Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

NHAN VAT VA BIEU TUONG TRONG CA DAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.04 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Nhân vật và biểu tượng trong ca dao.</b>



Ca dao là mảnh đất văn học dân gian màu mỡ, là tiếng nói vọng lại cuả vẻ đẹp tâm
hồn dân tộc Việt. Ca dao là tiếng vọng ngàn năm của cha ông, phản ánh đời sống sinh
hoạt, đời sống tinh thần của nhân dân. Nhân vật và biểu tượng trong ca dao được đề cập
hết sức phong phú và mang những ý nghĩa tượng trưng đầy giá trị nhân văn.


<b>1.Nhân vật trong ca dao:</b>


Nhân vật trong ca dao là nhân vật trữ tình tâm trạng. Đây là nhân vật giao tiếp nên
có nhân vật là chủ thể trữ tình và nhân vật là đối tượng trữ tình. Nhân vật trung tâm của
ca dao là nhân vật Nam – Nữ song hành với nhau theo từng cặp giao tiếp đối đáp hay
từng phe đối lập. Hai vai Nam – Nữ là hai vai vừa tương hợp vừa đối kháng, vừa cân
bằng vừa đối trọng.


Các kiểu nhân vật trong ca dao có thể xét trên các phương diện sau:


<i><b>a.Trên phương diện tình u đơi lứa, nhân vật ca dao thể hiện tất cả vẻ đẹp</b></i>
<i><b>phong phú của những cung bậc tình cảm trong tình yêu nam nữ:</b></i>


Khi yêu nhau, người yêu bao giờ cũng đẹp:
-Cổ tay em trắng như ngà


Con mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen


-Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh


Nhân vật ca dao là nhân vật tâm trạng nên mang đầy đủ những dạng thức tình cảm


trong tình u đơi lứa. Ví dụ:


Nét quyến luyến, vấn vương trong lời tỏ tình:
-Đến đây mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
-Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre nón đủ lá đan sàng nên chăng?


Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
Nét thương nhớ, tương tư khi xa cách:


-Nhớ ai nhớ mãi thế này
Nhớ ai ai nhớ đêm ngày nhớ ai?


Nhớ ai, ai có nhớ ai?


Nhớ da nhớ diết, biết có ai nhớ mình?
-Tương tư nằm chẳng đặng an
Đến đây cho thấy mặt nàng giải khuây
Nét táo bạo suồng sã:


-Tiện đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?
Niềm hy vọng, khát vọng hạnh phúc:


-Ước sao cho hợp một nhà



Chồng loan vợ phượng đơi ta chung tình
-Ước sao đây vợ đấy chồng
Đây bế con gái, đấy bồng con trai
Nét thất tình, buồn thương não nề:


-Anh bước ra ba bước lại dừng
Quế đây không ngậm, ngậm gừng chi cay


Em có chồng sao em chẳng cho hay
Để anh mịn mỏi đêm ngày đợi trông


-Trúc đợi mai, mai không đợi trúc
Sao chẳng nhớ lời giao ước thưở xưa?
Nét than thân trách phận, vơ dun trong tình u:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay


-Nước Đông Triều chảy ra lai láng
Ta với mình là đáng lấy nhau
Bởi vì trắc trở về đâu


Cho nên đôi lứa xa nhau thế này.


<i><b>b.Trên phương diện các mối quan hệ gia đình, nhân vật trong ca dao cũng</b></i>
<i><b>được đề cập ở nhiều vị trí khác nhau. Nhưng dù ở vị trí nào, nhân vật ca dao cũng bị</b></i>
<i><b>ràng buộc trong các quan niệm ứng xử theo truyền thống văn hóa xử thế của người</b></i>
<i><b>Việt.</b></i>


Nhân vật ca dao có khi là một người con trong gia đình thì phải giữ trịn
đạo hiếu với cha mẹ. Đó có thể là lịng biết ơn, kính trọng, u thương cha mẹ:



-Công cha như núi ngất trời


Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lịng con ơi


-Ni con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân


Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con


Là người con thì phải biết vâng lời cha mẹ, nhất là con gái thì phải giữ đạo tam
tịng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” nên có khi nhân vật ca dao phải than thân trách phận,
chịu tủi hờn vì bị ép dun:


-Mẹ em tham thúng xơi rền


Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Em nói với mẹ rằng đừng


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chưng bác mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau


Nhân vật ca dao còn mang tâm trạng nhớ thương cha mẹ vì phận làm dâu xa cách:
-Chiều chiều ra đứng ngõ sau


Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều



Trong các mối quan hệ gia đình người Việt thì mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu
cũng thường được bàn đến. Trong chế độ cũ, người mẹ chồng thường là nỗi kinh hồng
của các nàng dâu vì sự cay nghiệt, coi con dâu như người làm không công , phải gánh
chịu những đắng cay cho xứng với cái đắng cay trước đây mẹ chồng cũng từng gánh
chịu: Nhân vật người con dâu thường mang tâm trạng sợ hãi khi đứng trước mẹ chồng:


-Đói lịng ăn nắm lá sung


Nhác thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trơi
-Trách cha trách mẹ nhà chàng
Cầm vàng mà chẳng biết vàng hay thau


Thật vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa cho đau lòng vàng


Trong mối quan hệ vợ chồng, mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình và đối tượng trữ
tình cũng mang nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Với quan niệm “tam tòng tứ đức” hay
“trai nam thê bảy thiếp, gái thủ tiết thờ chồng” thì mối quan hệ vợ chồng cũng có nhiều
dạng thức khác nhau:


Có thể là quan hệ tốt đẹp, thủy chung, “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng
cạn”:


-Chồng em áo rách em thương


Chồng người áo gấm xông hương mặc người
-Râu tôm nấu với ruột bầu


Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lịng
-Bịng bịng cõng chồng đi chơi
Đi qua sông lớn đánh rơi mất chồng


Chị em ơi cho tơi mượn cái gàu sịng
Để tơi tát nước múc chồng tôi lên


Trong quan hệ vợ chồng, nhân vật ca dao cũng đề cập đến quan hệ vợ cả - vợ lẽ.
Thân phận vợ lẽ phải chịu đọa đày như con ở, phải chịu sự rẻ rúng vì kiếp chồng chung.
Có thể nói đây là một loại nhân vật đầy bi kịch, là nạn nhân của chế độ đa thê:


-Thân em lấy lẽ chả hề
Có như chính thất mà lê giữa đường


Tối tối chị giữ mất buồng


Cho em manh chiếu đắp sng nhà ngồi
Sáng sáng chị gọi: Ớ Hai!


Bấy giờ trở dậy thái khoai băm bèo
Vì chưng bác mẹ tơi nghèo
Cho nên tơi phải băm bèo thái khoai


Có thể nói nhân vật trữ tình trong ca dao là nhân vật mang nhiều tâm trạng. Nhân
vật trữ tình gắn với nhưng vai giao tiếp cụ thể và bị ràng buộc bởi các quan hệ ứng xử,
các quan niệm về văn hóa đạo đức. Trong các nhân vật ca dao thì người phụ nữ được nói
đến nhiều nhất với những ràng buộc của đạo tam tòng tứ đức, chế độ nam quyền. Ca dao
là một phương tiện để nói hộ tiếng lịng, tâm trạng của con người trong xã hội ngày xưa.



<b>2.Một khái niệm khác trong ca dao cũng thường được nhắc đến là các biểu</b>
<b>tượng. Có thể nói biểu tượng là những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho một lớp</b>
người, một dạng thân phận. Biểu tượng thường là những hình ảnh rất gần gũi với văn hóa
làng xã, văn hóa nơng nghiệp của người Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

của các ông chồng. Nếu là nữ, thì thường bàn đến sự tảo tần hơm sớm, lận đận vì chồng
con của người vợ, người mẹ:


-Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai


-Con cị lặn lội bờ sơng


Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
-Cái cị đi đón cơn mưa


Tối tăm mù mịt ai đưa cị về


Hình ảnh con cò vất vả thường kiếm ăn trên đồng ruộng dưới bờ ao. Con cò tuy lặn lội
nơi đồng nước nhưng vẫn trắng trong, thanh cao. Con cị vì thế cũng là biểu tượng cho
người nông dân một nắng hai sương vất vả trên cánh đồng:


-Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao


Ơng ơi ơng với tơi nao
Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng


Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lịng cị con



Cịn biểu tượng cái bống thì gắn liền với hình ảnh người phụ nữ. Cái bống nhỏ bé,
hiền hậu là hình ảnh cơ Tấm trong truyện cổ đã hóa thân thành những người phụ nữ hiền
lành, chịu thương chịu khó, đầy nhẫn nhục trong ca dao:


-Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng


Chị em ơi cho tơi mượn cái gàu sịng
Để tơi tát nước múc chồng tơi lên


Trong tình u đơi lứa,ca dao có nhiều biểu tượng để chỉ về nam và nữ như mận –
đào, mai – trúc,thuyền – bến, mây – núi, cam – quýt... để thể hiện không gian đẹp đẽ,
lãng mạn đầy thi vị trong tình yêu:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.


-Hơm qua sum họp trúc mai


Tình chung một khúc, nghĩa dài trăm năm
-Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền


-Núi kia tơ tưởng về mây


Phượng hồng tơ tưởng về cây ngơ đồng
-Vì cam cho qt đèo bịng


Vì em nhan sắc cho lịng nhớ thương



Có thể nói biểu tượng trong ca dao là vơ cùng phong phú với những hình ảnh gần
gũi của đồng ruộng, làng quên. Các biểu tượng tự thân nó chở những giá trị tình cảm của
con người nên chúng có một sức sống mạnh mẽ trong tiềm thức mỗi người Việt.


Trong các thể loại văn học dân gian, ca dao là một thể loại được rất nhiều người
yêu thích. Khơng ai là khơng thuộc ít nhiều ca dao vì nó lung linh vẻ đẹp văn hóa dân tộc.
Nhân vật và biểu tượng trong ca dao là những phạm trù rộng lớn phản ánh vẻ đẹp ấy.
Nhân vật và biểu tượng trong ca dao gợi nhắc đến đời sống sinh hoạt, đời sống tinh thần
của người Việt – chính vì vậy đã góp phần làm phong phú thêm tâm hồn, tình cảm và bồi
đắp tình yêu quê hương, tình yêu con người trong trái tim những người dân Việt./.


</div>

<!--links-->

×