tiện ngôn ngữ đựơc thể hiện
trong văn bản và kiểu chơi chữ dựa vào tiền giả định là dữ kiện văn học, văn hóa.
2.1 Bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết.
a- Mô phỏng âm thanh.
" Hu ta tồ hề! Tòng Xích Tùng chi tung tịch cốc ;
Phu nhi tri hĩ! Trắc Hỗ sơn chi trắc tùng bi."
Nguyễn Khuyến.
Hay một câu đố nhân gian, do đám học trò đê"n thăm thầy đồ, thấy nhà đóng cửa mà
bên trong thì nghe có tiếng rúc rích và tiếng giừơng kêu ọt ẹt, các trò bấm nhau cừơi.
Thầy thấy thẹn liền ra câu đối, nếu đối đựơc thì mới mở cửa :


" Sĩ đáo ngọai gia, thầm bất thầm, thì bất thì, thầm thì thầm thì".
Một anh nho sinh mới đối lại :
" " Sư ngọa trung phòng, ọt bất ọt, ẹt bất ẹt, ọt ẹt ọt ẹt! "
CÙNG ÂM.
Nếu ai là ngừơi Huế, nhiều lúc trong câu nói có tính cách điệp âm, hay hiểu hai, ba
nghĩa. Vi dụ : Một ngừơi bạn vào nhà, con chó xù nhe răng ra sủa. Cô chủ ngừơi Huế lớn
tiếng bảo bạn :
- Không RĂNG mô.
- Răng : là cái răng ( nghĩa đen )
- Răng : là sao, chi, gì ....
Thành ra câu trên ngừơi Nam sẽ nói :" Không gì đâu ".
Làm sao con chó cả hàm răng dữ thế lại bảo không răng mô hehe e e e
Bài thơ của Tôn Thất Mỹ :
Không răng đi nữa cũng không răng,
Chỉ có thua ngừơi một miếng ăn.
Miễn đựơc nguyên hàm nhai tóp tép,
Không răng đi nữa cũng không răng.
Ý bài thơ nói về chiếc răng của tác giả bị rụng. Nhưng đựơc tin Triều đình cho cho phục
nguyên hàm tá lý, nhưng không hửơng lương ( Salary ). Nhưng Không răng " ( Không
có răng ) đồng âm với " không răng " ( không sao - từ địa phương ).
" Nguyên hàm " vừa có nghĩa là còn hàm răng nguyênvẹn để nhai, vừa có ý chỉ cái hàm (
Chức ) tá lý đựơc phục hồi sau khi bị tứơc đi.
Ngừơi Việt có cái tài là dùng văn hóa của nứơc khác chế biến thành văn hóa mình.
Những tiếng nứơc ngòai :
- Cravat là cà - vạt. ( Cái nơ cổ)
- Marcatheur là Mặt -ác- tệ ( Tên Mỹ )
- Weamoreland là vét- mỡ -lợn .( Tên Mỹ )
- Corset là cút - xê. ( Xu chiêng )
- En France là Ăng Phoong ( Sang Pháp )
- Canard là cá - an'c ( Con vịt )

- Cochon là cô - soong ( Con lợn )
- La Poche là la - pốt ( Cái túi )
- L'argent 'à lạc - giòong ( Tiền bạc )
- Au revoir là ô voa ( Tạm biệt )
- Bâton là batoong ( cái gậy )
- NHIỀU NGHĨA.
Như Cha Mẹ đựơc gọi nhiều cách :
- Cha : Ba = Bố= Tiá = Bọ = Dựơng = Thầy = Papa. Nhiều khi con khó nuôi còn gọi là
Anh.
- Mẹ : Má = Mạ = Me = Bu = U = Dì = Mama.
Qua câu thơ :
Em đây là gái năm con,
Chồng em rộng lựơng, em còn chơi xuân.
Xuân : Là mùa xuân, cũng là tuổi còn trẻ
- THEO LỐI DỰA VÀO PHƯƠNG NGỮ.
Tức là dựa vào ngữ âm, ngữ vựng .......của một phương ngữ để chơi chữ. Đây hòan tòan
theo văn chương mà không nên nghĩ lệch lối nhân gian. Đọc bài thơ :
Trêu Cô Hàng Nứơc.
Bãn hạng nay cô đã mấy tuổi?
Nứơc cô còn nõng hay đã nguồi?
Lụng lặng trên treo dăm nắm nẹm,
Lơ thơ dứơi móc một buồng chuối.
Bán dạn bán dày đều xoa mợ,
Khoai ngựa khoai lang cụng chấm muồi.
Ăn uộng xong rồi tiền chư đụ,
Biệt nhau chi cho chịu một vài buồi.
( Nguyễn Quỳnh )
Bài này nói theo giọng ngừơi Hà Tĩnh ( Thế kỷ 18 ), đọc âm đa số theo vần huyền, nghe
ra gần như tục tỉu, nhưng không phải thế. Ngừơi ta còn nghi tác giả là Trạng Quỳnh. Ta
tạm chuyển âm phổ thông VN thử nha :

Bán hàng nay cô đã mấy tuổi?
Nứơc cô còn nóng hay đã nguội?
Lũng lẳng trên treo dăm nắm nem,
Lơ thơ dứơi móc một buồng chuối.
Bánh dán bánh dày đều xoa mỡ.
Khoai ngứa khoai lang cũng chấm muối,
Ăn uống xong rồi tiền chưa đủ,
Biết nhau cho chịu một vài buổi.
Đây là một bài thơ trêu ghẹo cô hàng nứơc. Vì vậy bài thơ vận dụng phương ngữ chơi
chữ nhiều hơn chú ý về vần luật .
- NÓI LÁI.
Ngừơi Việt chúng ta trong đầu óc luôn có tánh trào lộng. Đọc lên nghe có lý, nhưng
trong ý hàm chứa sự nghịch ngợm, châm biếm.
Như Trạng Quỳnh là thơ chọc Bà Đòan Thị Điểm :
Nắng cực lúa mất mùa, đứng đầu làng xin xỏ,
Nở lòng nào chị chẳng cho.

Hoặc đảo chữ :
Lũ quỷ nay lại về lũy cũ,
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây.

Trông khống vô phòng thấy trống không,
Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng.
Dòng châu lai láng dầu chong đợi,
Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông.

- CHƠI CHỮ THEO NGỮ ÂM.
Ngòai Bắc thời nho học thịnh hành, nên các cụ đồ ngồi hay nghĩ ra thơ ghẹo nhau, đố
tục, móc lò ..... Hình thức chơi chữ theo cách nhại âm, phỏng theo âm thanh, hay lối
phiên âm Hán Việt. Thí dụ vài câu :

Bà già, bà giả, bà gia,
Bà ra kẻ chợ, con ma bắt bà.

Chồng chổng chồng chông,
Chồng bát, chồng đĩa, nồi hông cũng chồng.

Bác gì, bác xác bác xơ,
Bác chết bao giờ, bác chả bảo tôi .Cô thỉ cô thi,
Cô đang đương thì, cô kẹo với ai ?...

Muốn rằng tàu lặng tàu bay,
Nên anh bỏ việc cấy cày anh đi.
Biết mà cu lít cu li,
Thà rằng ở vậy nhà quê với nàng.
Nhà quê có họ có hàng,
Có làng, có xóm, nhở nhàng có nhau .

- CHƠI CHỮ THEO LỐI ĐIỆP ÂM.

Lọai này thì bên ca dao không có nhiều, nhưng rơi rớt trong dân gian cũng không ít.
Hiện nay ngừơi ta sưu tầm đựơc một số :

Duyên duyên ý ý tình tình,
Đây đây, đó đó, tình tình ta ta.

Năm năm tháng tháng, ngày ngày,
Chờ chờ đợi đợi, rày rày, mai mai.

Nứơc chảy riu riu,
Lộc bình trôi ríu ríu,

Anh thấy em nhỏ xíu,

×