Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.2 KB, 50 trang )

Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Chương I Ý Nghĩa Của Trang Phục Việt Nam
Việt Nam bao gồm nhiều dân tộc, trong đó người Việt có số dân đơng nhất và là một
trong những tộc người có gốc tích lâu đời trên dải đất này. Mỗi dân tộc mang đậm nét
một bản sắc văn hóa độc đáo. Do đó, trang phục nói chung của từng tộc người nói riêng
thật phong phú đa dạng và đầy tính năng qua từng thời kỳ của lịch sử Việt Nam từ trước
đến ngày nay.
Thơng qua cái nhìn lịch đại kết hợp với đồng đại, ta thấy trang phục người Việt, từ dạng
kiểu đơn sơ, giản dị, đẹp như tâm hồn người Việt cổ tiếp tục phát triển, hài hịa với mơi
trường khắc nghiệt của thiên nhiên nhiệt đới, khỏe khoắn với bao cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm liên miên. Trang phục người Việt là một trong những gì thân thiết nhất đối với
con người Việt Nam. Sự gắn bó có tâm hồn này chính là điều xuất phát từ những trái tim
yêu thương quê hương đất nước.
Trang phục là một nhu cầu vật chất quan trọng trong đời sống của nhân dân ta. Với tính
chất thực dụng, nó là một sản phẩm; dưới góc độ thẩm mỹ, nó lại là một tác phẩm. Chức
năng cơ bản trước nhất của nó là bảo vệ con người. Về mặt này, trang phục dân tộc Việt
đã đạt được hiệu quả cao.
Chúng tôi đã bước đầu trình bày về sự chun mơn hóa các chức năng của trang phục
người Việt trong lao động, hội hè, chiến đấu và các mặt khác. Chúng tơi muốn nói thêm:
đối với người Việt, trang phục cịn có chức năng phịng bệnh, trị bệnh. Với khí hậu ẩm
thấp của vùng nhiệt đới gió mùa, bệnh phong thấp phổ biến, người ta chọn gỗ đặc biệt
để làm guốc cho người già, vật liệu đặc biệt để làm mũ cho trẻ em. Thắt lưng và trang
sức, một vài thứ, cũng có tác dụng đó. Bên cạnh xu hướng này, một xu hướng thường
thấy ở người Việt là sử dụng một vật kiêm nhiều chức năng. Chiếc nón lá đã được nhiều
người đề cập đến. Chiếc khăn trùm đầu, còn để quàng cổ, vắt vai, làm khăn lau và gặp
lúc bất ngờ cũng có khi là vũ khí phịng hộ. Do đó, chúng ta thấy sự ra đời của đôi dép
cao su thời kháng chiến chống Pháp chẳng phải là sự kiện ngẫu nhiên, mà mọi sự sáng
tạo dựa trên cái gốc vững chắc của bản lĩnh dân tộc. Vấn đề đa chức năng của trang


phục người Việt, trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã là vì nghèo. Đi bộ vượt Trường
Sơn, dù là người giàu, với đôi dép lốp vẫn là phương thức tối ưu nhất.
Thời gian gần đây, nhiều người đề cập đến chức năng vệ sinh từ màu đen của chiếc
quần phụ nữ. Nếu chịu khó xét điều này trên quan điểm hệ thống, sẽ thấy rõ trong hoàn
cảnh kinh tế và lao động hiện nay, vấn đề không dễ dàng giải quyết ngay được. Mặt
khác, việc này còn gắn với thói quen thẩm mỹ, cịn liên quan đến phạm trù quan niệm,
chứ chưa hẳn đã là chuyện tiết kiệm, sợ tốn kém. Nhiều người chỉ thấy trang phục là đối
tượng của thị giác nên địi hỏi nó phải biểu hiện được những chuẩn mực cho sự nhìn. Để
đáp ứng yêu cầu này, trong suốt quá trình lịch sử, trang phục người Việt đã có sự chọn
lọc về hình dáng, kiểu thức, màu sắc, hoa văn trang trí, chất liệu. Nhưng nhìn qua bộ
trang phục của người Việt từ đầu thế kỷ XX trở về trước, chúng ta thấy rõ ngoài việc đáp
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



ứng u cầu nhìn, cịn có cả nghe, mùi vị và tất nhiên dẫn đến cả xúc cảm nữa. Có thể
nhắc đến trang phục của người Việt cổ ở Làng Vạc vào thời dựng nước với những âm
vang của chất liệu đồng thau cho đến bộ xà tích bạc đầu thế kỷ này. Phải chăng, tiếng
sột soạt của bộ áo váy mới cũng là sự dụng tâm thích thú của người mặc. Bên cạnh tầng
lớp giàu sang, quý phái biết sử dụng các loại hương liệu đắt tiền để ướp quần áo, nhân
dân thường dùng những thứ phổ biến như: hạt mùi để bọc áo khăn; lá mùi, lá sả... để gội
đầu, hoa bưởi, hoa nhài... để cài tóc. Việc chọn lựa các chất để nhuộm màu, cũng tạo
cho áo quần những mùi vị nhất định. Phần trong bài chúng tôi mới nói đến việc dùng dầu
xoa tóc, nhưng thật ra ở người Việt cịn có nhiều thứ dầu, rượu đặc biệt để xoa bóp cơ
thể nhằm chống cơn trùng, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ da... Sự hình thành những hương vị

này liên quan đến những tập quán ở từng địa phương nữa.
Trang phục người Việt còn được lưu ý dưới góc độ sử liệu. Một cái nhìn thống nhanh
qua áo quần cũng có thể giúp chúng ta khám phá ra được cái mà các nhà sử học gọi là
niên đại tương đối. Việc đoán định niên đại tuyệt đối của trang phục người Việt là chuyên
môn hẹp và sâu của rất ít nhà nghiên cứu. Nói chung với những sử liệu này, chúng ta có
thể ghi nhận được nhiều dấu ấn của các thời đại lịch sử. Tính đa dạng của trang phục
người Việt thể hiện rõ nhất qua từng địa phương. Có khi tính đa dạng này hồn toàn do
kỹ thuật. Nhân dân lao động với áo quần bằng vải, thường hay mặc trước rồi mới nhuộm
sau. Do thị hiếu và cũng vì lý do khách quan để cho bền màu, người ta thường nhuộm lót
trước: lót xanh cho màu đen, lót đỏ cho màu gụ v.v... Vì thế tuy chỉ cùng một bộ, nhưng
Đông Xuân, ta gặp nhiều người mặc màu cháo lòng, màu xanh, màu gạch non... đến Hè
Thu lại là những áo quần màu nâu, màu đen, màu gụ v.v...
Từ khi giành lại được quyền độc lập, tự chủ vào thế kỷ X, các vương triều phong kiến đã
lưu ý đến một sự thống nhất trong đa dạng, với những quy chế, thể lệ. Tính thống nhất
này cũng có thể nhận thức được qua tính giai cấp trên trang phục, ở từng mẫu áo, kiểu
quần, màu sắc, hoa văn, trang điểm. Trang phục thể hiện tôn ti, trật tự phong kiến, ngăn
cấm mọi sự vi phạm. Ngày nay, trang phục của Quân đội nhân dân đã "vượt khung" khỏi
phạm vi của một tộc người cụ thể, trở thành một sự thống nhất Việt Nam.
Đứng ở góc độ tin học, trang phục người Việt cịn là những đặc trưng chỉ định sự khác
biệt giữa người Việt và các dân tộc anh em trên đất nước ta, phân biệt được một số mặt
như nghề nghiệp, giới tính, thị hiếu thẩm mỹ... của từng vùng. Một cái nhìn khái quá
thông qua sự tiến triển thăng trầm của lịch sử giúp chúng ta khẳng định được bản lĩnh
vững vàng của phong cách người Việt. Khơng ít nhà nghiên cứu đã lưu ý đến tinh thần
đấu tranh chống đồng hóa của người Việt thông qua trang phục. Điều này đúng, nhưng
chưa đủ. Đối với kẻ thù xâm lược từ phương Bắc đem theo chủ trương đồng hóa triệt để
bằng cách bắt nhân dân ta thay đổi trang phục, đầu tóc, thì nhân dân ta ngoan cường
đấu tranh chống lại, nhiều khi rất quyết liệt. Thời cận đại, đối với bọn địch xâm lăng
phương Tây từ biển vào, những nhà nho u nước, ví dụ như Nguyễn Đình Chiểu vẫn
giữ phong cách: để búi tóc, mặc áo dài, đội khăn đóng, khơng dùng xà phịng... Nhưng
Liên hệ :


Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



đến một thời kỳ khác, nhân dân ta lại có phong trào cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn... Sự thay
đổi về mặt hình thức này lại là một phong trào tiến bộ, cho nên đã bị thực dân Pháp lái
sang những xu hướng thẩm mỹ về trang phục không lành mạnh. Khi đế quốc Mỹ nhảy
vào miền Nam Việt Nam, chúng lại khuyến khích nhân dân ta Mỹ hóa trang phục. Để đấu
tranh với bọn thực dân mới, chống lại cái "mới" lố lăng, cầu kỳ, xa lạ, phô trương..., nhân
dân các đơ thị miền Nam lại tìm cách trở về truyền thống.
Trong nước, thời phong kiến, đấu tranh với giai cấp thống trị, bản lĩnh của nhân dân ta
cũng theo một xu thế ấy. Ví dụ như chuyện cấm mặc váy của Minh Mạng. Về lý mà nói,
cái váy thời Hùng Vương của người Việt cổ đã rất đẹp. Cái quần là một mẫu trang phục
ngoại lai, chúng ta tiếp thu được từ các tộc du mục. Trong việc này, ngồi vấn đề chun
chế và dân chủ, cịn có chuyện tính bản địa và ngoại lai. Gần đây một thời kỳ, có cuộc
vận động, hơ hào phụ nữ nên mặc váy. Giới phụ nữ đã không chấp nhận. Nhưng ở nam
giới, ngày nay hầu hết đều mặc áo quần mà ta vẫn quen gọi là Âu phục. Đây là một dẫn
chứng cho thấy ở người Việt khơng hề có sự bài ngoại mù quáng. Họ có thể sẵn sàng
tiếp thu những mẫu mới từ bên ngồi một cách có ý thức và có sáng tạo để tồn tại lâu dài
hoặc chỉ với một thời gian nhất định, nhưng đều được Việt hóa nhanh hoặc dần dần từng
bước.
Trang phục cũng là một hiện tượng văn hóa về mặt vật chất, hay văn hóa vật chất. Các
chương trên đã cho thấy những điều kiện kinh tế, xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với
trang phục người Việt. Trước kia, bên cạnh nghề trồng lúa nước, nghề trồng dâu, nuôi
tằm là hoạt động sản xuất cơ bản trong đời sống của xã hội người Việt. Vào những thế
kỷ đầu Công Nguyên, nhiều người nước ngoài tiếp xúc với Lạc Việt đã phải thốt lên rằng:

cây bơng ở đây có thể giải quyết được áo chăn cho thiên hạ. Dĩ nhiên cách nói có phần
khoa trương nhưng đã lột tả được sự giàu có về nguyên liệu quan trọng này. Về hàng tơ,
chưa kể các loại trong Cung Đình, cho đến thế kỷ XVIII, chúng ta thống kê được gần 30
loại mặt hàng, mỗi loại cịn có nhiều kiểu khác nhau, ví dụ như gấm, có gấm the, gấm
láng, gấm mây, gấm hoa...
Đứng ở góc độ văn hóa tinh thần, trang phục cịn có ý nghĩa về ý thức chính trị, về đạo
đức con người, về quan niệm thẩm mỹ... Sự tự khẳng định mình thơng qua trang phục,
nhất là đối với thanh niên, là điều cần phải hướng dẫn, giáo dục hơn là phê phán, chỉ
trích. Như vậy, trang phục là một nhu cầu vật chất nhưng đồng thời còn là một hiện
tượng về văn hóa. Với quan điểm xây dựng nền văn hóa mới và con người mới là điều
cần và có thể thực hiện từng bước, từng phần ngay từ hơm nay, và "khơng phải trình độ
văn hóa của xã hội phụ thuộc một cách máy móc vào trình độ phát triển kinh tế", chúng ta
cần xác định dù xã hội ta cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng khơng nhất thiết phải chờ
đến khi thật giàu có, sung túc, lúc đó mới quan tâm đến vấn đề trang phục.
Dân tộc Việt có câu "Đói cho sạch, rách cho thơm" vừa là để nhắc nhở những yêu cầu cụ
thể cho cung cách ăn mặc, nhưng đồng thời cịn có mục đích giáo dục một phẩm chất
thanh cao, một nếp sống đạo đức, dù trong trường hợp nghèo, đói. Chúng ta không hẹp
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



hịi, bảo thủ trước sự phát triển, thay đổi các kiểu cách trang phục lành mạnh, nhất là
trong thanh niên, nhưng không thể công nhận những hiện tượng may mặc đua địi, chạy
theo "mốt" lố lăng, phơ trương, xa hoa, lãng phí... xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc. Đồng thời cũng cần phản đối hiện tượng cho rằng nền kinh tế của ta chưa phát

triển cao, nên có thể ăn mặc tùy tiện, cẩu thả, thiếu thẩm mỹ. Từ đó làm giảm giá trị cao
đẹp của con người và cịn có thể nảy sinh những hậu quả xấu về nhiều mặt. Vì trang
phục, trong những chừng mực nhất định, còn là phương tiện rất đắc lực của các quan
điểm tư tưởng, các ý đồ chính trị, khơng chỉ thuộc sở thích hay thị hiếu của cá nhân mà
đây là cả một vấn đề văn hóa, một vấn đề xã hội, có tác dụng góp phần thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội, góp phần xây dựng con người mới hoặc ngược lại.
Do đó, trang phục, là đối tượng của thị giác, một trong hai giác quan mà Các Mác cho
rằng nó dễ cảm nhận cái đẹp một cách tinh tế, phải là một biểu hiện bên ngoài của một
nội dung bên trong mang đầy đủ những chuẩn mực lành mạnh, hài hịa, thanh lịch, thực
tiễn...
Từ việc tìm hiểu trang phục của những người Việt cổ đến trang phục dân tộc Việt ngày
nay và trang phục của các tổ chức chung trong xã hội Việt Nam, chúng ta thấy rõ sự tiếp
nối vững vàng giữa truyền thống và hiện đại, trong điều kiện giao lưu văn hóa đa dạng và
thường xuyên đã có những sự sáng tạo nhuần nhị và cởi mở giữa tính dân tộc và tính
quốc tế. Ngày nay, tuy chưa có nhiều cuộc vận động cụ thể, sát sao và thường xuyên về
trang phục dân tộc Việt, cũng như nhân dân Việt Nam nói chung, nhưng từ các nghị
quyết lớn về kinh tế và văn hóa của Đảng, chúng ta có thể nhận thức được nội dung và
tính chất của những điều mà chúng ta đang quan tâm nằm trong phương hướng chung
về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Chương II Quan Niệm Về Mặc Và Nguồn Gốc Nông Nghiệp
Trong Chất Liệu May Của Người Việt Cổ
Đối với con người, sau ăn thì đến Mặc là cái quan trọng. Nó giúp cho con người đối phó
được với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu. Nhân dân ta nói một cách đơn giản :
Được bụng no, còn lo ấm cật .Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan niệm về mặc của
người Việt Nam trước hết là một quan niệm rất thiết thực : “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền và
Cơm ba bát, áo ba manh, đói khơng xanh, rét khơng chết”.
Nhưng mặc khơng chỉ để đối phó với mơi trường, mặc có một ý nghĩa xã hội rất quan
trọng : “Quen sợ dạ, lạ sợ áo”. Người ta hơn kém nhau nhiều khi bởi nó :
“Hơn nhau cái áo manh quần
Thả ra ai cũng bóc trần như ai”

và người ta khổ sở nhiều khi cũng vì nó:
“Cha đời cái áo rách này
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi!”
Mặc trở thành một nhu cầu khơng thể thiếu được trong mục đích trang điểm, làm đẹp cho
con người:
“Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa”.
Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu tượng của
văn hóa dân tộc. Mọi âm mưu đồng hóa sau khi xâm lăng đều bắt đầu từ việc đồng hóa
cách ăn mặc.
Từ nhà Hán cho đến Tống, Minh, Thanh, các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược
ln kiên trì dùng đủ mọi biện pháp buộc dân ta ăn mặc theo kiểu phương Bắc song
chúng ln thất bại. Các vua nhà Lí, Trần cho dạy cung nữ tự dệt vải, không dùng vải vóc
nhà Tống. Trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung viết : “Đánh cho
để dài tóc, đánh cho để đen răng...”
Vậy cái riêng trong cách mặc của người Việt là gì? Đó trước hết là cái chất nơng nghiệp,
mà chất nơng nghiệp thì thể hiện rõ nhất trong chất liệu may mặc.
Chất liệu may mặc, để đối phó hữu hiệu với mơi trường tự nhiên, người phương Nam ta
sở trường ở việc tận dụng các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của nghề
trồng trọt, cũng là những chất liệu may mặc mỏng, nhẹ, thống, rất phù hợp với xứ nóng.
Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong
những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá mới cách nay khoảng 5000 năm (như di chỉ Bàu

Tró), đã thấy có dấu vết của vải có dọi xe chỉ bằng đất nung. Cấy lúa và trồng dâu, nơng
và tang - đó là hai cơng việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam.
Người Trung Hoa từ xưa cũng đã luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa
phương Nam; trong chữ "Man" mà Trung Hoa xưa dùng để chỉ người phương Nam có
chứa bộ trùng chỉ con tằm.Từ phương Nam, nghề tằm tang đã được đưa lên phương Bắc.
Sách Hồng Đế nội kinh nói về việc này một cách hình tượng là "khi Hồng Đế chặt đầu
Si Vưu thi thần Tằm Tang dâng lụa cho ông" (hiểu là : khi bộ lạc phương bắc do Hoàng Đế
làm thủ lĩnh chiến thắng bộ lạc phương Nam do Si Vưu làm thủ lĩnh thì người phương Bắc
tiếp thu được bí quyết nghề trồng dâu ni tằm của phương Nam). Các sách cổ Trung
Quốc như Thủy kinh chú, Tam đơ phú, Tề dân yếu thuật đều nói rằng đến đầu công
nguyên, trong khi Trung Quốc một năm chỉ nuôi được 3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao
Chỉ, Nhật Nam, Lâm ấp một năm đạt được tới 8 lứa. Để có được nhiều lứa tằm trong
năm, tổ tiên ta đã lai tạo ra được nhiều giống tằm khác nhau phù hợp với các loại thời tiết
nóng, lạnh, khơ ẩm. Đây là một nghề hết sức vất vả cực nhọc : Làm ruộng ba năm không
bằng chăn tằm một lứa; Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng. Từ tơ tằm, nhân
dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất phong phú : tơ, lụa, lượt, là, gấm, vóc, nhiễu,
the, đoạn, lĩnh, dũi, địa, nái, sồi, thao, vân,... mỗi loại lại có hàng mấy chục mẫu mã khác
nhau.

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Đến TK XVI-XVIII, khi mà tơ lụa Trung Quốc sản xuất với số lượng nhiều đã chiếm lĩnh
thị trường thế giới thì tơ lụa Việt Nam vẫn được đánh giá rất cao do chất lượng của nó.

Năm 1749,
một người phương Tây là Poivre nhận xét: "Tơ lụa Đàng Trong so với Trung Quốc thì hơn
hẳn về phẩm chất và sự tinh tế. Tơ đẹp nhất là của vùng Quảng Ngãi. Người Trung Quốc
mua đi rất nhiều và kiếm lời được từ 10-15%". Trong số 27 mặt hàng chính mà Nhật Bản
nhập của Việt Nam thời kì này (ghi lại trong sách Hịa Hán tam tài đồ sương) thì riêng vải
lụa đã chiếm 11 mặt hàng. Thời thuộc Pháp, tơ lụa Việt Nam đã trở thành một nguồn lợi
to lớn. Riêng trong khoảng 1909-1913, hằng năm Việt Nam xuất sang Pháp 183,3 tấn tơ
lụa các loại. Theo điều tra của P- Gourou, trong số 108 nghề thủ cịng khác nhau có ở
đồng bằng Bắc Bộ vào năm 1935 thì nghề dệt đứng hàng đầu với tổng số trên 54 nghìn
thợ dệt. Ngồi tơ tằm, nghề dệt truyền thống của Việt Nam còn sử dụng các chất liệu
thực vật đặc thù khác như tơ chuối, tơ đay, gai, sợi bông .
Vải tơ chuối là một mặt hàng đặc sản của Việt Nam mà đến TK VI, kĩ thuật này đã đạt
đến trình độ cao và rất được người Trung Quốc ưa chuộng. Họ gọi loại vải này là "vải
Giao Chỉ". Sách Quảng chí chép : "Thân chuối xé ra như tơ, đem dệt thành vải... Vải ấy
dễ rách nhưng đẹp, màu vàng nhạt, sản xuất ở Giao Chỉ". Cho đến tận TK XVIII, loại vải
này vẫn rất được ưa chuộng, Cao Hùng Trưng trong sách An Nam chí ngun cịn ca
ngợi : "loại vải này mịn như lượt là, mặc vào mùa nực thì hợp lắm". Vải dệt bằng sợi tơ
đay, gai cũng xuất hiện khá sớm. Đất đai và khí hậu Việt Nam rất thích hợp cao những
loại cây này phát triển, tổ tiên ta không những biết tận dụng khai thác nguồn ngun liệu
sẵn có này mà cịn thuần dưỡng chúng thành loại cây trồng phổ biến. Sách Trung Quốc
thời Hán, Đường đều nói rằng đay, gai ở An Nam mọc thành rừng, dùng để dệt vải. Vải
đay gai bền hơn vải tơ chuối nhiều; đem cây đay gai ngâm nước cho thịt thối rữa ra, còn
lại tơ đem xe thành sợi dệt vải thì vải cũng mịn như lượt là . Sử sách nước ta ghi: "cứ
mỗi tháng vào ngày mồng một, thường triều đều mặc áo tơ gai ".Nghề dệt vải bơng xuất
hiện muộn hơn nhưng ít ra cũng từ các thế kĩ đầu công nguyên. Sách vở Trung Hoa gọi
loại vải này là vải cát bối. Sách Lương thư giải thích: "Cát bối là tên cây, hoa nở giống
như lông ngỗng, rút lấy sợi dệt thành vải trắng muốt chẳng khác gì vải đay". Kĩ thuật
trồng bơng dệt vải từ phương Nam du nhập sang Trung Hoa vào TK X đến TK XI, vải
bông trở thành mốt đến nỗi người Trung Quốc dương thời kêu là "vải bông mặc kín cả
thiên hạ".

Trong khi sở trường của phương Nam ta là các loại vải nguồn gốc thực vật thì người
phương Bắc có sở trường dùng da thú là sản phầm của nghề chăn nuôi làm chất liệu
mặc, thêm vào đó, da (và lơng) thú lại rất phù hợp với thời tiết phương Bắc lạnh. Mùa
lạnh ở Việt Nam, bên cạnh cách mặc đơn giản và rẻ tiền nhất là mặc lồng nhiều áo vào
nhau, người ta may độn bông vào áo cho ấm (áo bông, áo mền.. ). Người nơng thơn cịn
dùng loại áo làm bằng lá gồi, gọi là áo tơi mặc đi làm đồng vừa tránh rét,tránh mưa, vừa
tránh gió
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Chương III Cách Thức Trang Phục Qua Các Thời Đại
Tính Linh Hoạt Trong Cách Mặc Của Người Việt
Theo chủng loại và chức năng, trang phục gồm có đồ mặc phía
trên, đồ mặc phía dưới, đồ đội đầu, đồ đi chân và đồ trang sức.
Theo mục đích, có trang phục lao dộng và trang phục lễ hội.
Theo giới tính, thì có sự phân biệt trang phục nam và trang phục
nữ. Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi
phối bởi hai nhân tố chính, của mơi trường tự nhiên hoặc có
nguồn gốc từ mơi trường tự nhiên - đó là: khí hậu nóng bức của
Ảnh minh họa
vùng nhiệt đới và công việc lao động nông nghiệp trồng lúa nước.
>> Đồ mặc phía dưới
Đồ mặc phía dưới tiêu biểu hơn cả, ổn định hơn cả của người phụ nữ Việt Nam qua các
thời đại là cái váy.

Từ thời Hùng Vương, phụ nữ đã mặc váy, lối mặc đó được bảo lưu một cách kiên trì ở
nhiều nơi cho tới tận giữa thế kỉ này. Nó là đồ mặc điển hình của cả vùng Đơng Nam Á
và phổ biến đến mức, ở một số dân tộc Đông Nam Á, không chỉ phụ nữ, mà cả nam giới
cũng mặc váy. Sở dĩ như vậy là vì mặc váy khơng chỉ mát, đối phó được một cách có
hiệu quả với khí hậu nóng bức, mà cịn rất phù hợp với cơng việc đồng áng.
Là thứ đồ mặc phía dưới đặc thù của phương Nam, chiếc váy khác hắn với chiếc quần
có nguồn gốc từ gốc du mục Trung Á : thứ đồ mặc này phù hợp với công việc chăn nuôi
cưỡi ngựa và khí hậu phương Bắc giá lạnh. Với âm mưu đồng hóa, phong kiến Trung
Hoa đã nhiều lần muốn đưa chiếc quần vào thay thế cho chiếc váy của phụ nữ nước ta.
Đến thời thuộc Minh, chiếc quần phụ nữ có lẽ đã phổ biến được ở một bộ phận thị dân.
Bởi vậy mà vào năm 1665, vua Lê Huyền Tông đã phải ra chiếu chỉ cấm phụ nữ : không
được mặc quấn để bảo tồn quốc tục mặc váy. Trong khi đó đến cuối TK. XVII, để tạo nên
sự đối lập với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở trong Nam đã lệnh cho trai gái Đàng Trong
dùng quần áo Bắc quốc (Trung Hoa) để tỏ sự biến đổi. Thành ra chiếc quần gốc du mục
cuối cùng đã thâm nhập vào miền Nam sớm hơn miền Bắc. Đến năm 1828, vua Minh
Mạng tiếp tục học theo Trung Hoa một cách triệt để, ra chiếu chỉ cấm dân mặc váy, và đã
gây nên một sự phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng ở vùng Bắc Hà. Phản ứng bởi lẽ
người dân Việt rất tự hào về chiếc váy, rất tự tin vào bản sắc và bản lĩnh văn hóa của
mình : “Cái trống thì thủng hai đầu. Bên ta thì có , bên tàu thì khơng!”
Đối với nam giới, đồ mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố là một mảnh vải dài quấn
một hoặc nhiều vòng quanh bụng và luồn từ trước ra sau, đi khố thường thả phía sau
(cũng có khi thả về phía trước). Khố mặc mát, phù bợp với khí hậu nóng bức và dễ thao
tác trong lao động. Vì vậy, nó khơng chỉ là đồ mặc điển hình thời Hùng Vương mà cịn
được duy trì ở bộ phận dân chúng khá lâu về sau này. Thời Nguyễn các sắc lính tuy
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ




phân biệt với nhau bằng màu của thắt lưng (lễ phục) hoặc xà cạp (thường phục), nhưng
vẫn dược gọi là "khố": lính khố xanh (địa phương), lính khố đỏ (quân thường trực), lính
khố vàng (phục vụ vua). Ngày nay, tuy nam giới khơng cịn đóng khố, nhưng do sự chi
phối của khí hậu, lối cởi trần mặc độc một chiếc quần đùi (quần xà lỏn) lúc ở nhà vào
mùa nóng ở người lớn cũng như trẻ con, nông thôn cũng như thành thị, thực ra cũng
chẳng khác cách mặc cởi trần đóng khố thời Hùng Vương bao xa!
Khi chiếc quần gốc du mục thâm nhập vào thì nam giới là bộ phận tiếp thu nó sớm nhất.
Điều này thật dễ hiểu, bởi lẽ nam giới (dương tính) hướng ngoại nên dễ hấp thụ văn hóa
bên ngồi hơn. Quần đàn ơng có hai loại : quần lá tọa và quần ống sớ. Quần lá tọa cho
ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần (miền Nam gọi là lưng quần) to bản. Khi mặc,
người ta buộc dây thắt lưng ra ngoài cạp rồi thả phần cạp thừa phía trần rủ xuống ra
ngồi thắt lưng (vì thế nên có tên gọi là "lá tọa"). Quần lá tọa chính là loại quần được
sáng tạo phù hợp với mơi trường khí hậu nóng bức của ta (do có ống rộng nên mặc mát
chẳng thua kém gì cái váy của phụ nữ), và có thể sử dụng rất linh hoạt thích hợp với lao
động đồng áng đa dạng - ở mỗi loại ruộng khác nhau (ruộng cạn, ruộng nước, nước
nơng, nước sâu), người đàn ơng có thể điều chỉnh cho ống quần cao hoặc thấp rất dễ
dàng bằng cách kéo cạp (lưng) quần lên hoặc xuống (chính vì vậy mà quần có đũng
sâu). Ngày lễ hội, nam giới dùng quần ống sớ : quần màu trắng có ống hẹp, đũng cao
gọn gàng, đẹp mắt.
>> Đồ mặc phía trên
Đồ mặc phía trên của phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm.
Yếm là đồ mặc mang tính chất thuần tuý Việt Nam, thường do phụ nữ tự
cắt-may-nhuộm lấy, với nhiều kiểu cổ, nhiều màu phong phú: yếm nâu để
đi làm thường ngày ở nông thôn; yếm trắng thường ngày ở thành thị; yếm
hồng, yếm đào, yếm thấm... dùng vào những ngày lễ hội. Yếm dùng để
che ngực cho nên nó trở thành biểu tượng của nữ tính (khi giặt phải phơi
phóng ở chỗ kín đáo), và có sức quyến rũ mãnh liệt:

Ảnh minh họa

“Ba cơ đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư
ốm lăn ơm lóc cho sư trọc đầu...”
Yếm và những bộ phận của yếm trở thành biểu tượng của tình yêu:
“Yếm trắng mà vã nước hồ;
Vã đi vã lại anh đồ yêu thương”;

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Để đối phó với khí hậu nóng bức, phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong bóng râm, dù là vào
thời Hùng Vương hay là đầu TK. XX vẫn thường mặc váy-yếm với hai tay và lưng để
trần. Phụ nữ nhiều dân tộc ít người đến nay vẫn mặc váy cởi trần.
Đàn ơng khi lao động thì thường cởi trần. Các thành ngữ "váy vận, yếm mang" (đối với
phụ nữ) và "cởi trần đóng khố" (đối với nam giới) miêu tả rất chính xác trang phục lao
động truyền thống. Cách mặc với mục đích đối phó với mơi trường tự nhiên này dần dần
trở thành một quan niệm về cái đẹp của người Việt Nam cổ truyền: “Đàn ơng đóng khố
đi lươn. Đàn bà yêm thắm hở lườn mới xinh”. Khi lao động và trong những hoạt động
bình thường, nam nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ tà hai bên
hơng hoặc bít tà; ngồi Bắc gọi là áo cánh, trong Nam gọi là áo bà ba, áo có đính cúc
nhưng phụ nữ khi mặc thường không cài cúc vừa để cho mát, vừa để hở cái yếm trắng

làm duyên.
Dịp lễ hội, người Việt thường mặc áo dài , từ TK. XIX đến sau 1945 ở miền Trung và
Nam, cũng như ở một số vùng miền Bắc, người ta mặc áo dài thường xuyên, kể cả khi
lao động nặng nhọc, áo dài phụ nữ phân biệt áo tứ thân và năm thân. Phổ biến hơn cả là
áo tứ thân. Áo tứ thân may từ bốn mảnh vải, hai mảnh sau ghép liền ở giữa sống lưng,
đằng trước là hai tà (vạt) áo khơng có khuy; khi mặc bỏ buông hoặc buộc thắt hai vạt vào
nhau. Theo sách Văn hiên thông khảo của Mã Đoan Lâm. ở Giao Chỉ thời xưa, "người có
địa vị
trong xã hội đều mặc áo dài... Lễ lạt thì mặc thêm áo rộng màu thẫm trùm lên, gồm có
bốn vạt, gọi là tứ thân ". Áo năm thân cũng may như áo tứ thân, chỉ có điều vạt trước
phía trái may ghép từ hai thân vải, thành ra rộng gấp đôi vạt phải, để bên ngoài, gọi là vạt
cả, đè lên vạt phải để bên trong, gọi là vạt con. Với cái áo năm thân có vạt trái lớn hơn và
nằm ngồi vạt phải, ta lại bất gặp một biểu hiện đầy thú vị của triết lí coi trọng bên trái
(bên Đơng, bên nông nghiệp) hơn bên phải (bên Tây, bên du mục). Cùng với ý nghĩa này,
người Việt cổ cịn có tập quán cài cúc áo bên trái (người Trung Hoa gọi lối mặc cài khuy
bên trái của ta là tả nhậm); về sau ở đàn ông, lối mặc này đã bị thay bằng lối mặc cài
khuy bên phải của Trung Hoa.
Dịp hội hè, phụ nữ xưa hay mặc áo lối mớ ba, mớ bảy, tức là mặc nhiều áo cánh lồng
vào nhau. Tuy nhiên, với phong cách tế nhị, kín đáo truyền thống, người phụ nữ Việt mặc
cái áo dài màu thâm hoặc nâu phía bên ngồi lấp ló bên trong mới là các lớp áo cánh
nhiều màu (vàng mỡ gà' vàng chanh, hồng cánh sen, hồng đào, xanh hồ thủy....). Ở Nam
Bộ. nơi khí hậu nóng quanh năm, "áo mớ" dược thay bằng áo cặp (2 cái.).
Về mặt màu sắc. màu ưa thích truyền thống của người miền Bắc là màu nâu gụ - màu
của đất; màu ưa thích của người Nam Bộ là màu đen - màu của bùn; người xứ Huế thì
ưa màu tím trang nhã. Mấy chục năm gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây, màu sắc
trang phục đã trở nên hết sức đa dạng. Tuy nhiên, trong quan niệm nhân dân thì màu
hồng, màu đỏ vẫn là màu của sự may mắn, tốt đẹp, màu "đại cát". Ở nông thôn hiện nay,
Liên hệ :

Mobile : 0984986309



Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



khi làm lễ cưới trước bàn thờ gia tiên, chú rể có thể mặc âu phục (nam giới dương tính
hướng ngoại), cịn cơ dâu thường vẫn mặc áo dài màu đỏ hoặc hồng chứ không mặc
màu trắng là màu mà truyền thống Việt Nam.
Do ảnh hưởng sự giao lưu với phương Tây, từ những năm 30 của thế kỉ này, chiếc áo dài
cổ truyền được cải tiến dần thành chiếc áo dài tân thời. Khởi đầu từ những sáng kiến của
hai họa sĩ Lê Phổ và Cát Tường, với sự sàng lọc, bổ sung, sửa đổi của người sử dụng,
chiếc áo dài tân thời đã trở thành một sản phẩm sáng tạo tập thể, nó kết hợp được một
cách xuất sắc truyền thống dân tộc với ảnh hưởng Tây phương: bên cạnh những cải tiến
đáng kể theo hướng tăng cường phô trương cái đẹp cơ thể một cách trực tiếp kiểu Tây
phương (dương tính hóa) (như đa dạng hóa về màu sắc; áo được thu gọn cho ôm sát
thân làm nổi ngực, bó eo hơn; bỏ áo cánh, áo lót và xẻ tà áo hai bên sườn cao hơn cho
hở lườn,... ) thì áo dài tân thời lại cũng đồng thời kế tục và phát triển cao độ phong cách
tế nhị, kín đáo cổ truyền (âm tính hóa): trong khi áo tứ thân cổ truyền buông hai vạt trước
bay phấp phới thì áo dài tân thời ghép hai thân trước thành một vạt dài kín đáo hơn;
trong khi áo tứ thân cổ truyền để hở ngực yếm, hở cổ thì kiểu áo dài tân thời dược ưa
chuộng nhất là kiểu có cổ nhỏ cao... Nhờ vậy, chiếc áo dài tân thời khiến cho người phụ
nữ mặc nó nhìn chung và nhìn từ phía trước hết sức kín đáo đoan trang mà vẫn khơng
kém phần quyến rũ. Cịn nếu nhìn nghiêng từ bên hơng thì càng thấy sức quyến rũ tăng
lên gấp bội phần. Chính sự khêu gợi một cách tế nhị kín đáo, tính cách dương ở trong
âm đặc biệt này vừa đáp ứng được yêu cầu của thời đại, lại vừa duy trì được bản sắc
dân tộc, khiến cho chỉ trong một thời gian ngắn, chiếc áo dài tân thời đã được phổ biến
rộng rãi với các phong cách địa phương Hà Nội, Sài Gòn, Huế và trở thành biểu tượng
cho y phục truyền thống Việt Nam.
Đàn ông vào dịp hội hè cũng mặc áo dài, thường là áo the đen. Giới thượng lưu thì mặc

áo dài cả trong sinh hoạt thường ngày.

>>Đồ đội đầu, đồ trang sức
Bên cạnh hai bộ phận cơ bản là đồ mặc trên và dưới (quần áo
sống áo), trang phục Việt Nam cịn có những bộ phận khác khơng
kém điển hình như thắt hơng, đồ đội đầu, đồ trang sức. Thắt lưng
(thường làm bằng vải) là bộ phận phụ với mục đích ban đầu phục
vụ cả nam lẫn nữ là giữ cho đồ mặc dưới khỏi tuột (với mục đích
Liên hệ :
Ảnh minh họa

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



này, thắt lưng có thể bằng một sợi dây, gọi là dải rút), rồi phát sinh thêm mục đích giữ áo
dài cho gọn. Và mục đích thứ ba là tơn tạo cái đẹp cơ thể của phụ nữ. Các bà các chị còn
dùng thêm thắt lưng bao (còn gọi là ruột tượng) để kiêm nhiệm mục đích thứ tư là làm túi
dựng đỗ vặt (tiền, trầu cau....).
Khi lao động đồng áng, người Việt Nam thường di chân đất, khi hội hè hoặc ở thành thị.
thì đi dép (theo chất liệu có dép da, dép dừa, dép cói, dép cao su,...), đi guốc (làm bằng
gỗ), đi hài (đối với phụ nữ), đi giày (đối với nam giới). Trên đầu thường đội khăn. Phụ nữ
trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng một mảnh vải dài cuộn lại dể trên đầu (gọi là cái vấn
tóc), đi tóc để chứa ra một ít gọi là tóc đi gà : “ Một thương tóc để đi gà. Hai
thương ăn nói mặn mà có dun”. Nguyễn Nhược Pháp trong bài thơ Chùa Hương đã
miêu tả rất chính xác trang phục của có gái q : “Khăn nhỏ, đuôi gà cao- Em đeo giải
yêm đào- Quần lĩnh, áo the mới - Tay em cầm chiếc nón quai thao..”

Có thể phủ ra ngồi cái vấn tóc là cái khăn vng, chít hình mỏ quạ vào mùa lạnh (có mỏ
nhọn phía trước. hai đầu buộc dưới cằm) hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng (như khăn
mỏ quạ, nhưng hai đầu buộc ra sau). Đàn ông trước đây để tóc dài búi lại thành một búi
trịn trên đầu gọi là búi tó, búi củ hành. Khi làm lụng, người đàn ơng vấn khăn đầu rìu, lúc
sang trọng thì đội khăn xếp. Người Nam Bộ thường đội khăn rằn .
Trên khăn hoặc thay cho khăn là nón để che mưa nắng. Nón thường có khung tre và lợp
lá gồi. Nón chóp nhọn đầu; nón thúng rộng vành; nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh
dẻ hơn - các loại nón này đều phải có quai để giữ, nón quai thao (làm bầng vải thao) là
loại phổ biến hơn cả. Huế nổi tiếng với nón bài thơ - một loại nón mỏng giơ lên ánh sáng
nhìn thấy những hình trang trí bên trong (xưa có bài thơ). Mũ là loại đồ đội đầu ơm sát và
kín tóc (miền Nam gọi chung cả mũ nón là "nón"). Vua xưa đội mũ miện; quan văn xưa
đội mũ cánh chuồn (có hai. cánh hai bên); tướng ra trận đội mũ trụ (bằng chất liệu cứng
để chống binh khí); sư sãi và người già đội mũ ni (có diềm che kín tai và gáy, bởi vậy mới
có thành ngữ "mũ ni che tai"); trẻ con đội mũ thóp (để bảo vệ thóp thở ở đỉnh đầu); sau
này cịn có mũ lưỡi trai, mũ ca-lơ, mũ cát.
Về cách trang sức thì từ thời Hùng Vương, người Việt Nam đã rất thích đeo vịng - vịng
tai. Vịng cổ, vịng tay, vịng chân (vịng tai có thể nặng làm trễ dái tai xuống, dẫn đến tục
căng tai ở một số dân tộc miền núi). Lối tư duy tổng hợp truyền thống luôn là nguồn gốc
của một nếp sống thiết thực : khi ăn thì kết hợp để chữa bệnh. ngay cả khi làm đẹp.
Người Việt Nam cũng luôn kết hợp sao cho cái đẹp đó có ích cho cuộc sống, cho sức
khỏe. Thời Hùng Vương có tục xăm mình theo hình cá sấu để nó khỏi làm hại (tục này
đến tận thời Trần vẫn được duy trì). Tục nhuộm răng đen có tác dụng vừa để bảo vệ răng
vừa để trang điểm (ca dao có câu : Răng đen ai nhuộm cho mình - Để duyên mình đẹp,
để tình anh say). Tục ăn trầu để đỏ mơi và để trừ sơn lam chướng khí, cũng rất phổ biến
là tục nhuộm móng tay, móng chân bằng thảo mộc (lá móng) để trừ tà ma và để làm đẹp.
Như vậy, trong việc trang phục, người Việt Nam đã có cách ứng xử rất linh hoạt đặng đối
phó với khí hậu nhiệt đới nóng bức và cơng việc nhà nơng làm ruộng nước. Cách may
Liên hệ :

Mobile : 0984986309



Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



mặc, cùng với chức năng đối phó với mơi trường tự nhiên, cịn ln hướng tới mục đích
làm đẹp cho con người; nhưng đó ln là một cái đẹp tế nhị, kín đáo

Chương IV Trang phục thời Hùng Vương
Cách đây khoảng 4.000 năm vào thời đại đồng thau phát triển, nước Việt Nam thời
đó gọi là nước Văn Lang. Người dân ở đây đã sinh sống bằng săn bắn, hái lượm và trồng
trọt. Họ không dùng vỏ cây làm áo nữa mà đã biết trồng gai, đay, nuôi tằm, ươm tơ, dệt
vải. Vào thời kỳ này đồ đồng rất phong phú. Trống đồng và nhiều tượng phù điêu bằng
đồng có khắc họa những cảnh sinh hoạt thời đó với những hình người, với các loại trang
phục khá rõ nét và được thể hiện bằng phong cách nghệ thuật biến hình, cách điệu cao.
Qua đó, ít nhiều đã cho thấy trang phục của người thời đó khá
phong phú như phụ nữ mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực, bó sát
vào người, phía trong mặc yếm kín ngực, chiếc yếm cổ trịn sát
cổ, có trang trí những hình tấm hạt gạo. Cũng có những loại áo
cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín
ngực, hở một phần vai và trên lưng. Hai loại sau có thể là loại
mặc chui đầu hay cài khuy bên trái. Trên áo đều có hoa văn
trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm trang trí cách đều nhau
quấn ngang bụng.
Qua những hiện vật khảo cổ đã tìm được cho thấy trang
phục của đàn bà và đàn ông như sau:
- Đàn bà mặc váy (váy kín "váy chui" và váy mở "váy ngắn").
- Đàn ơng thường đóng khố và cởi trần.
Do điều kiện khí hậu và sinh sống, người dân thường lên rừng săn bắn, hái lượm hay

xuống biển bơi lặn đánh cá, hoặc làm ruộng nước vất vả nên đầu tóc phải gọn gàng. Vì
vậy, đàn ơng và đàn bà phải cắt tóc ngắn đến ngang vai hoặc một số ít cắt ngắn đến chân
tóc. Về trang phục của chiến binh thì gồm mảnh giáp hình chữ nhật dùng để che ngực có
4 quai đeo. Đai lưng bằng đồng có khóa to bản, được hình thành bởi nhiều các móc được
liên kết với nhau. Trên bề mặt mỗi miếng đều có họa tiết hình rùa hay chim. Các loại bao
ống tay, bao ống chân bằng đồng có thể được dùng trong các điệu múa ngày lễ, ngày hội
(xem ảnh). Về hình thức trang sức và trang điểm của người Việt cổ thì nam nữ đều xâu lỗ
tai và đeo đồ trang sức. Các loại vịng tai phổ biến của hai giới là hình trịn, hình vành
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



khăn, hình khối đặc biệt là loại vịng hoa tai gắn quả nhạc hay đơi hoa tai bằng đá, hình
con thú. Những chuỗi hạt thường thấy gồm các loại hạt hình trụ, trái xoan, hình cầu. Cịn
vịng tay với nhiều hình khác nhau như: trịn, vng, chữ nhật, lịng máng, sóng trâu... có
trang trí hoa văn hình lơng chim hay bơng lúa.
Ngồi ra cịn nhiều nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay cũng gắn quả
nhạc dài xinh xắn. Tuy đồ trang sức cịn thơ sơ, nhưng với điều
kiện chế tác hạn chế ta thấy con người thời đó đã có trình độ thẩm
mỹ và óc tưởng tượng cao, đã quan tâm đến vấn đề làm đẹp cho
thân thể, đồng thời thể hiện bàn tay khéo léo, cần cù lao động. Đàn
ông thường vẽ lên mình những hình ngoằn ngo, hình móc câu,
đó là tục xâm mình phổ biến. Đàn ơng và đàn bà đều nhuộm răng
đen và có tục ăn trầu.
Nghiên cứu các kiểu trang phục, trang sức, trang điểm thời Hùng Vương, ta tìm hiểu

được khía cạnh về đời sống, mối quan hệ xã hội thời đó. Mặt khác, ta cịn chắt lọc ra
những yếu tố thẩm mỹ làm tơn vẻ đẹp con người gắn bó với thiên nhiên, hài hòa với đất
nước non trẻ, với xã hội vào thời kỳ đầu dựng xây.
Chương V Trang Phục Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
Vào nửa sau thế kỷ III trước Công Nguyên, Thục Phán, một thủ lĩnh người Âu Việt
từ miền trên đã tràn xuống đánh chiếm nước Văn Lang, thống nhất hai lãnh thổ, dựng
nên nước Âu Lạc, dời đô từ miền núi xuống đồng bằng. Thời kỳ này đồ sắt phát triển.
Trong thời kỳ đất nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm lược, cai trị, cộng với ba lần bị phong
kiến phương Bắc thống trị hơn một ngàn năm (207 trước công nguyên - 939), nhân dân
ta một mặt đấu tranh với kẻ thống trị, nhưng một mặt vẫn tích cực phát triển sản xuất.
Nghề dệt đã có những phát triển quan trọng. Nghề trồng dâu nuôi tằm đã phổ biến và
còn sản xuất được các loại vải bông thô, vải đay, vải gai, vải cát bá loại mịn, lụa... Đã
biết dùng tơ tre, tơ chuối dệt thành vải. Vải dệt từ tơ chuối có tên gọi là vải Giao Chỉ.
Khăn bông được thêu thùa rất đẹp gọi là bạch diệp. Ngồi ra, cịn làm nhiều đồ trang
sức bằng vàng, bạc (vòng tay, nhẫn, hoa tai, trâm), bằng ngọc (vòng, nhẫn), bằng hổ
phách, bằng thủy tinh (chuỗi hạt). Đã từng phải cống cho triều đình phương Bắc loại mũ
"đầu mâu" hoàn toàn bằng bạc (khảo cổ học đã phát hiện được nhiều kiểu khóa thắt
lưng, chứng tỏ tục mang tai rất phổ biến).
Đến triều đại nhà Đinh (968 - 980), về trang phục, sử sách đời sau chỉ nhắc đến
một số rất ít hiện tượng như (năm 974) qn lính "đều đội mũ chỏm", bằng, bốn bên
hình vng (Mũ làm bằng da, bốn cạnh khít lại, trên hẹp dưới rộng), gọi là mũ "tứ
phương bình đỉnh". Hoặc "Năm Thái Bình thứ sáu (975) Đinh Tiên Hồng định phẩm
phục của các quan văn võ". Hoặc (năm 980) ở một bức thư của nhà Tống gửi cho triều
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ




đình ta có nói tới việc nhân dân ta thời đó đều cắt tóc ngắn. Hoặc có nhắc đến mũ của
các đạo sĩ là màu vàng, áo của các nhà sư là màu thâm, các quan được dùng ấn vàng
thì thắt lưng dải tím, được dùng ấn bạc thì thắt dải xanh.
Sang thời (tiền) Lê (981 - 1009), ta thấy: Vua Lê Đại Hành lên ngôi mặc áo long
cổn, về sau áo mặc thường dùng vóc đỏ, mũ trang sức trân châu.
Lê Ngọa Triều, (1006) đổi lại phẩm phục cho các quan văn võ và tăng đạo, theo
đúng như nhà Tống.
Như vậy là suốt thời gian dài này, tư liệu và hiện vật về trang phục để lại rất hiếm.
Kể cả về sau, những tài liệu thành văn cũng chỉ chủ yếu nói về trang phục trong Triều
Đình (nhắc đến tên mũ, tên áo, màu sắc... chứ không miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ). Một số hiện
vật bằng gỗ, đá để lại nói chung hình nét khơng được rõ lắm.
Dù sao trong vài chục năm trị vì, các vua Đinh, Lê cũng đã giành sự quan tâm đến
lĩnh vực trang phục, đặc biệt là mũ áo Triều Đình. Nhìn chung, ít nhiều thấy có sự kế
thừa hoặc sáng tạo về hình loại, kiểu cách, màu sắc nhưng đáng trách hơn cả là sự sao
chép một cách nô lệ, lười biếng của vua Lê Ngọa Triều tạo một tiền đề lai căng cho
những kiểu mẫu trang phục về sau.
Tuy nhiên, trong những thời kỳ chế độ phong kiến ổn định, thì càng về sau, trang
phục cũng đã dần dần được qui định cho từng thành phần trong xã hội (vua, quan,
dân...) cho mọi nghi thức trong cuộc sống (cưới, tang, lễ, hội...). Căn cứ trên hình thức,
màu sắc, họa tiết... trong trang phục, ở từng giai đoạn, sự phân biệt mang tính chất giai
cấp đã được hình thành rõ rệt

Chương VI Trang Phục Triều Lý
a.Trang phục triều đình
Triều đại nhà Lý (1009 - 1225), kinh đô từ Hoa Lư dời về thành Đại La và gọi là Thăng
Long.
Năm
1054,

đặt
tên
nước

Đại
Việt.
Năm 1029, vua Lý Thái Tông định quy chế mũ áo của các công hầu và các quan văn võ.
Nhưng chắc việc quy định này cịn chưa chặt chẽ kể cả về hình thức trang phục và cách
thức sử dụng. (Theo tư liệu để lại, các quan triều Lý một thời gian vẫn đeo cái túi có hình
cá bằng lụa đỏ và bằng vàng, ít nhiều còn ảnh hưởng lối trang sức của nhà Tống).

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Năm 1040, nhà vua chủ trương dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục mà khơng
dùng gấm vóc của nhà Tống nữa. Số gấm vóc của nhà Tống cịn lại trong kho thì phát
hết ra may áo cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên: áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở
lên, áo bào bằng vóc. Điều này biểu thị chí tự cường, tự lập của dân tộc đã khá cao.
Năm 1059, vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan. Vào chầu vua, các quan
phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu. (Mũ này có 4 góc, 4 tai, sau làm 2 tai ngang, tức
mũ cánh chuồn, có thể là kiểu mũ từ thời Đinh, sau thêm tai), mặc áo bào tía, cầm hốt
ngà, thắt đai da. Lệ đội mũ phác đầu, đi hia bắt đầu có từ thời này.
Qua võ phục thời Lý, ta bắt gặp những dạng hoa văn, những hình xoắn, hình móc...
thường thấy trong lĩnh vực trang trí, hội họa thời đó. Những biểu tượng cho thiên nhiên,

cuộc sống được khắc lại trên trang phục của những nhân vật tượng trưng cho sức mạnh
là một đặc điểm hài hịa rất có ý nghĩa. Các vũ nữ, tóc thường búi cao lên đỉnh đầu, trên
trán có một điểm trang trí, mái tóc điểm những bơng hoa, tay đeo vịng, cổ đeo những
chuỗi hạt, mặc váy ngắn có nhiều nếp.
Trang phục của nhạc cơng cũng khá độc đáo. Mũ chùm kín tóc, phía trên mũ được làm
cao lên và trang trí các diềm uốn lượn. áo cánh trong: tay dài và chít ở cổ tay. Bên ngoài
là một chiếc áo, cộc tay. Quanh cổ áo có chiếc vân kiên (như chiếc yếm dài) chùm cả một
phần ngực, lưng và vai. Quanh bụng đeo những miếng diềm vải rộng có trang trí nhiều
đường thêu đẹp. Bụng chân quấn xà cạp và chân đi giày vải mũi nhọn.Thời gian này vẫn
cịn tục xăm mình. Từ vua đến quân sĩ ai cũng xăm mình. Quân cấm vệ xăm vào ngực
và chân những dấu hiệu riêng và được phép xăm hình rồng lên người.
b. Trang phục nhân dân
Thời Lý có lệnh cấm người dân mặc áo màu vàng (1182), con gái dân gian không được
bắt chước kiểu búi tóc như cung nhân.
Những pho tượng trịn hoặc tượng đắp nổi bằng đá của thời Lý còn lại cũng chứng minh
quần áo thời đó đã được may theo quy cách, bằng nhiều loại vải tốt và mịn. Ở thời Lý,
đàn bà thường đeo khuyên bạc, vũ nữ thường búi tóc cao và buộc diềm hoa trên đầu gợi
lại hình ảnh trang điểm ở tượng người phụ nữ trên cán dao găm, trên chuôi kiếm ngắn từ
thời Hùng Vương, hoặc các võ tướng cịn đính nhiều quả nhạc trên áo giáp biểu hiện ý
thức "nhớ nguồn", chứng minh tinh thần tiếp nối và phát huy truyền thống.
Cùng với những hoa văn, họa tiết trang trí trên trang phục, những hoa văn, họa tiết thời
Lý ở các hiện vật khác không chỉ là yếu tố trang trí nghệ thuật mà cịn có nhiều ý nghĩa
tượng trưng, như những hình dạng xoắn ốc đơi, chính là ký hiệu mây mưa mà ơng cha ta
vẫn cầu mong mưa thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt, như hình tượng con rồng thời Lý
là "rồng rắn" một đồ án trang trí đẹp và độc đáo, tượng trưng cho nguồn gốc lịch sử dân
tộc, vòng uốn lượn mềm mại của thân rồng tượng trưng cho nguồn nước và mây mưa, là
niềm

ước
của


dân
lúa
nước.
Nghiên cứu trang phục và hoa văn, họa tiết thời Lý như trên, ta thấy một ý nghĩa đặc biệt

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



là nó đã phản ánh được mối tương quan thống nhất trong đời sống kinh tế, quân sự, văn
hóa... của xã hội thời đó khá rõ nét
Chương VII Trang Phục Triều Trần
Triều Lý suy vong, triều Trần nối tiếp (1225 - 1400). Đất nước Đại Việt thời Trần, với ý chí
sắt đá tự lập tự cường của triều đình và của toàn dân, xây dựng trên nền tảng truyền
thống dân tộc, trên những chiến công ba lần chống xâm lược Nguyên - Mông, đã phát
triển mạnh mẽ nhiều mặt. Về nghề dệt, thời gian này nhân dân ta đã có nhiều loại vải
bông, vải gai, lụa, lĩnh, sa, the, nái, sồi, đoạn, gấm, vóc... Nghề thêu cũng phát triển.
a. Trang phục triều đình
Năm Hưng Long thứ 8 (1300), quan võ dùng kiểu mũ áo mới. Quan văn đội mũ chữ đinh
màu đen. Tụng quan đội mũ toàn hoa (mũ hoa thủng có hai vịng vàng đính ở hai bên)
màu xanh như kiểu cũ. Cửa tay áo các quan văn, võ rộng từ 9 tấc đến 1 thước 2 tấc,
kiểu hẹp từ 8 tấc trở xuống thì khơng được dùng. Các quan văn võ không được mặc
xiêm. Tụng quan không được mặc thường.
Sau đó (1301) lại cho phép các quan đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía

pha màu biếc (bịt lên đầu dùng để buộc chân tóc lại, bỏ thừa về đằng sau).
Vương hầu nào tóc dài thì đội mũ triều thiên, người nào tóc ngắn thì đội bao cân (1303).
Có lẽ đây là loại khăn chùm đầu màu xanh thẫm mà Trần Phu đã nhắc đến trong bài An
Nam
tức
sự
(1294).
Đến năm 1395, Lịch Triều tạp kỷ lại quy định mũ áo của các quan văn, võ. Nhất phẩm thì
màu tía, nhị phẩm: màu đại hồng, tam phẩm: màu đào hồng, tứ phẩm, ngũ phẩm: màu
lục, thất phẩm: màu biếc, bát, cửu phẩm: màu xanh. Người khơng có phẩm hàm và nơ
bộc: màu trắng. Người hầu trong cung thì mặc váy mở, không dùng xiêm.
Các quan theo hầu, chức văn từ lục phẩm trở lên được đội mũ cao sơn (chánh lục
phẩm: mũ màu đen, tòng lục phẩm: màu xanh). Chánh lục phẩm được mang đai, đi hia.
Người tôn thất đội mũ phương thắng màu đen. Chức võ, lục phẩm đội mũ chiết xung,
tước cao màu khơng có
chức được mang đai và đội mũ giác đính, thất phẩm đội mũ thái cổ, tịng thất phẩm đội
mũ tồn hoa. Vương hầu đội mũ viên du. Ngự sử đài đội mũ khước phi. Nhà vua búi tóc,
dùng theo bọc và buộc lại, trông như khăn nhà đạo sĩ, chỉ rộng hơn một ít, cịn tóc ở hai
bên thì vẫn để lộ ra và xõa xuống. Các quan được mặc áo bào và cầm hốt. Có những
trường hợp đi chân đất.
b. Trang phục nhân dân
Triều đình thời Trần mấy lần quy định chế độ mũ áo cho các quan văn, quan võ, cịn đối với nhân
dân khơng thấy nêu những điều lệ cụ thể. Duy chỉ được biết là trong nhân dân, trừ phụ nữ khơng bị
cấm, cịn khơng ai được mặc màu trắng. Ai mặc màu trắng là phạm pháp. Có thể đây là để giành

Liên hệ :

Mobile : 0984986309



Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



riêng màu trắng cho những người tôi tớ trong cung, tránh sự lẫn lộn trong xã hội? Các màu xanh,
đỏ, vàng, tía, cũng khơng dùng.
Đàn bà thường mặc áo tứ thân màu đen, trong lót vải trắng để may viền vào cổ áo, rộng
khoảng 13cm, cắt tóc để lại chừng 10cm rồi buộc túm lên đỉnh đầu, xong uốn cong đi
tóc và buộc lại lần nữa hình giống như cây bút, khơng để tóc mai, khơng búi tóc phía sau
đầu, khơng đeo vịng khun. Những người giàu thì cài trâm đồi mồi, cịn thì cài trâm bằng
xương hoặc sừng, khơng dùng phấn sáp hay xoa dầu.
Đàn ông thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen, cổ áo tròn bằng the, quần mỏng
bằng lụa thâm. Đại đa số cạo trọc đầu (kể cả trẻ em). Có người chùm đầu bằng khăn lụa.
Ngày thường ở nhà, chỉ để đầu trần, khi tiếp khách mới đội chăn, khi ra đường mang
khăn theo, đều đi đất, cũng có người đi giầy da, nhưng khi vào cung vua thì cởi ra. Trong
nhân dân vẫn phổ biến tục nhuộm răng đen và ăn trầu.Tục xăm mình thời Trần rất phổ
biến, đạt đến trình độ nghệ thuật, và đã có thợ chun vẽ hình.
Trong khi qn đội thời Trần đều thích lên cánh tay hai chữ "Sát Thát", thì nhân dân Đại
Việt, nhiều người, dù là người đã có con cháu, cũng xăm lên bụng những chữ "Nghĩa dĩ
quyên khu, hình vu báo quốc" thể hiện tinh thần vì việc nghĩa liều thân, báo đền ơn nước.
Xăm mình, thích chữ vừa là truyền thống, vừa là thi hành lời thề thiêng liêng, vừa thể
hiện một tinh thần thượng võ. Đồng thời, đó cũng là một hình thức trang điểm trên thân
thể phản ánh quan niệm về cái đẹp của người đương thời.
Nhìn nhận chung, trang phục thời Trần có những sắc thái đặc biệt, nó khơng tách rời ảnh
hưởng của một nguyên lý thẩm mỹ xuất phát từ tinh thần thượng võ Đông A, bắt nguồn
từ truyền thống dựng nước, giữ nước oanh liệt của dân tộc. Trong vòng 30 năm ba lần
so gươm, đọ dáo với một kẻ thù khét tiếng hung hãn đang "làm cỏ" nhiều nước trên thế
giới, quân dân Đại Việt, với lịng u nước nồng nàn, với sức mạnh đồn kết chặt chẽ,
với trí thơng minh sáng tạo, đã phải thường xuyên cảnh giác, thường xuyên rèn luyện,
liên tục chiến đấu ngoan cường và đã giành được thắng lợi huy hoàng. Thực tế khách

quan ấy không cho phép một sự cầu kỳ, phức tạp, tản mạn... trên mọi hình thái đời sống
xã hội thời ấy, trong đó có phần trang phục, trang sức. (Ví dụ như phụ nữ khơng trang
điểm diêm dúa cho tới về sau khá lâu, vua quan đều ăn mặc giản dị...).
Chương VIII Trang Phục Triều Nguyễn
Triều Nguyễn (1802 - 1945), vương triều cuối cùng của giai cấp phong kiến nước ta, càng
về sau càng phản động với bộ máy thống trị lạc hậu, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ huy
của thực dân Pháp.
Đầu thời Nguyễn, trang phục của vua quan cũng được quy định tỉ mỉ như ở những triều
đại phong kiến trước và có một cơ quan chun trách: Bộ lễ, song nó đã khơng mang
được sắc thái riêng của dân tộc. Sự pha tạp những yếu tố Đơng Tây, Âu Á trong hình

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



dáng và họa tiết, nhằm mục đích phơ trương hình thức, thể hiện uy quyền của đẳng cấp
thống trị, cho nên không thể nào tránh được sự lố bịch, lai căng.
Vua Gia Long lên ngôi năm 1802. Trang phục của vua, có mũ miện, áo long cổn, xiêm,
đai,
hia,
hốt...
- Mũ miện, thân mũ hình trịn ống, đan bằng dây thau, rộng hẹp tùy cỡ đầu, mặt ngồi
bọc lụa màu huyền, trong lót lụa màu đỏ. Đặt lên trên thân mũ là một ván gỗ mỏng hình
chữ nhật, cạnh trước và cạnh sau đeo 24 dây tua bằng vàng, xâu 300 hột san hô, trân
châu, pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính hai chữ vạn thọ bằng vàng. Xung quanh thân

mũ có 12 hình rồng vàng, 6 hình ngọn lửa cũng bằng vàng. Lại dát hình hoa sen và đám
mây bằng 256 hột vàng. Khi đội mũ, dùng một khăn chít ở trán để đội cho chặt (võng
cân). Khăn dệt bằng tơ vàng.
- Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh thiên, cổ tròn bằng đoạn bát ty màu quan lục, trong
lót lụa trắng. Thân áo thêu nhiều họa tiết: mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng v.v... Vạt áo
thêu rồng, mây, hình sóng nước... Tay áo cũng có họa tiết hình hai con rồng quay đầu
xuống. Bên trong mặc áo đơn màu bạch tuyết, cửa tay thêu hình rồng mây.
- Xiêm bằng sa màu vàng bóng, dưới viền gấm, thêu các họa tiết: ngọn lửa, hạt gạo,
hình phất, hình phủ... lại cịn đính các thứ ngọc bội, khánh ngọc, ngọc huỳnh, hạt vân
mẫu, san hô, hổ phách... Khi đi lại, các thứ đó va chạm vào nhau, phát ra âm thanh rủng
rẻng.
Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một miếng ngọc hình vng, xung quanh
gắn sáu viên ngọc trắng hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt châu ngọc, bên trong có sáu
khuy để đính vào áo.
Hia, ngồi bọc đoạn màu đen, trong lót đoạn màu đỏ. Xung quanh thêu hình rồng, mây,
đính ngọc, kim cương và những miếng kính cùng nhiều thứ khác. Hốt (cầm tay) của vua
bằng ngọc, dài một thước hai tấc (khoảng 40cm), ngang ba tấc (khoảng 10cm), có túi
gấm
đựng.
Năm 1806, vua Gia Long ban chiếu quy định phẩm phục đại triều và thường triều cho các
hàng văn võ, tóm lược như sau:
* Phẩm phục đại triều Văn giai:
Các quan từ trên nhất phẩm đến chánh thất phẩm, tùng thất phẩm đều đội mũ cánh chuồn
tròn, nhưng tùy cấp bậc thấp, cao mà được đính ít hay nhiều vàng, bạc, đá quý... ởtrên
mũ.
áo, mãng, bào cổ trịn. Chức cao nhất thì màu tía rồi đến hàng thấp: màu lục, lam,
xanh...Đai, thân màu đỏ, trang sức vàng, ngọc, bạc, đồi. Hia, màu đen, mũi vuông. Tất
viền gấm.
* Phẩm phục thường triều Văn giai:
Từ trên nhất phẩm đến chánh tam phẩm, tùng tam phẩm: đội mũ văn cơng, trang sức

bằng vàng có hai dải đính ngọc kim hoa. áo bằng sa đoạn, màu xanh, lục, lam, đen v.v...
Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



hoặc thêu hoa, cổ chéo, màu trắng. Xiêm thêu chim hạc, xen hoa màu đỏ. Hia, tất giống
như phẩm phục đại triều Văn giai.
Từ chánh tứ phẩm, tùng tứ phẩm đến chánh, tùng lục phẩm (tán giai): đội mũ kiểu Đông
pha. áo bằng sa đoạn, màu xanh, lam, lục... Bố tử nền đỏ, thêu chim công, (cháng, tùng
tứ phẩm), thêu vân nhạn (chánh, tùng ngũ phẩm), thêu ngỗng trắng (chánh, tùng lục
phẩm).
Chánh thất phẩm, tùng thất phẩm đến chánh cửu phẩm, tùng cửu phẩm (tán giai): đội mũ
văn tú tài. áo: kiểu may, màu sắc và hia tất giống cấp bậc trên. Bố tử, bậc chánh: nền đỏ,
bậc tùng: nền xanh, thêu hình chim cị. Xiêm màu xanh, lục tùy ý nhưng hai bên không
thêu hoa chùm.
Ở thời nhà Nguyễn, càng về sau trang phục của giai cấp phong kiến, đặc biệt là ở tầng
lớp trên, càng biểu hiện một sự lố lăng, pha tạp, nhằng nhịt đến rối mắt.
Ví dụ như hình ảnh một ơng vua: Vua Khải Định mặt áo dài đến đầu gối, cổ đứng cao. áo
mở giữa nhưng bó lấy người bằng một thắt lưng to bản và một dải vải vắt chéo thân
người. áo thêu rồng, mây, sóng nước rối rắm. Cổ tay chẽn lại bằng miếng đáp như "măngxét" áo sơ mi. Hai vai đeo ngù. Đầu đội nón chóp. Chân đi giầy da đen bóng và ống chân
được bó lại như kiểu đi "ghệt" nhưng lại thêu rồng. Trên nón, trên áo, trên thắt lưng... đều
có đính rất nhiều vàng ngọc. Ngực đeo thẻ bài, khánh... bên cạnh các loại "mề đay" to
nhỏ. Có cái "mề đay" đeo xuống tận đùi. Đeo kiếm Tây nhưng vỏ kiếm lại chạm các hình
hoa lá phương Đơng...
Về trang phục của binh lính thời đó, ta thấy: lính trong triều thường mặc áo thân dài. Loại

quan ở cấp bậc trên, áo được may bằng vải tốt, có họa tiết hay trơn. áo có nẹp khác màu
ở vịng quanh tai, mép tà, gấu áo, cửa tay. Lính hầu vua quan mặc áo cài cúc giữa, có
nẹp hai bên tà từ ngực đến suốt chiều dài của thân áo. Thắt lưng vải buộc ngồi áo dài
nhân dân gọi là lính khố vàng, vì vải màu trắng cháo lịng. Mặc quần ta, dưới chân bó xà
cạp. Chân đi dép da trâu hoặc đi đất. Đầu đội mũ hay khăn theo phẩm trật. Lính hầu thì
đội
nón
sơn
nhỏ

chóp
nhọn.
Ngồi ra cịn có lính khố xanh, khố đỏ. Gọi là lính khố xanh vì loại lính này thắt lưng
xanh. Gọi là lính khố đỏ vì loại lính này thắt lưng đỏ. Thắt lưng bằng vải, thắt phía trong
áo và bng xuống trước bụng một đoạn ngắn khoảng 20cm.
Nói chung lính đều mặc áo cánh ngắn, cổ đứng, cao, cài cúc giữa, tay áo hẹp, ở gần cửa
tay áo có đính phù hiệu chữ V bằng màu đỏ hay vàng hoặc kim tuyến để chỉ cấp bậc là
cai, đội hay quản v.v... Quần như quần nhân dân nhưng phía dưới bó xà cạp. áo quần
màu vàng cỏ úa. Đầu đội nón dấu nhỏ hay nón đĩa đan bằng tre quang dầu. Nón đĩa rộng
như cái mẹt con, đường kính khoảng 25cm, phía sau có đính vải để che gáy và hai bên
tai tránh nắng. Chân đi dép da trâu mỏng, có quai chéo chữ V và một quai quàng.
Giai đoạn này, lính người Việt tham gia quân đội Pháp được trang phục theo kiểu cách
quân đội viễn chinh Pháp quy định.

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ




Nhìn vào hệ thống trang phục của vua, quan nhà Nguyễn như trên, người ta đã thấy
được thực chất tham vọng của những con người mặc nó. Ví dụ như trên bề mặt nhỏ hẹp
của một chiếc áo lai căng, vua Nguyễn đã cho thêu vẽ đầy họa tiết rồng, mây, hoa, lá,
sóng nước, vàng bạc, châu báu... như muốn thu cả đất trời, của cải về mình. Cái nón
dân tộc giản dị, trang nhã được gắn đầy ngọc ngà, đối lập với đôi "ghệt" Tây phương,
trông thật là lố bịch. Còn trang phục các quan, hầu như là một sự sao chép trang phục
triều đình phương Bắc.

Chương IX Trang Phục Từ CM Thang 8 Tới Nay
Lịch sử đất nước có những thay đổi lớn lao: Cách mạng Tháng Tám (1945) thành cơng
rồi sau đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ.
Vào thời kỳ này, trong nhân dân, người già như trẻ lại. Họ mặc những bộ quần áo
mới đi học, đi mít tinh. Lớp trẻ cảm thấy lớn lên, ghé vai đảm đương công tác cách
mạng. Nhiều người cất áo the, khăn đóng, mặc áo cánh hoặc sơ-mi gọn gàng hơn. Phụ
nữ nhà giàu bớt diêm dúa, đi theo chị em lao động làm việc công ích. Công nhân áo
trắng, quần yếm xanh, nông dân quần áo nâu mới. Đặc biệt, lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng
(nhất là các em ở thành thị), các em mặc đồng phục, tập trung hội họp, ca hát... bước
đầu làm xóa ranh giới giữa con "ơng chủ", con "chị sen", con "ông đốc", con "anh thợ"
của những ngày hôm trước.
Chương X Văn Hóa Mặc Của Người Đàn Ơng Việt
Cách ăn mặc của người đàn ông Việt cổ
truyền ở vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, một
vùng văn hóa gốc và là cái nơi sinh thành dân
tộc Việt có rất nhiều nét đặc sắc. Cách ăn
mặc của cư dân đàn ông trồng lúa ở đây,
trước hết cũng vẫn là một ứng xử văn hóa
trong việc thích ứng với thiên nhiên vùng

châu thổ Bắc Bộ, vốn là một vùng văn hóa
độc đáo và đặc sắc, bao gồm lưu vực sông
Hồng, sông Thái Bình và sơng Mã. Ở đây có
cả bốn mùa Xn, Hạ, Thu, Đông. Tuy nhiên,
hai mùa nổi bật nhất ở Bắc Bộ vẫn là mùa
đông và mùa hạ, thể hiện nét đặc thù khí hậu
Trang phục của người đàn ơng Việt xưa thất thường của vùng này: gió mùa Hè nóng
ẩm, hầm hập. Gió mùa Đơng giá buốt, làm rét run cầm cập, cắt ruột cắt gan. Vì vậy, cả

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



đàn ông đàn bà đều ưa màu sẫm, nhất là màu nâu đất, với các loại biến tấu, từ nâu non
đến nâu già... Đàn bà đi làm bận váy thâm, áo nâu yếm nâu đã đành, đàn ông đi làm,
trong lúc ứng phó với cái nắng nóng ghê gớm của châu thổ Bắc Bộ vào mùa hạ, khi lao
động "hai sương một nắng" trên cánh đồng, thường để lưng trần cho "lộ thiên" hồn tồn
phần trên cịn phía thân người dưới, thì đóng khố. Thời xưa, đàn ơng Việt thì "cởi trần
đóng khố", cịn đàn bà Việt thì "váy vận yếm nang", là những đồ mặc phổ biến nhất trong
mùa nóng bức, khi cả đàn ông, đàn bà phải làm lụng "chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa".
Thế nhưng, sau đó, cách mặc này lại được nâng cấp lên thành cái đẹp trong văn hóa
mặc của người Việt cổ truyền. Đàn ơng đóng khố đi lươn được coi là đẹp nhất trong
cách mặc, ngang với đàn bà yếm thắm hở lườn... và nhất định như thế... mới xinh. Sau
này, nam giới ít để lưng trần hơn, họ cũng mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, lúc xẻ tà, lúc
bít tà, với cách gọi của châu thổ sông Hồng là áo cánh, cịn ở châu thổ sơng Cửu Long,

người Nam Bộ kêu là áo bà ba. Tuy nhiên đồ mặc phía dưới của nam giới với ban đầu là
chiếc khố và đóng khố, sau đã phát triển thành chiếc quần (một phần cơ bản là do cuối
thế kỷ XVII, để tạo nên sự đối lập với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã lệnh cho trai gái
Đàng Trong "dùng quần áo Bắc Quốc" (Trung Hoa) để tỏ sự biến đổi. Còn xa hơn nữa,
ngay từ thời Bắc thuộc, phong kiến Trung Hoa đã muốn thay thế hồn tồn đồ mặc phía
dưới của người Việt bằng chiếc quần, cho cả nam lẫn nữ).
Theo sách Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần
Ngọc Thêm thì nam giới người Việt là bộ phận
dương tính tiếp thu chiếc quần vào văn hóa
mặc sớm nhất và cũng nhờ thế mà chiếc quần
thâm nhập ngày càng mạnh vào văn hóa mặc
truyền thống của Việt Nam. Dĩ nhiên, người
Việt vốn là một dân tộc thiết thực trong cách
mặc, họ (nam giới) khơng bê ngun bằng
cách "sao y bản chính" chiếc quần "ngoại lai"
mà họ đã "nội hóa", đúng hơn là đã "Việt hóa"
nó thành chiếc quần lá tọa. Cũng theo mô tả
Trang phục của người đàn ông Việt xưa của sách Cơ sở văn hóa Việt Nam ở trên, quần
lá tọa của nam giới người Việt là một thứ quần ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần
(lưng quần) to bản. Khi mặc, người đàn ông buộc dây thắt lưng ra ngồi, rồi thả phần cạp
thừa phía trên rũ xuống lịe xịe ra ngồi thắt lưng (vì thế, gọi là lá tọa). Quần lá tọa, do đó
tuyệt đối thích hợp với khí hậu nắng nơi nóng bức của Việt Nam, bởi ống rộng nên đàn
ơng mặc nó mát mẻ khơng kém gì đàn bà Việt mặc váy. Sáng kiến này cịn làm cho đàn
ơng Việt khi mặc loại quần thống mát này, đã "đa dạng hóa" được loại hình lao động, bởi
nhờ có cái quần đũng sâu mà các ông có thể điều chỉnh dễ dàng cho ống quần cao thấp
bằng cách kéo cạp quần lên cao hoặc tiện thoải mái trên các loại ruộng cạn, đồng sâu,
ruộng khô, ruộng nước...Xem ra nếu quần lá tọa đã tuyệt nhiên thích hợp với nam giới

Liên hệ :


Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



trên cánh đồng thì trong khi đi trảy hội, hoặc tham dự lễ lạt, người đàn ông Việt đã phải
chế ra một loại quần khác. Đó là quần ống sớ: màu trắng, ống hẹp, đũng cao gọn ghẽ
hơn, mà cũng dễ coi hơn là quần lá tọa. Cũng phải vậy thôi, vì nam giới người Việt cũng
thực thi những nguyên tắc cổ truyền của dân tộc trong cái khéo ăn khéo mặc : khéo ăn thì
no, khéo co thì ấm. Đó cịn là cái cốt lõi của văn hóa ứng xử với đồ mặc, của người Việt
trong sự ứng phó linh hoạt với môi trường tự nhiên. Và trong sự phát triển về văn hóa mặc
của đàn ơng Việt cổ truyền, về sau này, đàn ông Việt vào dịp hội hè đình đám, đã tiến tới
mặc áo dài, thường là áo the thâm. Nam giới ở tầng lớp thượng lưu còn mặc cả áo dài
trong sinh hoạt hàng ngày nữa...
Chương XI Trang Phục Tơn Giáo
Hiện nay, nước ta có nhiều tơn giáo nhưng có hai tơn giáo lớn đang tồn tại với qui
mơ tổ chức chặt chẽ với số lượng tín đồ khá đơng. Đó là Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
Trong tơn giáo, vấn đề trang phục cũng có nhiều điều cần giới thiệu.
Trang phục Phật giáo
Phật giáo ở nước ta chia làm hai tông phái: Bắc tông và Nam tông.
- Các nhà sư Bắc tông (ở các chùa miền Bắc) mặc loại vải thô màu nâu (nhuộm
bằng củ nâu). Về sau này đã dùng loại vải tốt, mịn hơn và có thể nhuộm bằng thuốc
nhuộm. Ở trong nhà, mặc áo cánh ngắn nâu, quần nâu, nam cũng như nữ (gần đây sư
nam mặc cả sơ-mi nâu). Ra đường hoặc khi có việc chùa, mặc áo dài tương đối rộng,
khơng căng ngực, cổ trịn đứng, mềm, cài khuy kín cổ, khuy tết bằng vải nâu. Lúc làm lễ
các sư bậc thấp mặc áo tràng vạt nâu, tay rộng, cổ chéo có nẹp rộng khoảng 5 cm. Các
sư bậc cao mặc áo tràng vạt màu vàng (loại sắc). Bên ngồi cịn khoác một tấm vải gọi
là áo cà sa màu nâu hoặc màu vàng (loại sắc) tùy theo cấp bậc. Ngoài ra còn loại áo cà

sa nhiều màu để dùng khi chạy đàn.

Áo cà sa là một miếng vải gần như hình vng mỗi chiều
rộng khoảng từ 2 m đến 3 m. Đây không phải là một tấm vải liền
mà là do nhiều miếng ghép lại theo qui cách nhất định. Trong
kinh Phật cịn gọi là y pháp, gồm có các loại: y ngũ điều, y thất
điều, y cửu điều, y thập nhất điều v.v...Y ngũ điều là do 5 mảnh
(điều) ghép lại, y thất điều là do 7 mảnh (điều) ghép lại v.v... Mỗi
loại dành cho từng trường hợp sử dụng.
Mô tả một tấm y ngũ điều, ta thấy như sau: Tùy theo chiều cao của người mặc, y
ngũ điều có thể dài từ 1,6m đến 1,9m. Chiều ngang là năm miếng vải - tức là "điều" mỗi "điều" có bề ngang là 40 cm. Nhưng năm "điều" không nối liền với nhau mà giữa hai

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



"điều" lại có một dải vải bề ngang 5 cm ngăn cách (gọi là "cách"). Trên từng "điều" theo
chiều dọc xuống, cịn chia ra làm hai phần khơng đều nhau do miếng "cách" ngăn ra.
Phần dài hơn gọi là "trường", phần ngắn gọi là "đoản". Ở "điều" thứ nhất: "đoản" ở trên,
"trường" ở dưới thì ở điều thứ hai: "trường" lại ở trên, "đoản" ở dưới v.v..., tức là có sự
sắp xếp so le "trường" và "đoản" giữa các "điều". Nhìn một y (áo) bao giờ các "đoản"
cũng ở trên, để các "cách" (ngang) với số lượng nhiều hơn ở phía trên cho đẹp mắt. (Y
ngũ điều có ba "cách" ở trên, hai "cách" ở phía dưới).
Ở y thất điều lại được bố trí nhất "đoản", nhị "trường". (Trong "điều" thứ nhất là một
"đoản" hai "trường", đến điều thứ hai: hai "trường" một "đoản" v.v...). Viền quanh y là

một nẹp rộng 10 cm gọi là riệp. Ở mép vải phía trên của bất cứ y nào, ở khoảng 2/3
chiều ngang tính từ trái sang phải, cũng có một cúc tết bằng vải khâu trên một miếng vải
hình nửa cánh quạt (dài 9 cm). Cúc này được cài vào một khuyết (cũng được khâu ở
giữa miếng vải hình hai cánh quạt) ở đoạn chiều dọc bên trái tấm áo, cách mép vải trên
khoảng 20 cm. Cách mặc này là khi nhà sư khoác chéo áo, hở một cánh tay. Khi cúc cài
vào khuyết, hai hình nửa cánh quạt chập vào nhau, cạnh đó lại có một dải vải trang trí
nữa, rất đẹp. Miếng vải nhỏ trên đó có cúc, có khuyết được gọi là bàn đà.
Khi choàng áo này, người mặc cần buộc vào nhau hai dây vải trên hai bàn đà khác
hình vng đặt ở gần khoảng giữa tấm áo, dưới mép vải trên. Choàng và buộc dây
xong, hai tay sẽ thường xuyên nâng hai bên tấm vải, coi như hai ống tay áo rất rộng.
Theo truyền thuyết trong đạo Phật, chiếc áo cà sa hình thành là do từ những miếng
vải lẻ của nhân dân tứ phương lịng thành góp lại cho người tu hành. Khi có nhiều mảnh
vải rồi, các nhà sư thỉnh xin đức Phật cho biết nên may áo
theo kiểu cách nào. Nhân đi qua một cánh đồng, đức Phật liền
chỉ tay và truyền may theo hình các thửa ruộng. Cũng vì lẽ đó
mà tấm áo cà sa còn tên gọi là tấm pháp phúc điền, ý cầu
mong lúa gạo nhiều, chúng sinh no ấm.

Loại áo cà sa nhiều màu (xanh, đỏ, tím, vàng, nâu...) cũng
may theo qui cách như áo cà sa một màu, nói lên ý nghĩa tấm
áo nhà chùa là do nhiều nhà đóng góp, mỗi nhà một mảnh,
một màu khác nhau.
- Các nhà sư Nam tông, trang phục không may thành quần, áo như phái Bắc tông
mà chỉ dùng vải vàng hoặc nâu quấn, vắt trên người với các kiểu khác nhau. Có các
hình thức sau đây:
1. Y nội: (cịn gọi là y an đà hội) có tác dụng như quần áo lót gồm hai miếng vải.
Miếng thứ nhất rộng 40 cm, dài từ 1m - 1,5m vắt từ trước ngực qua vai trái, qua lưng,
chéo xuống sườn phải. Ở gần hai đầu vải có dải nhỏ để buộc lại với nhau. Miếng thứ
Liên hệ :


Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



hai để nguyên khổ vải (từ 70cm - 90cm), chiều dài 1,5m, quấn quanh bụng, đầu vải dắt
vào mép vải cho chặt (như chiếc váy).
2. Y vai trái (còn gọi là y uất đà la tăng). Mặc y vai trái cần theo một trình tự như
sau: khốc tấm vải ra sau lưng, tay phải cầm mép vải (bên phải) luồn từ sau nách phải
ra trước ngực rồi vắt phần vải còn lại qua vai trái (như vậy là cánh tay phải và cả hai vai
phải để hở ra). Còn đoạn vải bên trái vắt chùm lên phần vải trước, qua vai, bng xuống
phía ngực.
Ra đường, áo khơng được để hở vai và tay mà mặc theo trình tự như sau: Quàng
tấm vải từ sau lưng ra phía trước hai mép vải luồn dưới hai nách, chụm hai mép vải ở
trước ngực. Cho tay trái vào trong giữ ở đoạn vải cách ngực khoảng 40cm tạo một
khoảng trống ở trước ngực. Xong lại kéo đoạn vải ấy tì vào ngực và dùng tay phải cuộn
tròn từ hai mép đầu tấm vải vào dần cho đến đoạn tay trái đang giữ, thành một cuộn
trịn dài thẳng đứng (tay phải cũng tì vải vào ngực mới cuộn dễ dàng được). Sau đó,
nhờ có khoảng trống ở trước ngực, người mặc kéo mép vải trên lên đầu với mục đích
cho mép vải phía dưới cao đến mắt cá chân. Tiếp tục vắt cuộn vải lên vai trái, đưa luồn
dưới nách từ sau ra trước, cánh tay trái cặp chặt lại là xong. Như vậy, cánh tay trái sẽ
khơng được tự do cử động bình thường.
Về đồ đội, xưa kia có loại nón riêng cho nhà sư gọi là nón tu lờ. Nón làm bằng lá
gồi, gần như chiếc mũ rộng vành. Ngày nay không phân biệt, đi nắng, các sư ông đội
mũ lá, mũ cát, có thời gian đội kiểu mũ hướng đạo nâu. Trời rét đội mũ len màu nâu,
hình trịn ống, trên chiết khít lại, hay đan kiểu nổi múi nhỏ như hình bụt ốc trên đầu các
tượng Phật. Các sư bà đội nón bình thường. Các nhà sư Nam tơng khơng đội mũ, khi ra
đường, nếu cần dùng ô màu vàng hoặc ô màu đen.

Nhất thiết các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Riêng nữ có khăn chít đầu. Đây là
miếng vải dài 80 cm rộng từ 50 cm đến 60 cm, màu nâu như màu quần áo. Khi đội khăn
xếp, gấp mép khăn (từ 5 cm đến 10 cm) theo chiều dài, chùm khăn lên đầu, mép chỗ
gấp để trước trán, hai đầu khăn đưa ra phía sau rồi vắt chéo nhau ở gáy, nhét một phần
vải hai bên ở đầu khăn vào trong, ở ngay sau hai tai.
Lúc làm lễ chạy đàn, nhà sư còn đội một loại mũ nhiều màu hình hoa sen, gọi là mũ
thất Phật, gồm có bảy cánh, mỗi cánh thêu một hình Phật hay hình hoa sen, hình chữ
phạn...
Tất cả các sư sãi Bắc tông đều đeo chuỗi hạt, gọi là tràng hạt. Có thể là một chuỗi
dài hoặc hai, ba chuỗi ngắn, nhưng nhất thiết có 108 hạt, tượng trưng cho 108 quả bồ
đề. Lần tràng hạt để mong bỏ đi 108 điều phiền não, điều xấu trong cõi đời trần tục.
Các nhà sư phái Nam tông không đeo tràng hạt.

Liên hệ :

Mobile : 0984986309


Tìm hiểu về phục trang Việt qua các thời kỳ



Trang phục Thiên Chúa giáo
Trang phục Thiên Chúa giáo ở Việt Nam thường thấy như sau:
Ngồi những tín đồ có sao mặc vậy (nhưng vẫn thường dùng áo màu đen), tầng
lớp học sinh học ở các tiểu chủng viện trước đây bắt buộc phải mặc áo dài bằng vải
màu đen, quần trắng. Ngày nay có thể mặc quần áo bình thường nhưng màu sắc khơng
được sặc sỡ. Tóc cắt ngắn (thường là húi "cua", không được chải chuốt).
Qua bậc trung học, lên đến đại chủng viện, bình thường mặc áo dài đen, quần
trắng. Khi lên nhà thờ hay ở cuộc lễ nghi nào đó, với chức Thày, đã được mặc áo chùng

đen rộng, dài chấm gót chân. Tay áo rộng, thẳng đều. Cổ áo trịn, khơng cao lắm, và
được lót ở trong một khoang vải hồ cứng màu trắng. Ở trước ngực áo có xẻ một đoạn
để chui đầu, xỏ tay. Suốt từ cổ đến gấu áo, chạy dài một hàng khuy to.
Lên chức Cha, trừ khi ở trong phòng riêng, bước ra ngoài là Cha phải mặc áo
chùng đen. Khi Cha mới chịu chức, phải cắt trịn một ít tóc trên đỉnh đầu. Sau để tóc
cũng được, nhưng khơng được để tóc dài. Đội mũ sọ. Mũ sọ làm bằng vải hình trịn,
giống như một chũm gáo dừa, đội một tí trên đỉnh đầu, chân đi giày đen.
Giám mục vẫn mặc áo chùng đen như Cha, cịn khốc thêm một áo choàng đen
ngắn bên ngoài, đeo thánh giá, thắt quanh bụng một băng vải màu tím đỏ, rộng chừng
10 cm, khơng buộc múi, đầu có tua bng thả dài ở bên trái. Giám mục được đeo nhẫn,
biểu thị sự gắn bó với Chúa. Thánh giá và nhẫn thường bằng vàng (không được bằng
bạc), kiểu cách tùy nghi. Đi giày đen.

Tổng giám mục, trang phục như Giám mục, đầu đội mũ sọ
bằng vải màu tím đỏ như màu thắt lưng.
Như tên gọi, Đức Hồng Y mặc áo chùng màu đỏ (kiểu như áo
chùng đen), áo choàng ngắn cũng màu đỏ. Trong áo choàng ngắn
là một áo bằng ren trắng mỏng dài đến đầu gối, ống tay áo này
rộng hơn tay áo chùng chút ít. Ngồi ra, có một mũ bốn múi màu
đỏ đội ra ngoài mũ sọ khi làm lễ.
Như những phần trên trình bày, về hình thức trang phục trong
Phật giáo cũng như Thiên Chúa giáo, ta thấy thường là giản dị. Áo
quần không diêm dúa, cầu kỳ. Màu sắc trang phục nói chung là
màu tối. Các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Các học sinh, thày dòng, cha, giám
mục... tóc đều cắt ngắn.

Liên hệ :

Mobile : 0984986309



×