Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tải Top 4 bài phân tích Chí khí anh hùng siêu hay - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.98 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý phân tích Chí khí anh hùng</b>
<b>1. Mở bài:</b>


Tác giả: Đại thi hào Nguyễn Du, là danh nhân văn hóa Việt Nam.


Tác phẩm: Trích truyện Kiều nói lên tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải.
<b>2. Thân bài:</b>


* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải:


- Sống với Kiều được nửa năm thì Từ Hải đã nghĩ đến nghiệp lớn
- “Động lịng bốn phương” cơng việc và chí lớn của người nam nhi


-“ trượng phu” là để chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm hàm nghĩa khâm
phục, ca ngợi.


- “thoắt”sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải.


-> Từ Hải đã thốt khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc lớn của cuộc đời.


- “Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng giữa vũ
trụ rộng lớn.


-“trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.


-Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường thẳng rong, cho thấy ý chí quyết tâm và bản lĩnh của
người anh hùng.


- Từ Hải ra đi khơng lưu luyến, bịn rịn tình cảm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của mình
nhưng khơng thể để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến nghiệp lớn.



* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:


Chàng hứa Kiều khi nào “bao giờ mười vạn tinh binh”, “ tiếng chng ngập đất bóng tinh rợp
đường”, “ Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghiệp ổn định sẽ cưới nàng cho nàng cuộc sống
hạnh phúc ấm no.


Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: một năm sau sẽ mang vinh quang về, chàng rất tự tin và
chắc chắn về chiến thắng của mình.


* Sự dứt khốt của Từ Hải:


Chim bằng là lồi chim của sự dũng mãnh, ý chí tác giả ví với Từ Hải, đã đến lúc chàng tung
bay đôi cánh để tìm khát vọng của bản thân.


“ Dứt”, “quyết” khẳng định ý chí quyết tâm của Từ Hải.
* Nghệ thuật:


- Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc.
<b>3. Kết bài:</b>


Đoạn trích Chí khí anh hùng là đoạn trích hay và ý nghĩa. Ca ngợi chí làm trai, chí khí của
bậc đại trượng phu, lí tưởng về người anh hùng mang lại ánh sáng tươi đẹp cho đời và tình
cảm sâu sắc của Từ Hải và Kiều, những ước vọng đẹp cho tương lai.


<b>2. Mở bài Chí khí anh hùng</b>


<b>Mở bài Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 1</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Mở bài Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 2</b>



Truyện Kiều là một trong những kiệt tác để đời trong nền văn học Việt Nam của Nguyễn Du.
Với tài và tâm của mình, Nguyễn du vận dụng sáng tạo ngơn ngữ , nghệ thuật và sự thấu hiểu
cảm thông tái hiện cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều và những mối tình nàng trải qua với
bao đau khổ. Trong đó có anh hùng Từ Hải được khắc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
<b>Mở bài Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 3</b>


Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến "Truyện Kiều" –
một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố
cáo xã hội phong kiến thối nát. Đoạn trích "Chí khí anh hùng" trích trong "Truyện Kiều",
Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có
những phẩm chất cao đẹp, phi thường.


<b>Mở bài Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 4</b>


Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác phẩm
làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua
Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm, xót xa với cuộc đời
truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người anh hùng có thể cứu dân, dẹp
loạn thơng qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải
xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng
“đầu đội trời, chân đạp đất”.


<b>3. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 1</b>


Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là khơng biết đến. Có một truyện thơ mà hơn
200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy
đã từng được Tố Hữu ngợi ca:


<i>“Tiếng thơ ai động đất trời</i>



<i>Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”</i>


Khơng ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ
đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số
phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân
trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu
xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do cơng lí mà đoạn
trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.


Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ
nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ
tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh.
Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng
một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng.
Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái
thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang
hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân
người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác
với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đơi ba dịng ngắn
ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du
với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đơi trai gái để hồn thiện giấc
mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>“Nửa năm hương lửa đương nồng</i>


<i>Trượng phu thoắt đã động lịng bốn phương</i>
<i>Trơng vời trời bể mênh mang</i>


<i>Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.</i>



Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập
nhau. Một bên là khơng gian kh phịng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đơi
đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ơng nào. Trái lại, một bên là không
gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ khơng
một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình.
Chàng vốn sinh ra khơng phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của
những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn
Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ơng có trí
lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho
Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm
nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái
ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng khơng gian xa
hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa sức vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh
cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con
người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của khơng gian mà cịn mở ra tâm thế nhân vật
khơng hề có một chút nào là do dự ln hành động thật dứt khốt, quả quyết. Đến đây, ta
chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình
ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:


<i>“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa</i>
<i>Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”</i>
Hay như:


<i>“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt</i>
<i>Xếp bút nghiên theo việc binh đao</i>
<i>Dã nhà đeo bức chiến hào</i>


<i>Thét roi cầm vị ào ào gió thu”</i>
( Chinh phụ ngâm_ Đoàn Thị Điểm)



Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao
tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những
câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập cơng với núi sơng thì với
“chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời
nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà,
một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần
của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít
mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.


Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của
kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng khơng muốn một thân
một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia,
được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:


<i>Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng</i>
<i>Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Từ rằng: “Tam phúc tương tri</i>


<i>Sao chưa thốt khỏi nữ nhi thường tình”</i>


Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri
kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thơng thường để sánh cùng trí lớn của người anh
hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải,
Nguyễn Du viết:


<i>“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời</i>


<i>Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”</i>



Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi
xưa, đó cịn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:


<i>“Bao giờ mười vạn tinh binh</i>


<i>Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường</i>
<i>Làm cho rõ mặt phi thường</i>


<i>Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”</i>


Ngày chàng hồn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong
tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt
dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng khơng hề mang tính chất khoa trương mà
đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo
dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thảy bạn đọc.
Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:


<i>“Quyết lời dứt áo ra đi</i>


<i>Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”</i>


Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó mang
tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình
tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đốn của bậc nam nhi. Phải chăng vì thế
mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên
đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào mn trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần
nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thốt khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ
vượt bậc so với những người đương thời.


Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp


với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng khơng
để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn ln ln hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ
đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu trong lịng bạn đọc mn đời.


<b>4. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 2</b>


Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng
với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp,
ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc
nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí,
quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích "Chí khí anh hùng" nằm trong tác phẩm
"Truyện Kiều" của Nguyễn Du.


Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của
tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ
Hải:


<i>"Nửa năm hương lửa đương nồng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Trông vời trời bể mênh mang</i>


<i>Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".</i>


Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi,
rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa
muốn được cơng nhận thì phải có cơng danh, sự nghiệp, có được những cơng trạng lớn lao.
Chẳng vậy mà Nguyễn Cơng Trứ từng viết:


<i>"Chí làm trai nam bắc tây đông,</i>
<i>Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".</i>



Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lịng bốn phương". Chàng là
người có ý chí lập cơng danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện một trạng thái
nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt
người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như
một cám dỗ còn một bên là khơng gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương.
Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hồi bão,
lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng
là "trượng phu" - người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ
chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều cịn
níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện
khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân. Một con người "Dọc
ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là
điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời
bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm
chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một
xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với
trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.


Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều
- Kim Trọng cũng khơng ngoại lệ:


<i>"Nàng rằng: Phận gái chữ tịng</i>
<i>Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"</i>


Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha, xuất giá
theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin
đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách,
chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng
Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và


cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vơ cùng chính đáng bởi
lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng
nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại
rằng:


<i>"Từ rằng: Tâm phúc tương tri</i>


<i>Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?</i>
<i>Bao giờ mười vạn tinh binh</i>


<i>Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.</i>
<i>Làm cho rõ mặt phi thường</i>


<i>Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng
đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân
thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất
chúng, phi thường và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước
Kiều "nghi gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh
rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.
Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức
thuyết phục:


<i>"Bằng nay bốn bể không nhà</i>


<i>Theo càng thêm bận biết là đi đâu?</i>
<i>Đành lịng chờ đó ít lâu</i>


<i>Chầy chăng là một năm sau vội gì!"</i>



Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lịng mình hay thật tâm
chàng khơng muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam
nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì
việc đó khơng hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khun
Kiều "đành lịng" chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi khơng phải thời
gian q dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lịng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải.
Việc gây dựng sự nghiệp, công danh khơng phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là
chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một
năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa
như vậy.


Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:
<i>"Nhủ rồi tay lại cầm tay</i>


<i>Bước đi một bước giây giây lại dừng"</i>


thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng" được Nguyễn
Du miêu tả với sự dứt khoát:


<i>"Quyết lời dứt áo ra đi</i>


<i>Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".</i>


Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người
đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân khơng làm khó được Từ Hải. Hành động "dứt áo ra
đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khốt, khơng chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân.
Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm
động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn
thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm


nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật
oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà
thơ trung đại.


"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền quyên" đầy
dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính
cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn
Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngơn ngữ hàm súc, mang tính biểu
đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân
vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", khơng vì "hương
lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải,
một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những
phẩm chất, phi thường.


Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về
một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.


Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
<i>Biết thân chạy chẳng khỏi trời,</i>


<i>Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.</i>


Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri
kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao
quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm
khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường
bày tỏ:



<i>Rộng thương cỏ nội hoa hèn,</i>


<i>Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau</i>


Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong
kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá
Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình u khơng thể giữ chân Từ
Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy
một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.


Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở
chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo
dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ
ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ
hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động
lịng bốn phương, dứt khốt lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:


<i>Nửa năm hương lửa đương nồng,</i>


<i>Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.</i>
<i>Trông vời trời bể mênh mang,</i>


<i>Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.</i>


Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một
người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục
đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một
khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khốt của chàng. Bốn chữ động lịng bốn phương
nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà
là người của trời đất, của bốn phương”. (Hồi Thanh).


Động lịng bốn phương là thấy trong lịng náo nức cái chí tung hồnh khắp bốn phương trời.
Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một khơng gian chật hẹp.
Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng
hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh
hùng. Hồi Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa”
tưởng như che đầy cả trời đất”.


Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy
thì Thúy Kiều cịn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn
cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn
sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật
có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự
quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.


Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết
xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lịng xin đi. Ngắn
gọn thế thơi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tịng ở đây khơng chỉ có nghĩa như trong sách
vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia
sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.


Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
<i>Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,</i>


<i>Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?</i>
<i>Bao giờ mười vạn tinh binh,</i>



<i>Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.</i>
<i>Làm cho rõ mặt phi thường,</i>


<i>Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.</i>
<i>Bằng nay bốn bể khơng nhà,</i>
<i>Theo càng thêm bận biết là đi đâu?</i>
<i>Đành lịng chờ đó ít lâu,</i>


<i>Chầy chăng là một năm sau vội gì!”</i>


Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao,
dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thốt khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra,
nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.


Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngơn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời
chia tay với Thúy Kiều chàng khơng quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà
quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi
theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, khơng chỉ có sự mong chờ, mà cịn có cả hi vọng vào
thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.


Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng
giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất
phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn
tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường,
để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng
yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định
sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.



Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay
bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời
chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong
một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:


<i>Quyết lời dứt áo ra đi,</i>


<i>Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.</i>


Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng
trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự
nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, khơng báo trước, thái độ dứt khốt lúc chia
tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim
bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.


Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất
cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với
những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say
men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.


Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện
cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ
trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.


Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ cơng lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của
xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng cịn thêm
một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì
khơng hẳn là khơng có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung
hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ khơng bao giờ nhằm mục đích thiết lập


một ngai vàng quyền lực tầm thường.


</div>

<!--links-->

×