Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tài liệu CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.36 KB, 95 trang )


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái niệm và nguyên tắc kinh doanh chứng khoán
1.1.1. Khái niệm
Kinh doanh chứng khoán là những dịch vụ do tổ chức kinh doanh chứng khoán cung
cấp cho khách hàng bao gồm: mua bán chứng khoán, báo lãnh phát hành chứng khoán, quản lý
tài sản, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán.
1.1.2. Các điều kiện kinh doanh chứng khoán
Hoạt động kinh doanh chứng khoán dựa trên các nhóm điều kiện chủ yếu:
- Nhóm nguyên tắc tài chính
+ Có năng lực tài chính (có đủ vốn theo quy định của pháp luật, cơ cấu vốn hợp lý),
đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết với khách hàng và đủ năng lực tài chính để giải quyết
những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh.
+ Cơ cấu tài chính hợp lý, có khả năng thanh khoản và có chất lượng tốt để thực hiện
kinh doanh với hiệu quả cao.
+ Thực hiện chế độ tài chính theo quy định của nhà nước (thực hiện nghĩa vụ tài chính
với nhà nước, tuân thủ các quy định về tài chính theo pháp luật và thực hiện báo cáo tài chính
đầy đủ trung thực)
+ Phải tách bạch tài sản của mình và tài sản của khách hàng. Không được dùng vốn,
tài sản của khách hàng để làm nguồn tài chính phục vụ kinh doanh của công ty.
- Nhóm điều kiện về đạo đức
+ chủ thể kinh doanh chứng khoán phải hoạt động theo đúng pháp luật, chấp hành
nghiêm các quy chế, tiêu chuẩn hành nghề liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
+ Có năng lực chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc.
+ Giao dịch trung thực, công bằng, vì lợi ích của khách hàng, đặt lợi ích của khách
hàng lên trên lợi ích của công ty. Trong trường hợp có sự xung đột giữa lợi ích của công ty và
lợi ích của khách hàng phải ưu tiên lợi ích của khách hàng.
+ Cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết cho khách hàng, bảo vệ tài sản
của khách hàng, bí mật các thông tin về tài khoản của khách hàng trừ trường hợp khách hàng
đồng ý bằng văn bản hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước.
+ Không đựơc sử dụng các lợi thế của mình làm tổn hại đến khách hàng và ảnh hưởng



xấu đến hoạt động chung của thị trường, không được thực hiện các hoạt động có thể làm khách
hàng và công chúng hiểu nhầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán.
+ Không được làm các công việc có cam kết nhận hay trả những khoản thù lao ngoài
khoản thu nhập thông thường.
1.2. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán
1.2.1. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán với
mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng khoán: mô hình
công ty đa năng và mô hình công ty chuyên doanh.
Thứ nhất:
Theo mô hình công ty đa năng, công ty chứng khoán là một bộ phận cấu
thành của ngân hàng thương mại. hay nói cách khác. Ngân hàng thương mại kinh doanh trên cả
hai lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán.
Thông thường theo mô hình này, NHTM cung ứng các dịch vụ tài chính rất đa dạng và
phong phú liên quan đến kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khoán và các hoạt động kinh
doanh khác trong lĩnh vực tài chính.
Mô hình này có ưu điểm và hạn chế sau:
* Ưu điểm
- NHTM kinh doanh nhiều lĩnh vực nên có thể giảm bớt được rủi ro hoạt động kinh
doanh chung, có khả năng chịu được các biến động lớn trên thị trường chứng khoán.
- NHTM là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ có lịch sử lâu đời, có
thế mạnh về tài chính và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính. Do đó cho phép các NHTM
tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng đựơc thế mạnh của ngân hàng, tạo động lực cho
sự phát triển của thị trường chứng khoán.
* Hạn chế
- Do thế mạnh về tài chính, chuyên môn, nên NHTM tham gia kinh doanh chứng
khoán có thể gây lũng đoạn thị trường, trong trường hợp quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng
khoán và quản trị điều hành thị trường còn yếu.

- Do tham gia nhiều lĩnh vực sẽ làm giảm tính chuyên môn hoá, khả năng thích ứng và
linh hoạt kém.

- Trong trường hợp thị trường chứng khoán có nhiều rủi ro. Ngân hàng có xu hướng
bảo thủ rút khỏi thị trường chứng khoán để tập trung kinh doanh tiền tệ.
Thứ hai:
Mô hình công ty chuyên doanh: Theo mô hình này, kinh doanh chứng khoán
do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận.
Mô hình này khắc phục được hạn chế của mô hình đa năng: giảm rủi ro cho hệ thống
ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán kinh doanh chuyên môn hoá, thúc đẩy
sự phát triển thị trường chứng khoán.
Ngày nay với sự phát triển của thị trương chứng khoán, để tận dụng thế mạnh của lĩnh
vưc tiền tệ và chứng khoán, bằng cách cho phép hình thành mô hình công ty đa năng một
phần – các NHTM thành lập công ty con để chuyên kinh doanh chứng khoán.
1.2.2. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư
a. Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là tổ chức hoạt động theo phương thức huy động vốn thông qua phát hành
cổ phiếu hoặc chứng chỉ của quỹ, để đầu tư vào chứng khoán và các loại tài sản tài chính khác
với mục đích làm tăng giá trị tài sản của quỹ.
Thông thường các chủ thể tham gia vào hoạt động của quỹ bao gồm:
+ Công ty quản lý quỹ: thực hiện quản lý quỹ đầu tư đảm bảo phù hợp với điều kiện
quỹ và làm tăng tài sản của quỹ.
+ Tổ chức quản lý tài sản của quỹ: thực hiện bảo đảm, lưu ký chứng khoán, các hợp
đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan đến tài sản quỹ.
+ Tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ: tuỳ mô hình quỹ mà tổ chức này
thường do ngân hàng hoặc Hội đồng quản trị của quỹ thực hiện với chức năng chủ yếu là kiểm
tra, kiểm soát hoạt động của quỹ và công ty quản lý quỹ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà
đầu tư.
+ Tổ chức kiểm toán độc lập: thực hiện kiểm soát hàng năm về tài sản và hoạt động
quản lý của công ty quản lý Quỹ để đảm bảo các số liệu báo cáo nhà đầu tư là chuẩn xác.

+ Tổ tư vấn luật: thực hiện tư vấn về pháp luật cho hoạt động của quỹ đồng thời giám
sát, quản lý chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro và bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư.
- Người lưu giữ CK
Đóng vai trò là người bảo quản tài sản của quỹ đồng thời giám sát hoạt động của công

ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. một số nước người lưu giữ CK là ngân
hàng giám sát, do công ty quản lý quỹ lựa chọn. ngân hàng giám sát có trách nhiệm:
+ Tách biệt tài sản của quỹ với các tài sản khác
+ Kiểm tra giám sát công ty quản lý quỹ sao cho đảm bảo việc quản lý quỹ phù hợp
với pháp luật nhà nước và điều lệ quỹ, bảo vệ nhà đầu tư.
+ Thực hiện các quyền lợi thu chi của quỹ theo đúng hướng dẫn của công ty quản lý
quỹ.
+ Xác định các báo cáo do công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động vị phạm pháp
luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
+ Báo cáo UBNDCKNN khi phát hiện công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động vi
phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên, đòi hỏi ngân hàng giám sát phải quản lý tài
sản của Quỹ tách biệt với các tài sản khác của ngân hàng, ngân hàng giám sát được hưởng phí
theo quy định của tiền lệ quỹ.
- Nhà đầu tư: là người trực tiếp góp vốn vào quỹ thông qua mua chứng chỉ quỹ đầu tư.
Họ có quyền hưởng lợi từ các hoạt động đầu tư của quỹ và yêu cầu công ty quản lý quỹ thực
hiện việc đầu tư theo đúng điều lệ quỹ. Tuy nhiên, nhà đầu tư không được phép trực tiếp thực
hiện quyền, nghĩa vụ đối với tài sản của quỹ.
b. Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ là công ty thực hiện việc điêu hành, quản lý các quỹ đầu tư phù
hợp với điều lệ quỹ và làm tăng giá trị tài sản quỹ.
Khách hàng của công ty quản lý quỹ thường là các nhà đầu tư có tổ chức: các quỹ đầu
tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính…chức năng của công ty quản lý Quỹ là thực hiện việc
đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng sao cho phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ mà khách
hàng đã lựac chọn.

1.2.3. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể trên, tham gia kinh doanh chứng khoán còn có các chủ thể sau:
- Công ty lưu ký và thanh toán bù trừ: là công ty thực hiện cung cấp dịch vụ lưu ký và
thanh toán bù trừ cho các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua thực hiện các

nhiệm vụ: đầu tư chứng khoán, lưu ký, thanh toán trên thị trường chứng khoán.
- Các tổ chức trung gian tài chính khác: công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu…các
công ty này huy động vốn thông qua các nghiệp vụ kinh doanh đặc thù của nó (ví dụ: công ty
bảo hiểm huy động thông qua bán hợp đồng bảo hiểm, các quỹ hưu trí vốn do các thành viên
đóng góp theo định kỳ…) với số vốn huy động được các công ty này sẽ thực hiện đầu tư vào
tài sản tài chính, chủ yếu là các chứng khoán. Vì vậy, trên thị trường chứng khoán các công ty
này là các nhà đầu tư có tổ chức.
1.3. Các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
1.3.1. Các nghiệp vụ kinh doanh của một số tổ chức kinh doanh chứng khoán trên Thị
trường chứng khoán
a. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán thường thực hiện một số nghiệp vụ sau:
- Môi giới: Là hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó công ty chứng khoán đứng
ra làm đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch trên sở giao
dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà nhà môi giới chỉ thực hiện giao dịch theo lệnh của
khách hàng để hưởng phí hoa hồng, họ không phải chịu rủi ro từ hoạt động giao dịch đó.
Với tư cách là người môi giới, ngoài việc giao dịch theo chỉ thị của khách hàng, công
ty chứng khoán thường cung ứng các dịch vụ tiện ích khác:
+ Quản lý tài khoản tiền gửi và tài khoản chứng khoán cho khách hàng.
+ Quản lý các lệnh giao dịch cho khách hàng.
+ Vận hành các đầu mối thông tin và tư vấn cho khách hàng về đầu tư chứng khoán.
- Bảo lãnh phát hành: là hoạt động hỗ trợ cho các nhà phát hành khi thực hiện huy
động vốn thông qua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp theo sự uỷ thác của nhà phát
hành.

Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện bởi đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am
hiểu thị trường có năng lực tài chính. Họ thường có một mạng lưới bán hàng rộng rãi để đảm
bảo cho đợt phát hành thành công. Vì vậy thông qua tổ chức bảo lãnh khách hàng, công ty
chứng khoán được nhận tiền hoa hồng bảo lãnh. Tiền hoa hồng bảo lãnh được xác định theo sự
thoả thuận giữa nhà phát hành với nhà bảo lãnh.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành thường được thực hiện với sự tham gia của các chủ thể

sau:
+ Tổ chức bảo lãnh phát hành
Tuỳ vào quy mô đợi phát hành mà tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành có thể là một
hoặc một tổ hợp bao gồm nhiều nhà bảo lãnh. Nhà bảo lãnh phát hành là người đứng ra mua
hoặc chào bán chứng khoán của một nhà phát hành nh»m thực hiện phân phối chứng khoán.
+ Nhóm đại lý phân phối thường bao gồm các công ty chứng khoán tự doanh (dealers).
Thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh, công ty chứng khoán sẽ thực hiện các công việc chính sau:
- Chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành các thủ tục cần thết cho đợt phát hành.
- Thành lập tổ hợp bảo lãnh (nếu có)
- Định giá chứng khoán
- Phân phối chứng khoán
- Bình ổn giá chứng khoán sau đợt phát hành.
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong những phương thức sau:
+ Cam kết chác chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó TCBL cam kết sẽ mau toàn
bộ chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không.
+ Cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó TCBL thoả thuận là đại lý
cho TCPH, TCBL không cam kết bán bán toàn bộchứng khoán mà cam kết sẽ có gắng tối đa
để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho TCPH phần
còn lại.
+ Tất cả hoặc không: trong phương thức này, TCPH yêu cầu TCPL bán một số lượng
chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành.
+ Tối thiểu và tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố
gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo phương thức này, TCPH yêu

cầu TCBL bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, TCBL
được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng
khoán bán được đạt tỉ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ. (xem chi
tiết chưng 3)
- Tư vấn: Tư vấn trong lĩnh vực chứng khoán là hoạt động phân tích, dự báo các dữ
liệu về lĩnh vực chứng khoán, từ đó đưa ra các lời khuyên cho khách hàng.
Với khả năng chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực này, họ sẽ đưa ra các dự báo

cho khách hàng để tham khảo.
Từ đó khách hàng đưa ra quyết định của chính mình. Nhà tư vấn không chịu trách
nhiệm về hậu quả các quyết định của nhà tư vấn. Tuỳ vào loại hình tư vấn và thông tin nhà tư
vấn cung cấp cho khách hàng mà khách hàng có thể trả các khoản phí.
Các công ty chứng khoán thường cung ứng các dịch vụ tư vấn sau:
- Tự doanh: là hoạt động tự mua, bán chứng khoán cho mình để hưởng lợi nhuận từ
chênh lệch giá.
Hoạt động này công ty phải tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình, tự gánh chịu
rủi ro từ quyết định mua, bán chứng khoán của mình. Hoạt động này thường song hành với
hoạt động môi giới. vì vậy, khi thực hiện hai hoạt động này có thể dẫn đêm xung đột về lợi ích
giữa một bên là lợi ích của công ty chứng khoán và một bên là lợi ích của khách hàng. Để
tránh trường hợp này thông thường các thị trường đều có chính sách ưu tiên thực hiện lệnh của
khách hàng trước khi thực hiện lệnh của các công ty chứng khoán.
Đối với một số thị trường, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được gắn liền
với hoạt động tạo lập thị trường. Các công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ tự kinh
doanh thông qua việc mua bán trên thị trường có vai trò định hướng và điều tiết hoạt động của
thị trường. Gióp phần bình ổn định giá cả trên thị trường.
- Quản lý danh mục đầu tư: Là hoạt động trong đó khách hàng uỷ thác vốn của mình
cho công ty chứng khoán thực hiện đầu tư hộ. Thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán
theo sự uỷ thác của khách hàng thực hiện đầu tư với mục tiêu bảo toàn vốn và tăng lợi nhuận
cho khách hàng.
Sau khi ký hợp đồng uỷ thác với khách hàng, công ty chứng khoán có nhiệm vụ thực

hiện quản lý vốn cho khách hàng theo hợp đồng uỷ thác bao gồm thực hiện đầu tư và cung ứng
các dịch vụ đi kèm cho khách hàng như: lưu ký chứng khoán, quản lý tài sản và vốn cho khách
hàng, cung cấp tín dụng…
b. Quỹ đầu tư chứng khoán.
Các nghiệp vụ chủ yếu của quỹ đầu tư chứng khoán bao gồm:
- Huy động vốn: Tuỳ vào loại hình quỹ đầu tư và hợp đống uỷ thác với công ty quản
lý quỹ, quỹ đầu tư sẽ lựa chọn hình thức để huy động vốn. Đối với quỹ đóng, quỹ thực hiện
huy động vốn một lần khi thành lập quỹ và đầu tư vốn đã huy động được trong suốt thời gian

hoạt động của quỹ. Đối với quỹ mở, vốn của quỹ có thể huy động thêm vốn khi cần thiết.
Vốn của quỹ được huy động thông qua hai hình thức là phát hành chứng chỉ quỹ hoặc
cổ phiếu của quỹ và vay nợ. Tuy nhiên luật pháp các nước đều có hạn chế số lượng vay nợ của
quỹ. Thông thướng, quỹ chỉ được vay từ ngân hàng nhằm mục đích phục vụ cho các chi phí
phát sinh tức thời hoặc để hỗ trợ các danh mục đầu tư có nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Đầu tư: Các quỹ đầu tư thực hiện đầu tư theo danh mục. Để xác định được một danh
mục đầu tư hiệu quả, các quỹ dựa vào số vốn huy động được, căn cứ vào mục tiêu đầu tư và
kết quả nghiên cứu thị trường, quỹ sẽ quyết định lựa chọn danh mục đầu tư và phân bổ vốn
vào các tài sản trong danh mục. Các quỹ đầu tư thường có quyết định đầu tư hiệu quả do các
công ty quản lý quỹ đều có các chuyên gia trong lĩnh vực phân tích và đầu tư tài chính.
c. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân và các định chế tài chính
khác
- Lưu ký chứng khoán: là hoạt động lưu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng
và giúp cho khách hàng thực hiện các quyền liên quan đế sở hữu chứng khoán.
- Thanh toán bù trừ: công ty sẽ căn cứ vào kết quả giao dịch để từ đó bù trừ các giao
dịch và xác định nghĩa vụ thanh toán cho các bên tham gia giao dịch.
- Đăng ký chứng khoán: công ty đăng ký các thông tin về chứng khoán và quyền sở
hữu chứng khoán của người nắm giữ chứng khoán.
- Nghiệp vụ của các nhà đầu tư có tổ chức và cá nhân khác: đây là đối tượng kinh
doanh bằng vốn của mính, đầu tư trên thị trường để kiếm lợi nhuận. Do đó nghiệp vụ chính
của các đối tượng này là phân tích thị trường và dựa vào mục tiêu đầu tư của mình để có quyết

định đầu tư nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
1.3.2. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán
a. Môi trường phát lý
Đối với các nhà đầu tư, chứng khoán là đối tượng kinh doanh đặc biệt, việc định giá
chứng khoán rất phức tạp, hoạt động giao dịch phải tuân thủ các quy định rất nghiêm ngặt do
đó nhà đầu tư có thể gặp nhiều rủi ro. Đối với mỗi quốc gia hoạt động thị trường chứng khoán
có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của nền kinh tế. vì vậy, so với các hoạt động kinh doanh
khác. Kinh doanh chứng khoán chịu sự điều chỉnh của các quy định luật pháp khá chặt chẽ và
buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ. Các quy định này đựơc ban hành nhằm mục đích:

- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, đặt biệt là các nhà đầu tư cá nhân.
- Đảm bảo thị trường hoạt động trôi chảy và hiệu quả
- Ngăn chặn các hoạt động tiêu cực trên thị trường chứng khoán.
- Giảm thiểu sự tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán đến các hoạt động của
nền kinh tế.
b. Cơ chế chính sách.
Bên cạnh sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật, kinh doanh chứng khoán còn chịu sự
chi phối của hàng loạt các cơ chế, chính sách của nhà nước, của ngành. Đặc biệt là cơ chế
chính sách tài chính (thuế, phí, lệ phí, trợ cấp…) sẽ tác động trực tiếp đón hiệu quả kinh doanh.
Nhà nước ban hành cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho hoạt động kinh
doanh góp phần quan trọng vào hiệu quả kinh doan, các quy định về mức thuế phải nộp các
khoản phí, lệ phí….các chủ thể kinh doanh được thu, phải nộp hợp lý sẽ giúp các chủ thể kinh
doanh có nguồn thu – chi hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
c. Các nhân tố khác.
- Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội: có thể nói môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
ảnh hưởng sâu rộng đén hoạt động của nền kinh tế. các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như; lam phá, tỷ
giá hối đoái, tôc độ tăng trưởng của nền kinh tế…có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động
của thị trường chứng khoán nói chung và dên hiệu quả kinh doanh chứng khoán nói riêng. Nếu
lạm phát được duy trì ở mức hợp lý, tăng trưởng ổn định…là điều kiện thuận lợi để kinh doanh
hiệu quả bên cạnh đó, sự ổn định về chính trị và xã hội sẽ tạo điều kiện để thị trướng chứng

khoán phát triển ổn định, hoạt động kinh doanh chứng khoán hiệu quả và phát triển.
- Sự phát triển của thị trường chứng khoán: sự phát triển của thị trường chứng
khoán được xem xét ở một số khía cạnh chủ yếu:
+ Cung cầu trên thị trường: thị trường chứng khoán phát triển khi có nguồn hàng hoá
phong phú, đa dạng và có đông đảo các chủ thể tham gia mua bán.
+ Cơ sở hạ tầng thị trường: bao gồm hệ thống thông tin thị trường, hệ thống giao dịch,
hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ…thị trường phát triển khi cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ
sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện các giao dịch, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
+ Sự hiểu biết của công chúng về thị trường chứng khoán : Thị trường chứng khoán là
thị trường bậc cao, các chủ thể tham gia thị trường nếu không am hiểu những kiến thức cơ bản

về TTCK thì dễ bị rủi ro. Thị trường sẽ thực sự năng động , hấp dẫn khi nhà đầu tư có sự hiểu
biết về chứng khoán và thị trường hấp dẫn khi nhà đầu tư có sự hiểu biết về chứng khoán và thị
trường chứng khoán.Vì vậy, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán cũng là một trong những
nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh chứng khoán.
+ Quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán là vịêc quản lý và giám sát các hoạt
động phát hành, giao dịch, thanh toán.. đối với các chứng khoán. Việc quản lý này được chú
trọng ở khía cạnh lập pháp và hành pháp.
- Năng lực của chủ thể kinh doanh: Hoạt động kinh doanh chứng khoán muôn đạt
hiệu quả đòi hỏi bản thân chủ thể tham gia kinh doanh phải là người có kỹ năng phân tích tốt,
hiểu biết về lĩnh vực hành nghề. Chủ thể kinh doanh có năng lực chuyên môn, có đạo đức nghề
nghiệp, làm việc có trách nhiệm sẽ tạo được uy tín trên thị trường và với khách hàng, từ đó có
khả năng mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh và ngược lại.
1.4. Đạo đức nghề nghiệp trong kinh doanh chứng khoán.
1.4.1. Khái niệm và tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong kinh doanh chứng
khoán
a. Khái niệm: Bản chất của đạo đức nghề nghiệp nói chung là tính tin cậy Những
người làm việc trong một ngành nghề nhất định được khẳng định là có đạo đức nghề nghiệp có
nghĩa là phải có độ tin cậy, họ sử dụng quyền hạn do tính chất nghề nghiệp mà có phải mang
lại hiệu qủa tốt nhất cho xã hội. Như vậy đạo đức nghề nghiệp được thể hiện qua bốn khía

cạnh sau:
- Đủ trình độ và năng lực để thực hiện công việc đạt kết quả cao.
- Đủ tiêu chuẩn hành nghề có nghĩa là phải làm việc theo đúng tiêu chuẩn và đúng quy
trình công việc.
- Thẳng thắn, trong sạch và công bằng.
- Niềm tự hào về nghề nghiệp, làm việc theo đúng tiêu chuẩn công việc, không có
những hành vi sai phạm và không cho người khác coi thường nghề nghiệp của mình.
Như vậy có thể hiểu đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là
tập hợp các chuẩn mực hành vi cách cư xử và ứng xử trong nghề nghiệp kinh doanh chứng
khoán nhằm bảo vệ và tăng cường vai trò, tính tin cậy và niềm tự hào của nghề kinh doanh
chứng khoán trong xã hội.

b. Tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong kinh doanh chứng khoán
- Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là yếu tố quan trọng
quyết định đến sự tin tưởng của khách hành đối với những người làm nghề kinh doanh chứng
khoán.
Các tổ chức thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán là các tổ chức cung ứng dịch
vụ cho khách hàng. Để kéo khách hàng về phía mình thì yếu tố hàng đầu là phải tạo được sự
tin tưởng. Bởi yếu tố đầu tiên đo lường chất lượng các sản phẩm dịch vụ là uy tín của đơn vị
cung ứng dịch vụ. Trên phương diện này thì đạo đức nghề nghiệp còn quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của ngành kinh doanh chứng khoán.
- Thông qua các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp sẽ quản lý được tiêu chuẩn về
nghiệp vụ của các công ty chứng khoán.
- Một trong những tiêu chuẩn của đạo đức nghề KDCK là làm việc phải đúng theo tiêu
chuẩn nghề nghiệp, đúng theo quy trình nghiệp vụ của công việc. Thông qua việc đề ra các tiêu
chuẩn về đạo đức nghề kinh doanh chứng khoán buộc người làm trong nghề phải thực hiện
nghiệp vụ theo đúng quy trình, đảm bảo chất lượng cao, mang lại hiệu quả cho mình và cho xã
hội. Điều này cũng đồng nghĩa với các hoạt động trái với tiêu chuẩn công việc sẽ trài đạo đức
và bị xã hội lên án.
- Đạo đức nghề nghiệp sẽ góp phần xây dựng nên hình ảnh tốt đẹp của nhà kinh doanh

chứng khoán.
Đạo đức nghề KDCK góp phần tạo ra sự tin tưởng vào trình độ, đạo đức của người
KDCK. Thông qua đó tạo ra được uy tín và hình ảnh tốt đẹp cho khách hàng. Chính điều này
sẽ góp phần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa người kinh doanh chứng khoán và khách hàng,
giữa những người kinh doanh chứng khoán với nhau. Từ đó tạo động lực cho sự phát triển của
ngành kinh doanh chứng khoán.
1.4.2. Chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp
a. Đối với công ty thành viên
Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của các công ty thành viên bao gồm:
- Chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước, các quy chế, quy định của nghề KDCK.
- Phải đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu; Các thông tin cung cấp cho khách hàng
phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời, công bằng. Tài sản của khách hàng phải được bảo quản

tách bạch với tài sản của công ty. Tránh sự xung đột về lợi ích giữa khách hàng và công ty
thành viên. Nếu có sự xung đột về lợi ích thì phải ưu tiên lợi ích của khách hàng trước, tránh
việc trục lợi từ khách hàng thông qua các nghiệp vụ.
- Phải chú tâm và cẩn trọng công việc: Công ty thành viên phải xây dựng quy trình
chuẩn hoạt động, phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ, tận tuỵ và có trách nhiệm đối với
công việc.
- Tình hình tài chính lành mạnh, có cơ cấu tổ chức hợp lý nhằm đảm bảo khả năng cung
ứng dịch vụ một cách hiệu quả cho khách hàng.
Ngoài ra công ty thành viên phải có sự phối hợp chặt chẽ với đồng nghiệp, với cơ quan
quản lý nhà nước và phối hợp trong toàn ngành chứng khoán nhằm đảm bảo hoạt động của các
công ty thành viên sẽ vì lợi ích chung của ngành chứng khoán và tuân thủ các quy định của
nhà nước.
b. Đối với các cá nhân tham gia thị trường
Tuỳ theo từng nghề mà đòi hỏi đạo đức nghề nghiệp khác nhau. Nhìn chung yêu cầu
đạo đức nghề nghiệp của các cá nhân tham gia KDCk bao gồm:
- Tuân thủ các quy định của pháp luật, các quy chế, quy định trên thị trường chứng
khoán (không được thực hiện các hoạt động bị cấm để kinh doanh trên thị trường chứng khoán,

không tạo điều kiện giúp người khác vi phạm pháp luật)
- Tránh trường hợp vì mục tiêu trục lợi cá nhân gây ra những tác động xấu cho thị
trường.
- Phải có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý thị
trường để phát hiện và loại bỏ các hiện tượng tiêu cực trên thị trưởng. Đảm bảo thị trường hoạt
động minh bạch, công bằng và hiệu quả.

Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH GIÁ CHỨNG KHOÁN

2.1 Doanh lợi và rủi ro trong đầu tư chứng khoán
2.1.1 Doanh lợi trong đầu tư chứng khoán
Doanh lợi trong đầu tư chứng khoán được thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
● Mức sinh lời tuyệt đối
Mức sinh lời của một khoản đầu tư là phần chênh lệch giữa kết quả thu được sau
một khoảng thời gian đầu tư và phần vốn gốc mà nhà đầu tư bỏ ra ban đầu.

Thu nhập mà nhà đầu tư nhận được trong đầu tư chứng khoán bao gồm:
(1) Cổ tức (D), trái tức (C) do sở hữu cổ phiếu, trái phiếu.
(2) Lãi (hoặc lỗ) về vốn đầu tư: là mức chênh lệch giữa giá bán (Pt) và giá mua
chứng khoán (P
0
):
Lãi (hoặc lỗ) về vốn đầu tư = Pt – P
0

Tổng mức sinh lời = cổ tức (trái tức) ± lãi (lỗ) về vốn

(3) Ngoài các khoản thu nhập trên, khi đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư còn có thể nhận
được thu nhập từ chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu thực tế trên thị trường với giá quyền
mua chứng khoán mà nhà đầu tư được hưởng.

● Mức sinh lời tương đối
Mức sinh lời tương đối (Rt) phản ánh 1 đồng vốn đầu tư trong 1 năm mang lại bao
nhiêu thu nhập, nó là cơ sở để so sánh các khoản đầu tư khác nhau.
(Pt - P
0
) + D(hoặc C)
Rt = --------------------------
P
0

Trên thực tế để so sánh được mức sinh lời giữa các tài sản có thời gian đáo hạn khác
nhau, người ta thường sử dụng mức sinh lời theo năm. Nếu một tài sản có mức sinh lời
trong thời gian m tháng là Rm thì mức sinh lời năm (Rn) sẽ là:

Rn = (1 + Rm)
12/m
- 1

● Tổng mức sinh lời trong nhiều năm và mức sinh lời bình quân năm
Phần trên mới xác định các mức sinh lời trong 1 năm hoặc dưới 1 năm và quy đổi
thành năm. Trên thực tế, hoạt động đầu tư có thể kéo dài trong thời gian nhiều năm. Ví dụ:
đầu tư cổ phiếu dài hạn và cổ tức nhận được đem tái đầu tư và tiếp tục tạo ra mức sinh lời.
Gọi R1, R2, R3…, Rt là mức sinh lời mỗi năm trong thời gian đầu tư là t năm.
Tổng mức sinh lời (R
tnăm
) được tính như sau:

R
tnăm
= (1+R1) x (1+R2) x… x (1+Rt) - 1


Mức sinh lời bình quân (Rbq) năm được tính theo một trong hai cách sau:
Mức sinh lời bình quân số học:

Rbq = (R1 + R2 + …. + Rt) / t

Mức sinh lời bình quân lũy kế hàng năm:

Rbq =
t
√(1+R1) x (1+R2) x…. (1+Rt) - 1

● Mức sinh lời danh nghĩa và thực tế
Gọi R là mức sinh lời danh nghĩa, r mức sinh lời thực tế, h là tỉ lệ lạm phát, ta có thể

thấy mối quan hệ giữa chúng như sau:

(1 + R) = (1 + r) (1 + h) → R = r + h + rh

● Mức sinh lời (doanh lợi) kì vọng
Doanh lợi kì vọng E(r) hay mức sinh lời ước tính của một tài sản có rủi ro ở tương
lai là bình quân gia quyền theo xác suất của các kết quả thu được trong tất cả các tình
huống xảy ra.

E(r) = ∑ Pi Ri i =1 → n
Trong đó: - Pi là xác suất xảy ra của các tình huống i. (Tổng Pi = 100%)
- Ri là doanh lợi kì vọng tương ứng với các tình huống i.
2.1.2 Rủi ro và đo lường rủi ro đầu tư chứng khoán
2.1.2.1 Rủi ro trong đầu tư chứng khoán
● Khái niệm rủi ro

Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả, là khả năng xảy ra của những điều
không mong muốn và khi nó xảy ra thì mang lại những tổn thất. Khác với sự không chắc
chắn rủi ro có thể đo lường được.
Trong đầu tư chứng khoán, rủi ro được định nghĩa là khả năng hay xác suất xảy ra
những kết quả đầu tư ngoài dự kiến, hay cụ thể hơn rủi ro là khả năng làm cho mức sinh lợi
thực tế nhận được trong tương lai khác với mức sinh lời dự kiến (thấp hơn) ban đầu.
● Các loại rủi ro
Sự dao động của thu nhập, dao động của giá chứng khoán hay cổ tức (lãi suất) là
những yếu tố cấu thành rủi ro.
 Rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống là những rủi ro do các yếu tố, các sự kiện nằm ngoài công ty, công
ty không thể kiểm soát được và nó có tác động rộng rãi đến toàn bộ thị trường, đến tất cả
các chứng khoán.
+ Rủi ro thị trường
Sự biến động giá chứng khoán do phản ứng của các nhà đầu tư trước các sự kiện
hữu hình / sự kiện thực tế (các sự kiện kinh tế chính trị xã hội…) xảy ra, hoặc các sự kiện
vô hình nảy sinh do yếu tố tâm lí, mặc dù tình hình của công ty/ tổ chức phát hành chứng
khoán vẫn không thay đổi. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện thực tế,
nhưng do tâm lí không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay phản ứng vượt quá các sự
kiện đó.
- Do sự thay đổi về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
- Do kì vọng, tâm lí của nhà đầu tư thay đổi
- Do đầu cơ
+ Rủi ro lạm phát (rủi ro sức mua)
- Tăng giá hàng hóa dịch vụ
- Đồng tiền mất giá
- Giảm lợi nhuận thực của khoản đầu tư

+ Rủi ro lãi suất
Nguyên nhân chính là do sự lên xuống của lãi suất chuẩn (lãi suất trái phiếu chính

phủ) dẫn tới sự thay đổi mức lợi nhuận kì vọng. Nói cách khác sự thay đổi chi phí vay vốn
đối với các loại TPCP sẽ ảnh hưởng chi phí và LN của công ty phát hành cổ phiếu, trái
phiếu.
Sự tăng lên của lãi suất chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Hệ quả trực
tiếp là sự tăng lên của lãi suất chuẩn làm giá cả của các loại chứng khoán khác giảm xuống
và ngược lại (Ảnh hưởng ngược chiều).
+ Rủi ro tỉ giá: do sự thay đổi tỉ giá hối đoái
+ Rủi ro pháp lí
- Lừa đảo
- Không/ khó chuyển nhượng
- Tranh chấp quyền lợi
 Rủi ro không hệ thống
Rủi ro không hệ thống là những rủi ro do các yếu tố nội tại gây nên, và tác động lên
1 ngành, một công ty hay 1 số chứng khoán nhất định.
+ Rủi ro kinh doanh: là sự biến động giá chứng khoán do những thay đổi trong hoạt
động kinh doanh dẫn đến lợi nhuận và cổ tức bị giảm sút. Nguyên nhân gây nên tình trạng
này có thể do các tác động từ bên trong và/ hoặc bên ngoài doanh nghiệp.
+ Rủi ro tài chính: liên quan đến sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp / xuất
hiện khi công ty tài trợ cho hoạt động của mình bằng vốn vay, kéo theo nghĩa vụ trả nợ, lãi
và phải thực hiện trước khi thanh toán cổ tức cho cổ đông. Nếu việc tài trợ bằng vốn vay
không hiệu quả thì có ảnh hưởng xấu đến giá cổ phiếu, trái tức, cổ tức và tiền hoàn vốn cho
trái chủ. Thông thường một công ty có đòn bẩy tài chính cao thì mức độ rủi ro tài chính
càng cao.
+ Rủi ro thanh khoản
- Khối lượng CP ít → khó mua bán
- Khối lượng giao dịch bình quân thấp, giá giảm → khó bán
- Lưu kí chứng khoán ít → khó bán
2.1.2.2 Đo lường rủi ro
Trong tài chính, người ta thường sử dụng toán xác suất thống kê để đo lường rủi ro
trong mức sinh lời của 1 loại, hoặc 1 danh mục chứng khoán bởi các thước đo: phương sai

hoặc độ lệch chuẩn (căn bậc hai của phương sai).
Phương sai (kí hiệu Var hay σ
2
)

được tính theo công thức sau:

σ
2
= ∑ { Pi [Ri - E(r)]
2
} i =1→n

Trong đó: Pi là xác suất của trạng thái i
Ri là doanh lợi kì vọng ứng với từng trạng thái i
E(r) là doanh lợi kì vọng của chứng khoán
Độ lệch chuẩn (kí hiệu SD/ σ) = √ σ
2

Độ lệch chuẩn phản ánh mức biến động (dao động) hay mức rủi ro của doanh lợi kì
vọng của 1 chứng khoán, hoặc 1 danh mục chứng khoán. Độ lệch chuẩn càng cao thì rủi ro

đầu tư chứng khoán càng lớn.

2.2. Phân tích đầu tư chứng khoán
Trước khi tiến hành đầu tư vào bất kì chứng khoán nào, cần phải xem xét việc đầu
tư đó trong mối quan hệ so sánh với các cơ hội đầu tư khác. Do đó cần tiến hành phân tích
chứng khoán.
- Phân tích chứng khoán bao gồm phân tích cơ bản (PTCB) và phân tích kĩ thuật
(PTKT)

- Phân tích cơ bản làm cơ sở cho việc nhận biết loại CK tốt, CK không tốt.
- Phân tích kĩ thuật để quyết định thời điểm mua bán CK.
- Phối kết hợp cả 2 loại phân tích là chìa khóa để thành công trong đầu tư CK.
- PTKT là phương pháp dựa vào diễn biến giá và khối lượng giao dịch trong quá
khứ để dự đoán, dự báo xu thế trong tương lai.
- PTCB trả lời câu hỏi CK nào (cái gì)? PTKT trả lời câu hỏi khi nào?
- Xác định thời điểm là vô cùng quan trọng đặc biệt là ở các thị trường hay biến
động và khi thực hiện chiến lược đầu tư ngắn hạn.
2.2.1. Phân tích cơ bản
2.2.1.1.Những vấn đề chung về phân tích cơ bản
Phân tích cơ bản bao gồm:
● Phân tích nền kinh tế vĩ mô và TTCK
+ Các vấn đề quốc tế
- Mức tăng trưởng kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm
- Chính sách bảo hộ, chính sách tự do hóa tài chính, chính sách tiền tệ (3 công cụ:
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc).
- Chính sách thương mại ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Các vấn đề quốc gia
- Môi trường chính trị xã hội.
- Môi trường pháp luật.
- Các điều kiện kinh tế vĩ mô: GDP, lạm phát, thất nghiệp, lãi suất, tỉ giá, sức chi
tiêu (sức mua),…
+ Các dự đoán về tình hình kinh tế và xu hướng của thị trường: quan hệ giữa thực
trạng nền kinh tế với diễn biến chung của TTCK không phải lúc nào cũng diễn ra cùng
chiều và nếu có thì chúng có thể xảy ra theo các chiều hướng và trật tự khác nhau.
+ Diễn biến của chỉ số giá trên thị trường.
+ Diễn biến giao dịch: chênh lệch cung cầu, chênh lệch khối lượng giữa các mức giá,
tỉ lệ tham gia đặt lệnh,…
+ Hành vi của nhà đầu tư CK: có phải là nhà đầu tư theo lí trí, nhà đầu tư tích cực
hay thụ động, có phải là nhà đầu tư ngắn hạn,…

● Phân tích ngành
+ Ngành là gì?
Theo Porter, ngành là 1 nhóm các công ty cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tương
tự nhau, vì vậy cạnh tranh trực tiếp với nhau.
+ Lí do phải phân tích ngành:

+ Mục tiêu phân tích ngành:
+ Phương pháp phân tích ngành:
- Phân tích thị trường: định vị giai đoạn phát triển của ngành - mô hình vòng đời sản
phẩm.
Các nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành: nhà cung cấp, khách hàng hay
người tiêu dùng, hàng hóa và dịch vụ thay thế, sự đe dọa gia nhập thị trường, chính sách
đối với ngành của Chính phủ.
- Phân tích đối thủ cạnh tranh
● Phân tích doanh nghiệp
+ Mục tiêu:
- Đánh giá tổng quan về doanh nghiệp: quá trình ra đời và phát triển, ngành nghề
kinh doanh, thị trường, công nghệ, nhân lực, quản trị, điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức
và triển vọng
- Đánh giá khả năng sinh lời: ROA, ROE, P/E…
- Đánh giá tình trạng tài chính: cơ cấu vốn, tài sản, khả năng thanh toán
- Định giá chứng khoán
+ Quy trình phân tích:
- Thu thập thông tin: thông tin nội bộ, thông tin bên ngoài, thông tin kế toán, quản
trị (các báo cáo tài chính của công ty: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ…).
- Xử lí thông tin: so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân
- Dự đoán, ra quyết định: quyết định đầu tư, quyết định tài trợ
+ Phương pháp phân tích:
(1) Phương pháp phân tích tỉ lệ

→Tính toán các chỉ tiêu tài chính theo tỉ lệ
→So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp:
- Giữa kì này với kì trước
- Giữa chỉ tiêu kế hoạch với thực hiện
- Với chỉ tiêu trung bình ngành
Ưu điểm của phương pháp:
- Đơn giản, dễ tính
- Thấy được xu thế biến động của các chỉ tiêu tài chính
- Đánh giá được vị thế của doanh nghiệp trong ngành
Nhược điểm của phương pháp:
- Số liệu không cập nhật, thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến kết quả tính toán và
các nhận xét đánh giá có thể không xác đáng, trung thực.
- Chỉ tiêu trung bình ngành khó xác định
- Không thấy rõ được nguyên nhân thay đổi của các chỉ tiêu tài chính
(2) Phương pháp tách đoạn: tách 1 chỉ tiêu tổng hợp thành nhiều chỉ tiêu cấu thành
bộ phận có mối quan hệ nhân quả.

Thu nhập sau thuế Thu nhập sau thuế Doanh thu Tổng tài sản
---------------------- = ---------------------- x ----------------- x ------------------

Vốn CSH Doanh thu Tổng tài sản Vốn CSH

2.2.1.2. Phân tích các chỉ tiêu tài chính
Phân tích các chỉ số tài chính sẽ cho thấy mối quan hệ đầy đủ ý nghĩa hơn giữa các
giá trị riêng lẻ trong báo cáo tài chính. Nếu như một con số riêng lẻ trong một báo cáo tài
chính không thực sự nói lên nhiều điều, thì một chỉ số tài chính riêng lẻ cũng có giá trị rất
thấp nếu chúng ta không xét nó trong mối tương quan với các chỉ số khác. Từ những chỉ số
được phân tích, chúng ta sẽ có những so sánh quan trọng nhằm xem xét kết quả hoạt động
của công ty trong mối tương quan với toàn bộ nền kinh tế, lĩnh vực ngành, các nhà cạnh
tranh chủ yếu trong phạm vi ngành, kết quả hoạt động trước đây của công ty.

♦ Nội dung phân tích:
Trên cơ sở hệ thống số liệu đã được phản ánh ở các báo cáo tài chính liên quan, để
đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp người ta thường tính toán và phân tích một số
các chỉ tiêu sau:
● Các chỉ tiêu phản ánh tình hình thanh toán

Hệ số
thanh toán chung
=
Tổng giá trị tài sản
Tổng nợ
(1)

Hệ số thanh toán chung phản ánh 1 đồng nợ được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài
sản của doanh nghiệp. Nhìn chung, hệ số này càng cao, chứng tỏ khả năng thanh toán của
doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp chủ động được nguồn vốn trong kinh doanh. Nếu hệ số
này bằng 1 hoặc nhỏ hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng mất hết vốn chủ
sở hữu và đang đi đến bờ vực phá sản.

Hệ số thanh toán
nợ dài hạn
=
Giá trị TSCĐ và ĐTDH
Tổng nợ dài hạn
(2)

Hệ số thanh toán nợ dài hạn phản ánh 1 đồng nợ dài hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu
đồng tài sản dài hạn của doanh nghiệp.

Hệ số thanh toán

nợ ngắn hạn
=
Giá trị TSLĐ và ĐTNH
Tổng nợ ngắn hạn
(3)

Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn phản ánh khả năng của doanh nghiệp có thể hoàn trả
các khoản nợ ngắn hạn bằng các TSLĐ của doanh nghiệp.

Hệ số thanh toán
nhanh nợ ngắn hạn
=
TSLĐ và ĐTNH – hàng tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
(4)

Hệ số thanh toán nhanh nợ ngắn hạn đo lường khả năng mà lượng tiền sẵn có vào
ngày lập bảng cân đối kế toán và lượng tiền mà doanh nghiệp hi vọng có thể chuyển đổi
được từ đầu tư tài chính và các khoản phải thu để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn.

Nhìn chung các hệ số thanh toán nợ ngắn hạn cao đem lại sự an toàn về tình hình tài
chính, đảm bảo doanh nghiệp luôn có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Ngược lại các hệ số thanh toán thấp thể hiện tiềm năng thanh toán kém. Tuy nhiên, 1 doanh
nghiệp có hệ số thanh toán nợ ngắn hạn quá cao cũng có mặt không tốt, do doanh nghiệp
tồn trữ khối lượng tiền quá lớn, một loại tài sản gần như không sinh lời.
● Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn và tình hình tài sản

Hệ số
nợ
=

Tổng nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
(5)

Hệ số
tự tài trợ
=
Tổng vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
(6)

Nhìn chung hệ số tự tài trợ cao phản ánh doanh nghiệp rất chủ động về vốn trong kinh
doanh. Tuy nhiên tùy theo đặc điểm ngành nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà có
kết cấu nguồn tài trợ và cơ cấu tài sản khác nhau. Do vậy không thể dựa vào từng chỉ tiêu
mà có những đánh giá xác đáng về doanh nghiệp.
Tỉ trọng
vốn cố định
=
Giá trị TSCĐ và ĐTDH
Tổng tài sản
(7)

Tỉ trọng
vốn lưu định
=
Giá trị TSLĐ và ĐTNH
Tổng tài sản
(8)

Các chỉ tiêu phản ánh quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn (9)

- Quan hệ giữa TSCĐ và nguồn dài hạn
Nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp = Vốn chủ sở hữu (Vcsh) + Nợ dài hạn (Nợdh)
Nếu TSCĐ > Nguồn dài hạn chứng tỏ nguồn tài trợ không hợp lý, doanh nghiệp dễ
lâm vào tình trạng thiếu và mất khả năng thanh toán do dùng nguồn ngắn hạn tài trợ cho tài
sản dài hạn.
- VLĐ thường xuyên = Vcsh + Nợdh - Giá trị còn lại của TSCĐ (VCĐ)
- Vốn lưu động thuần = TSLĐ và ĐTNH - Tổng nợ ngắn hạn
(Net working capital)

● Các chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản
Vòng quay
hàng tồ
n kho
=
Giá vốn hàng bán
Giá trị hàng hóa tồn kho bình quân
(10)

Số ngày 1 vòng quay
hàng tồn kho
=
Giá trị hàng hóa tồn kho bình quân
Giá trị hàng bán bình quân 1 ngày
(11)
Vòng quay hàng tồn kho phản ánh trong 1 kì, hàng tồn kho luân chuyển được bao
nhiêu lần. Số ngày của 1 vòng quay hàng tồn kho phản ánh số ngày từ khi mua nguyên vật
liệu, hàng hóa đến khi bán được hàng.
Nhìn chung, so với kì trước, vòng quay hàng tồn kho giảm, hay thời gian của 1 vòng

quay hàng tồn kho tăng, chứng tỏ hàng tồn kho luân chuyển chậm, vốn ứ đọng, kéo theo

nhu cầu vốn của doanh nghiệp tăng (trong điều kiện quy mô sản xuất kinh doanh không
thay đổi).
Nguyên nhân làm giảm vòng quay hàng tồn kho có thể do:
- Hiệu quả quản lí yếu tố đầu vào không tốt,
- Chu kì sản xuất kéo dài,
- Thành phẩm hàng hóa không bán được,
- Chính sách dự trữ vật tư, hàng hóa,
- Các nguyên nhân khách quan khác.
Thận trọng khi phân tích: trường hợp vòng quay hàng tồn kho tăng song phản ánh xu
hướng tài chính không tốt (sau khi bán, hàng khan hiếm, giá cả đầu vào tăng, không có
hàng bán…).
Vòng quay
các khoản phải thu
=
Doanh thu bán chịu trong kì
Phải thu bình quân
(12)

Kỳ thu tiền bình quân
=
Phải thu bình quân
Doanh thu bán chịu bquân 1 ngày
(13)
Kì thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để chuyển các khoản phải thu từ
người mua thành tiền. Nó cho thấy hiệu quả của cơ chế quản lí tín dụng của doanh nghiệp.
Nếu chính sách tín dụng của doanh nghiệp không thay đổi, vòng quay khoản phải thu
bình quân tăng, hay kì thu tiền bình quân ngắn hơn so với kì trước thường được coi là tốt,
bởi các tác động tích cực sau:
- Làm giảm vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán,
- Giảm nhu cầu vốn của doanh nghiệp (trong điều kiện quy mô sản xuất không thay

đổi).
- Tăng hiệu quả sử dụng vốn.
- Tăng khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn cho chủ nợ.
Ngược lại, nếu chính sách tín dụng của doanh nghiệp không thay đổi, vòng quay
khoản phải thu bình quân giảm, hay kì thu tiền bình quân dài hơn so với kì trước thường
được đánh giá là không tốt. Nguyên nhân của tình trạng đó có thể là:
- Công tác giám sát, quản lí nợ của doanh nghiệp không tốt.
- Khách nợ cố tình chây ỳ, hoặc lâm vào tình trạng thiếu / mất khả năng thanh toán.
- Kết quả của những biện pháp nhằm duy trì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp…
Lưu ý: cần thận trọng khi phân tích trong các trường hợp, vòng quay khoản phải thu
tăng song lại phản ánh xu hướng tài chính không tốt do các khoản phải thu giảm kéo theo
kết quả tiêu thụ giảm. Cần phân tích kĩ nguyên nhân để có cách nhìn nhận đánh giá chính
xác.
Kỳ thanh toán (phải trả)
bình quân
=
Phải trả bình quân
Doanh thu mua chịu bquân 1 ngày
(14)

Vòng quay
vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
VLĐ bình quân
(15)


● Các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và phân phối thu nhập


Chỉ số lợi nhuận/ doanh thu
(doanh lợi)
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
(16)
(Net profit margin - lợi nhuận biên)
Trên thực tế, mức độ lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong một
ngành thì công ty nào quản lí và sử dụng các yếu tố đầu vào (vốn, nhân lực…) tốt hơn thì
sẽ có hệ số lợi nhuận / doanh thu (lợi nhuận ròng) cao hơn.

Chỉ số lợi nhuận/ tài sản
(ROA)
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng vốn bình quân
(17)

Chỉ số lợi nhuận/ vốn CSH
(ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng vốn CSH bình quân
(18)

ROE thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu khác trên thị
trường. Thông thường ROE càng cao thì cổ phiếu càng hấp dẫn, vì tỉ số này cho thấy được
khả năng sinh lời của công ty so với các công ty khác. Chỉ số này là thước đo chính xác
nhất để đánh giá một đồng vốn của cổ đông bỏ ra tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE
cao chứng tỏ công ty sử dụng có hiệu quả đồng vốn của cổ đông. Từ đó nhà đầu tư có cơ sở

tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty X hay công ty Y có cùng ngành nghề
với nhau.

Thu nhập ròng một cổ
phiếu thường (EPS)
=

Lợi nhuận ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi
Tổng khối lượng cổ phiếu thường đang lưu hành
(19)

Tài sản ròng một cổ
phiếu thường (NAV)
=

Tổng tài sản - Tổng nợ - Tổng mệnh giá CPUĐ
Tổng khối lượng cổ phiếu thường đang lưu hành
(20)

Cổ tức một cổ phiếu
thường (DPS/ DIV)
=

Thu nhập ròng - Cổ tức CPUĐ - Thu nhập giữ lại
Tổng khối lượng cổ phiếu thường đang lưu hành
(21)

Nhìn chung các chỉ số trên (16,17,18,19,20,21) càng cao, chứng tỏ doanh nghiệp hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Song để có cái nhìn toàn diện hơn, cần so sánh với
các chỉ số của chính doanh nghiệp ở các thời kì trước và so sánh với số trung bình của

ngành hoặc của các doanh nghiệp có điều kiện tương tự trong cùng ngành.

Hệ số chi trả cổ tức
(DPS/ EPS)
=

Tổng cổ tức đem chia cho cổ phiếu thường

Lợi nhuận ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi
(22)

hoặc, Hệ số chi trả cổ tức = 1 – tỉ lệ thu nhập giữ lại
Hệ số chi trả cổ tức thường được tuyên bố tại đại hội cổ đông thường niên, nói lên cổ
tức của cổ đông chiếm bao nhiêu phần trăm trong thu nhập, nó cũng nói lên chính sách chia

cổ tức của công ty. Chính sách này có thể thay đổi theo từng thời kì và do đó nó phản ánh
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.

Suất cổ tức hiện hành
=
Cổ tức 1 cổ phiếu thường (DPS)
Thị giá cổ phiếu thường
(23)

Suất cổ tức hiện hành phản ánh thu nhập của nhà đầu tư tính trên vốn thực anh ta phải
bỏ ra để có được cổ tức tương ứng.

● Các chỉ tiêu về triển vọng phát triển của công ty

Hệ số thu nhập giữ lại (b)

=
1 - hệ số chi trả cổ tức (24)

Hệ số thu nhập giữ lại là 1 yếu tố quan trọng nói lên sự tích lũy của công ty cho tương
lai, góp phần vào tốc độ phát triển của công ty sau này.

Hệ số giá / thu nhập
(P/E)
=
Thị giá cổ phiếu (market price - Pm)
Thu nhập ròng của một cổ phiếu (EPS)
(25)

P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư
phải trả giá cho mỗi đồng thu nhập.
Một công ty hiện tại có thu nhập chưa cao, nhưng lại được thị trường đánh giá cao về
tiềm năng phát triển thì P/E sẽ cao, và ngược lại.

Chỉ số thị giá / thư giá
(M/B)
=
Thị giá cổ phiếu (market price - Pm)
Giá trị sổ sách 1 CP thường
(26)

Chỉ tiêu này cho biết giá cổ phiếu đang bán trên thị trường đắt hơn, rẻ hơn hay bằng
mệnh giá. Tương tự như P/E, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ công ty được đánh giá có
triển vọng phát triển trong tương lai.

Tốc độ tăng trưởng (growth rate)

=
Tỉ lệ thu nhập giữ lại (b) x ROE (27)

 Quy trình và kĩ thuật phân tích đầu tư bằng các chỉ số tài chính:
Trên thực tế, số lượng các loại chứng khoán được cung ứng cho thị trường là rất lớn.
Vì vậy, nhà đầu tư không thể tiến hành phân tích tất cả các loại chứng khoán hiện có trên
thị trường. Ngay cả các nhà phân tích chuyên nghiệp, tùy theo điều kiện và những thế
mạnh riêng mà họ có thể chỉ chuyên phân tích chứng khoán ở một ngành hoặc một nhóm
ngành nhất định. Để đạt hiệu quả cao trong phân tích, nhà đầu tư cần tuân thủ một quy
trình bao gồm các bước sau :
- (1) Lựa chọn 1 vài doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực (ngành) mà mình quan tâm để
tìm thông tin.
- (2) Phân tích, so sánh tình hình tài chính của doanh nghiệp giữa các thời kì và với

các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, hoặc số trung bình của ngành.
Mỗi chỉ số đề cập ở phần trên chỉ cung cấp một số thông tin về mức độ hiệu quả trong
hoạt động của một công ty. Do vậy, việc phân tích tài chính chỉ đặc biệt có ý nghĩa khi có
một số chuẩn mực để so sánh, ví dụ so sánh các chỉ số của cùng một doanh nghiệp giữa các
thời kì khác nhau để đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp ; so sánh các chỉ số
của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, với ngành, hay với công ty hoạt động tốt nhất
trong cùng ngành để chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của công ty được lựa chọn phân
tích.
- (3) Đánh giá tổng quát về các cổ phiếu, trái phiếu đã phân tích; so sánh đối chiếu với
mục tiêu đã xác định để ra quyết định đầu tư.
Việc phân tích tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp ở hiện tại
và dự báo triển vọng của nó ở tương lai, do đó nếu chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu, phân
tích là các báo cáo tài chính thì có thể có những nhìn nhận đánh giá lệch lạc, thiếu xác đáng
về một doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải kết hợp với các nội dung phân tích cơ bản khác, so
sánh với mục tiêu đã xác định để có quyết định đầu tư thích hợp. Thực tế cho thấy không
có một quyết định đầu tư nào là đúng cho mọi điều kiện và mọi chủ thể đầu tư.


 Một số lưu ý trong đầu tư chứng khoán
Các nhà đầu tư chứng khoán là những nhà đầu tư mạo hiểm vì cổ phiếu là một loại
hàng hóa đặc biệt, và TTCK là thị trường bậc cao, mức độ rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Cơ hội
thành công trong đầu tư vào TTCK của nhà đầu tư sẽ lớn hơn nếu biết cách tránh những sai
lầm sau:
(1) Không có kế hoạch đầu tư rõ ràng
Nhà đầu tư cần quan tâm đến một vài chính sách và kế hoạch đầu tư cá nhân sau đây:
- Có mục đích và mục tiêu rõ ràng,
- Xác định những rủi ro gì là thích hợp với với danh mục đầu tư của mình,
- Dùng tiền đầu tư vào hạng mục tài sản nào. Việc phân bổ các khoản mục đầu tư
nên đi kèm với các mục tiêu đã đề ra, đồng thời phải xem xét đến các yếu tố rủi ro thích
hợp.
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu tỉ lệ rủi ro và tăng cơ hội thu thêm lợi
nhuận.
(2) Giới hạn thời gian đầu tư quá ngắn
Hầu hết các nhà đầu tư thường qua tập trung vào các hoạt động đầu tư mang tính
ngắn hạn. Đó chính là sai lầm thứ hai mà họ mắc phải.
(3) Tập trung sự chú ý quá nhiều vào các thông tin tài chính do các phương tiện
thông tin đại chúng đưa ra
(4) Không có sự tái cân bằng
Tái cân bằng là một tiến trình khiến cho số tiền đầu tư vào các khoản mục tài sản
trong danh mục đầu tư quay trở về đúng với mục tiêu ban đầu. Nhìn chung các nhà đầu tư
có xu hướng không muốn bán những cổ phiếu đang đắt giá để đề phòng trường hợp khi cổ
phiếu đó giảm giá thì danh mục sẽ trở về mức cân bằng như cũ. Những cách suy nghĩ như
vậy là cách suy nghĩ trong thời điểm ngắn hạn. Tái cân bằng một cách có ý thức sẽ gặt hái
được những thành quả trong dài hạn.

(5) Quá tin tưởng vào năng lực của những nhà quản lí quỹ đầu tư
Trên thực tế hiếm có các nhà đầu tư cá nhân có đủ thời gian để tính toán đầu tư

mang về lợi nhuận trong dài hạn. Đó chính là lí do tại sao có quá nhiều nhà đầu tư tin
tưởng vào việc đầu tư vào các quỹ và cho rằng năng lực của các nhà quản lí quỹ trong việc
tính toán lợi nhuận trên thị trường là hơn hẳn họ.
(6) Không quan tâm đến các quỹ đầu tư chỉ số
Khái niệm đầu tư theo chỉ số không còn mới với thế giới, nhưng lại khá mới đối với
các nhà đầu tư Việt nam. Theo phương pháp này, đầu tư sẽ thực hiện vào toàn bộ thị trường
nên rủi ro sẽ thấp hơn so với đầu tư vào từng công ty. Các nghiên cứu đã chứng minh phần
lớn các nhà quản lí quỹ đầu tư ở dưới mức chuẩn cho phép.
(7) Chạy theo thành tích lợi nhuận
Rất nhiều nhà đầu tư chọn các hạng mục tài sản, các chiến lược, các nhà quản lí và
các quỹ đầu tư dựa trên những thành tích lớn hiện tại. Cảm giác “đang bỏ lỡ một cơ hội
kiếm lời lớn” sẽ có thể dẫn đến những quyết định đầu tư tồi tệ hơn bất kì một yếu tố đơn lẻ
nào đó, không có một hạng mục tài sản, quỹ hoặc chiến lược đặc biệt nào mà có hiệu quả
liên tiếp trong vòng 3 đến 4 năm.

 Mô hình canslim
Canslim là một phương pháp chọn muc chứng khoán nổi tiếng được nhiều người
biết đến do William J.Oneil người sáng lập ra tờ Investor’s Business Daily đã đúc kết 7
yếu tố cần thiết để nhận dạng những cổ phiếu có khả năng sinh lời lớn trong tương.
Canslim là tập hợp 7 chữ cái đầu tiên của 7 yếu tố mà theo William J.Oneil nhận
định là rất hiệu quả khi sử dụng để đánh giá cổ phiếu, đó là:
- C (Current Quaterly Earning Per Share) - Lợi nhuận trong quý hiện tại: Nghiên
cứu của J.Oneil cho thấy hầu hết các cổ phiếu tốt đều có sự gia tăng lợi nhuận so với cùng
quý năm trước (tỉ lệ tăng càng cao càng tốt). Khi lựa chọn cổ phiếu đầu tư, cần để ý tới các
cổ phiếu có sự gia tăng lợi nhuận mạnh mẽ.
- A (Annual Earnings Increase) - Gia tăng doanh lợi hàng năm: Theo J.Oneil, cổ
phiếu tốt là cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn trong vòng 5 năm trước. Cần đặc
biệt lưu ý tới các cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận hàng năm ổn định và trên 25%. Tuy
nhiên cũng nên chú ý tới chu kì kinh doanh của từng ngành, từng công ty. Theo J.Oneil,
tiêu chí này có thể giúp bạn loại bỏ khoảng 80% các cổ phiếu tồi.

- N (New Products, Management, Heights, More People Trading the Stock) - Cổ
phiếu tăng bắt nguồn từ một số nhân tố nội tại nào đó. Những nhân tố này thường là sản
phẩm mới của công ty của công ty, ban giám đốc mới, phương thức quản lí mới, hay mức
giá trần mới của cổ phiếu.
- S (Supply and Demand) - Số cung và số cầu: Quy luật cung cầu quyết định giá của
hầu hết các hàng hóa và cổ phiếu không phải là một ngoại lệ. Theo J.Oneil, cổ phiếu của
các công ty lớn không phải luôn là các cổ phiếu nên mua. Cổ phiếu có số lượng lưu hành
thấp sẽ dễ dàng gia tăng giá hơn các cổ phiếu có số lượng lưu hành lớn. Cổ phiếu được các
nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỉ lệ lớn thường là cổ phiếu có độ an toàn cao. Đặc biệt
cần lưu ý đến các cổ phiếu được công ty mua lại và cổ phiếu của các công ty có tỉ lệ nợ dài
hạn trên vốn tự có vừa phải. Đối với các công ty có chênh lệch lớn về cung cầu thì khả

năng tăng giá của cổ phiếu là dễ dàng hơn.
- L (Leader and Laggard) - Cổ phiếu hàng đầu hay bị xếp hạng thấp: Theo J.Oneil
chỉ nên mua 2 hay 3 cổ phiếu tốt nhất trong toàn nhóm. Đặc biệt tránh mua các cổ phiếu
tăng theo đuôi vì các cổ phiếu này không sớm thì muộn cũng sụt giá.
- I (Institutional Sponsorship) - Các định chế nói tới ở đây thường là các cơ quan
chức năng, các cơ quan chính phủ chuyên về tài chính đầu tư. Nếu các cơ quan này nắm
giữ số lượng cổ phiếu nhất định của một công ty nào đó thì công ty ấy sẽ có sự ủng hộ và
trợ giúp mạnh mẽ từ các định chế đó, rất thuận lợi cho giá cổ phiếu tăng mạnh. Tuy nhiên
cần chú ý đối với những cổ phiếu được các định chế này nắm giữ với số lượng quá lớn.
- M (Market Direction) - Chiều hướng biến động của thị trường: Bạn có thể đúng
trong tất cả các tiêu chí kể trên nhưng nếu bạn sai lầm về phương hướng thị trường, thì có
thể 3 trong số 4 cổ phiếu bạn mua sẽ giảm giá và bạn sẽ mất tiền. Yếu tố thị trường đặc biệt
quan trọng vì nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá cổ phiếu. J.Oneil nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của việc nghiên cứu đồ thị biến động giá chứng khóan theo ngày.

2.2.1.3. Phân tích mẫu một số công ty niêm yết
● Tình huống: Công ty cổ phần Cáp và Dây điện Viễn thông
Công ty cổ phần Cáp và Dây điện Viễn thông (SACOM) được thành lập từ tháng

2/1998 trên cơ sở nhà máy Cáp và Vật liệu Viễn thông.
● Cơ cấu vốn
- Vốn điều lệ ban đầu: 120.000 triệu đồng
- Vốn điều lệ hiện nay: 234.000 triệu đồng
- Số cổ phiếu niêm yết: 23.400.000
Cổ đông Số tiền (triệu đồng) Tỉ lệ sở hữu
Nhà nước 88.059,45 38%
Cổ đông khác 145.940,55 62%
● Kết quả kinh doanh 2 năm 2004 -2005
Đơn vị tính : triệu đồng
Chỉ tiêu 2004 2005 So sánh
2005/2004
So sánh với kế
hoạch 2005
Doanh thu thuần 485,890 836,381 172,13% 104,30%
Tổng lợi nhuận
trước thuế TNDN
79,365 111,736 140,79% 152,06%
Thuế TNDN 6,269 8,549 136,36% 143,25%
Lợi nhuận sau thuế
TNDN
73,096 103,187 141,17%
Cổ tức 1.600đ 1.600đ 100%
Nộp NSNN 52.203,67 87.333,22 167,29%
Thu nhập bình quân
người/ tháng
5,03 5,64 112,04%
● Đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh
Năm 2005, tình hình kinh doanh của công ty có kết quả tốt so với 2004, mặc dù tình

×