Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Tài liệu Thơ tình song ngữ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.02 KB, 87 trang )

Người dịch: Nguyễn Viết Thắng
Apollinaire, Guilaume (1880-1918)
CẦU MIRABEAU
Dưới cầu Mirabeau êm đềm trôi dòng Seine
Trôi cả tình yêu của anh và em
Không biết anh có còn nên nhớ
Niềm vui sẽ đến theo sau nỗi ưu phiền.
Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.
Mặt đối mặt và tay trong tay nhau
Vòng tay ta như cầu
Dưới cầu dòng nước chảy
ánh mắt rã rời vì li biệt dài lâu.
Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.
Tình ra đi như dòng nước trôi nhanh
Tình yêu của em và anh
Cuộc đời ơi, sao mà chậm rãi
Hy vọng sao mà dữ dội cuồng điên.
Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.
Vẫn trôi đều ngày tuần, tháng năm
Quá khứ và tình yêu quay trở lại không còn
Chỉ một điều không bao giờ thay đổi
Dưới cầu Mirabeau êm đềm trôi dòng Seine.
Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.
Le pont Mirabeau
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut-il qu'il m'en souvienne


La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l'onde si lasse
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
L'amour s'en va comme cette eau courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure.
Aragon, Louis (1897 – 1982)
TÌNH HẠNH PHÚC KHÔNG HỀ CÓ
Con người chẳng có quyền gì. Không ở trong sức mạnh
Không ở trong tim, trong sự yếu đuối của mình
Khi giang rộng vòng tay – thì tai họa đứng sau lưng
Xiết chặt vào lòng – là giết mình mãi mãi
Sự hành hạ con người đôi cánh rộng mở ra
Tình hạnh phúc không hề có.
Bị tước mất vũ khí, đời người lính còn gì

Khi người ta đem đặt thứ khác vào số phận
Mỗi buổi sáng thức giấc thấy đời trống vắng
Rồi chờ đợi buổi chiều với một nỗi buồn thương
Không cần nước mắt đâu. Đó là cuộc đời anh
Tình hạnh phúc không hề có.
Tình của anh và nỗi đau, nỗi đau đớn của anh
Như con chim bị thương, em trong tim anh đó
Anh và em bước đi dưới ánh mắt thiên hạ.
Anh bện vào những lời rồi nhắc lại những lời anh
Vì đôi mắt của em mà người ta xin chết sẵn sàng
Tình hạnh phúc không hề có.
Không, ta đã muộn màng để học cách sống từ đầu
Cứ để cho hai con tim trong buổi chiều cùng đau khổ
Cần đau đớn để cho bài ca sinh hạ
Và lòng thương, khi đám cháy đã không còn
Cần thổn thức để cùng cây đàn ghi ta hát lên
Tình hạnh phúc không hề có.
Không có trên đời tình yêu mà không biết đến đau thương
Không có trên đời tình yêu mà khổ đau không mang đến
Không có trên đời tình yêu mà không sống bằng đau đớn
Và anh cũng như em, vẫn yêu đất nước quê hương
Không có tình yêu mà không có nước mắt, đau buồn
Tình hạnh phúc không có nhưng tình vẫn sống
Và đâu phải vì điều này mà anh hết yêu em.
Il n'y a pas d'amour heureux
Rien n'est jamais acquis à l'homme ni sa force
Ni sa faiblesse ni son coeur et quand il croit
Ouvrir ses bras son ombre est celle d'une croix
Et quand il croit serrer son bonheur il le broie
Sa vie est un étrange et douloureux divorce

Il n'y a pas d'amour heureux
Sa vie Elle ressemble à ces soldats sans armes
Qu'on avait habillés pour un autre destin
A quoi peut leur servir de se lever matin
Eux qu'on retrouve au soir désoeuvrés incertains
Dites ces mots Ma vie et retenez vos larmes
Il n'y a pas d'amour heureux
Mon bel amour mon cher amour ma déchirure
Je te porte dans moi comme un oiseau blessé
Et ceux-là sans savoir nous regardent passer
Répétant après moi les mots que j'ai tressés
Et qui pour tes grands yeux tout aussitôt moururent
Il n'y a pas d'amour heureux
Le temps d'apprendre à vivre il est déjà trop tard
Que pleurent dans la nuit nos coeurs à l'unisson
Ce qu'il faut de malheur pour la moindre chanson
Ce qu'il faut de regrets pour payer un frisson
Ce qu'il faut de sanglots pour un air de guitare
Il n'y a pas d'amour heureux
Il n'y a pas d'amour qui ne soit à douleur
Il n'y a pas d'amour dont on ne soit meurtri
Il n'y a pas d'amour dont on ne soit flétri
Et pas plus que de toi l'amour de la patrie
Il n'y a pas d'amour qui ne vive de pleurs
Il n'y a pas d'amour heureux
Mais c'est notre amour à tous les deux.
Char, René (1907 – 1988)
SỰ AN ỦI
Tình yêu của tôi thơ thẩn trên đường phố. Chẳng lẽ còn ý nghĩa đi về đâu trong sự lựa
chọn con đường? Đã lìa đứt sợi chỉ của thời gian. Giờ đã không còn là tình yêu tôi nữa mà

mỗi người đều có thể chuyện trò. Tình đã quên tất cả, tình đã chẳng nhớ ra, ai đã trao cho
tình linh hồn ngày đó.
Tình bây giờ đi tìm người như thế trong sự hứa hẹn của những ánh mắt nhìn. Tình xuyên
qua không gian mà sự thủy chung của tôi vẫn giữ gìn. Tình vẽ ra hy vọng rồi xóa đi niềm
hy vọng thật vô tâm. Tình trăm trận trăm thắng không tham dự vào những chiến công.
Tôi vẫn sống trong sâu thẳm của tình, giống như mảnh vỡ hạnh phúc của con tàu bị chìm.
Tình không biết rằng sự cô đơn của tôi trở thành sự giàu có của tình. Trên đường kinh
tuyến mênh mông, nơi đánh dấu sự thăng hoa của tình, tự do của tôi làm cho tình đổ vỡ.
Tình yêu của tôi thơ thẩn trên đường phố. Chẳng lẽ còn ý nghĩa đi về đâu trong sự lựa
chọn con đường? Đã lìa đứt sợi chỉ của thời gian. Giờ đã không còn là tình yêu tôi nữa mà
mỗi người đều có thể chuyện trò. Tình đã quên tất cả, tình đã chẳng nhớ ra, ai đã trao cho
tình linh hồn ngày đó, ai đã chiếu sáng cho tình từ xa, để cho tình khỏi ngã.
Allégeance
Dans les rues de la ville il y a mon amour. Peu importe où il va dans le temps divisé. Il n'est
plus mon amour, chacun peut lui parler. Il ne se souvient plus; qui au juste l'aima?
Il cherche son pareil dans le voeu des regards. L'espace qu'il parcourt est ma fidélité. Il
dessine l'espoir et léger l'éconduit. Il est prépondérant sans qu'il y prenne part.
Je vis au fond de lui comme une épave heureuse. A son insu, ma solitude est son trésor.
Dans le grand méridien où s'inscrit son essor, ma liberté le creuse.
Dans les rues de la ville il y a mon amour. Peu importe où il va dans le temps divisé. Il n'est
plus mon amour, chacun peut lui parler. Il ne se souvient plus; qui au juste l'aima et
l'éclaire de loin pour qu'il ne tombe pas?
Prudhomme, Sully (1839 – 1907)
GIỐNG NHAU
Nếu em muốn biết được vì sao anh
Lại yêu em chân thành, tha thiết vậy?
Em yêu ạ, anh yêu em là bởi
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
ánh mắt em đầy hy vọng nhưng buồn
Tỏa ánh sáng chói ngời như tia chớp

Trong lòng em ngập tràn bao mơ ước
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Thân hình em kì diệu và mong manh
Như người đẹp thành Tơ-roa thuở trước
Vẻ lộng lẫy trên mái tóc, trên ngực
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Tình yêu chân thành, tha thiết cháy lên
Mỗi giây phút lời “yêu em” anh nói
Nhưng em bước đi, không thèm ngoái lại
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.
Ressemblance
Vous désirez savoir de moi
D'ou me vient pour vous ma tendresse.
Je vous aime, voici pourquoi!
Vous ressemblez à ma jeunesse.
Vos yeux noirs sont mouillés souvent
Par l'espérance et la tristesse
Et voux allez toujours rêvant:
Vous ressemblez à ma jeunesse.
Votre tête est de marbre pur
Faite pour le ciel de la Grèce
Où la blancheur luit dans l'azur:
Vous ressemblez à ma jeunesse.
Je vous tends chaque jour la main
Vous offrant l'amour qui m'oppresse.
Mais vous passez votre chemin,
Vous ressemblez à ma jeunesse!
Rimbaud, Athur (1854-1891)
CẢM GIÁC
Buổi chiều xanh, trên những con đường nhỏ

Rảo bước chân trên hoa cỏ nhẹ nhàng
Mơ ước trong đầu, trên tóc ngọn gió
Tôi nhận ra hơi mát dưới bàn chân.
Không nghĩ suy, không lời trên môi lặng
Nhưng con tim yêu hết thảy trên đời
Và ngọt ngào trong hoàng hôn thơ thẩn
Thiên nhiên tựa hồ như người đẹp cùng tôi.
SENSATION
Par les soirs bleus d'été j'irai dans les sentiers,
Picoté par les blés, fouler 1'herbe menue :
Rêveur, j'en sentirai la fraîcheur à mes pieds,
Je laisserai Ic vent baigner ma tête nue !
Je ne parlerai pas, je ne penserai rien.
Mais 1 'amour infini me montera dans l'âme :
Et j'irai loin, bien loin, comme un bohémien,
Par la Nature, — heureux comme avec une femme.
Verlaine, Paul (1844 – 1896)
La Chanson des Ingénues
Những mắt xanh thơ ngây
Từ trong câu chuyện cổ
Khăn xếp quấn trên đầu
Người đời không còn nhớ.
Ta thân thiết vô vàn
Ánh sáng ngày tinh khiết
Như bí ẩn kín thầm
Như màu xanh mơ ước.
Ta chạy ra đồi cây
Chỉ bóng đêm rơi xuống
Cùng chuyện trò, bắt bướm
Cười vui suốt cả ngày.

Đội trên đầu mũ rơm
Che cho ta ánh nắng
Vải áo quần nhẹ mỏng
Còn màu nào trắng hơn!
Caussades hay Richelieux
Hay chàng Faublas
Ta nghe tiếng thầm thì
Và những mắt mỏi mệt.
Nhưng thở than vô ích
Các chàng chỉ đứng nhìn
Những chiếc váy thì thầm
Lời mỉa mai chua chát.
Trêu tức vẻ hình dung
Những chàng trai tinh nghịch
Vẻ kiêu kỳ trinh bạch
Tránh lời nói dịu dàng.
Nhưng dù sao trong tim
Những ý nghĩ kín thầm
Ngày mai rồi yêu mến
Điều hú họa gì chăng.
La Chanson des Ingénues
Nous sommes les Ingénues
Aux bandeaux plats, à l'oeil bleu,
Qui vivons, presque inconnues,
Dans les romans qu'on lit peu.
Nous allons entrelacées,
Et le jour n'est pas plus pur
Que le fond de nos pensées,
Et nos rêves sont d'azur ;
Et nous courons par les prés

Et rions et babillons
Des aubes jusqu'aux vesprées,
Et chassons aux papillons ;
Et des chapeaux de bergères
Défendent notre fraîcheur
Et nos robes - si légères -
Sont d'une extrême blancheur ;
Les Richelieux, les Caussades
Et les chevaliers Faublas
Nous prodiguent les oeillades,
Les saluts et les "hélas !"
Mais en vain, et leurs mimiques
Se viennent casser le nez
Devant les plis ironiques
De nos jupons détournés ;
Et notre candeur se raille
Des imaginations
De ces raseurs de muraille,
Bien que parfois nous sentions
Battre nos coeurs sous nos mantes
À des pensers clandestins,
En nous sachant les amantes
Futures des libertins.
Goethe, Johann Wolfgang von (1749-1832)
GỬI MIGNON
Bay trên trời chiếu sáng
Xe mặt trời màu vàng
Tỏa sáng tận xa xăm
Nhưng than ôi, gần sáng
Trong con tim sâu thẳm

Thức dậy nỗi đau buồn.
Đêm nghiệt ngã cùng ta
Vỗ về những giấc mơ
Giờ khắc trôi chầm chậm
Nhưng than ôi, gần sáng
Trong con tim sâu thẳm
Đan kết nỗi buồn xưa.
Tưởng nhớ tháng ngày qua
Dưới bầu trời mờ xa
Những con tàu cập bến
Nhưng ở trong lòng ta
Một nỗi buồn cay đắng
Không đi khỏi bao giờ.
Ta ngỡ là khỏe mạnh
Mặc áo quần sang trọng
Chỉ dành cho ngày vui
Nhưng những ai chào đón
Có ai người cảm nhận
Trong tim ta ngậm ngùi.
Mặc lòng khóc cay đắng
Nhưng nước mắt ta chùi
Giá như đau khổ này
Đưa ta về ngôi mộ
Thì từ lâu ta đã
Ngủ yên trong đất rồi.
AN MIGNON
Über Tal und Fluß getragen,
Ziehet rein der Sonne Wagen.
Ach, sie regt in ihrem Lauf,
So wie deine, meine Schmerzen,

Tief im Herzen,
Immer morgens wieder auf.
Kaum will mir die Nacht noch frommen,
Denn die Träume selber kommen
Nun in trauriger Gestalt,
Und ich fühle dieser Schmerzen,
Still im Herzen
Heimlich bildende Gewalt.
Schon seit manchen schönen Jahren
Seh ich unten Schiffe fahren,
Jedes kommt an seinen Ort;
Aber ach, die steten Schmerzen,
Fest im Herzen,
Schwimmen nicht im Strome fort.
Schön in Kleidern muß ich kommen,
Aus dem Schrank sind sie genommen,
Weil es heute Festtag ist;
Niemand ahnet, daß von Schmerzen
Herz im Herzen
Grimmig mir zerrissen ist.
Heimlich muß ich immer weinen,
Aber freundlich kann ich scheinen
Und sogar gesund und rot;
Wären tödlich diese Schmerzen
Meinem Herzen,
Ach, schon lange wär ich tot.
Szymborska, Wislawa (1923-)
NHÀ GA
Sự không có mặt của em đến thành phố N
Đã theo đúng thời gian biểu.

Em đã báo trước với anh
Bằng bức điện mà rồi em không gửi.
Và anh đã không kịp tới
Theo thời gian hẹn hò.
Con tàu đi vào đường thứ ba
Có rất nhiều người ra đón.
Trong đám đông, em hướng về phía cổng
Không có người đưa đón của mình.
Một vài người phụ nữ vội vàng
Nhìn theo em
Bước đi vội vã.
Có ai đấy chạy đến bên một người phụ nữ
Người này em không quen
Nhưng người phụ nữ nhận ra người đàn ông
Chỉ trong khoảnh khắc.
Họ hôn nhau thắm thiết
Không bằng nụ hôn của chúng mình
Và chiếc va li bị lấy cắp
Không phải là chiếc va li của em.
Nhà ga thành phố N
Đã trả thi rất giỏi
Về sự tồn tại khách quan.
Cái chung vẫn còn nguyên vẹn
Cái riêng đã hoàn thành
Theo như số trời định sẵn.
Và ngay cả lần hò hẹn
Cũng đã định trước rồi.
Nhưng, than ôi
Sau khi chúng mình có mặt.
Và thiên đường đã mất

Giống như chân lý cuộc đời.
Ở đâu, chứ không phải ở đây
Ở đâu, chứ không phải ở đây
Vang lên những lời thánh thót.
Dworzec
Nieprzyjazd mój do miasta N.
odbył się punktualnie.
Zostałeś uprzedzony
niewysłanym listem.
Zdążyłeś nie przyjść
w przewidzianej porze.
Pociąg wjechał na peron trzeci.
Wysiadło dużo ludzi.
Uchodził w tłumie do wyjścia
brak mojej osoby.
Kilka kobiet zastąpiło mnie
pośpiesznie
w tym pośpiechu.
Do jednej podbiegł
ktoś nie znany mi,
ale ona rozpoznała go
natychmiast.
Oboje wymienili
nie nasz pocałunek,
podczas czego zginęła
nie moja walizka.
Dworzec w mieście N.
dobrze zdał egzamin
z istnienia obiektywnego.
Całość stała na swoim miejscu.

Szczegóły poruszały się
po wyznaczonych torach.
Odbyło sie nawet
umówione spotkanie.
Poza zasięgiem
naszej obecności.
W raju utraconym
prawdopodobieństwa.
Gdzie indziej.
Gdzie indziej.
Jak te słówka dźwięczą.
Puskin, Alexander (1799-1837)
CÒN LẠI GÌ CHO EM
Còn lại gì cho em trong tên gọi
Sẽ chết đi như tiếng dội buồn thương
Của ngọn sóng vỗ bờ xa mòn mỏi
Như rừng sâu tiếng vọng giữa đêm trường.
Cái tên gọi trong những dòng lưu bút
Để lại cho em dấu chết, tựa như
Lời ai điếu giữa những viền hoạ tiết
Mà lời văn nghe u ẩn, mịt mù.
Cái tên gọi đã từ lâu quên lãng
Trong những cơn xúc động mới cuồng điên
Chẳng hề gợi trong hồn em một thoáng
Hoài niệm xưa bao tha thiết êm đềm.
Nhưng nếu gặp ngày âm thầm đau đớn
Phút u buồn xin em hãy gọi tên
Và hãy nói: vẫn còn đây kỷ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim(1).
* * *

Что в имени тебе моем?
Оно умрет, как шум печальный
Волны, плеснувшей в берег дальний,
Как звук ночной в лесу глухом.
Оно на памятном листке
Оставит мертвый след, подобный
Узору надписи надгробной
На непонятном языке.
Что в нем? Забытое давно
В волненьях новых и мятежных,
Твоей душе не даст оно
Воспоминаний чистых, нежных.
Но в день печали, в тишине,
Произнеси его тоскуя;
Скажи: есть память обо мне,
Есть в мире сердце, где живу я...
Rubtsov, Nicolai (1936-1971)
ANH ĐÃ QUÊN MẤT RẰNG YÊU LÀ GÌ
Anh đã quên mất rằng yêu là gì
Khi bước đi dưới trăng trên đường phố
Đã thốt ra biết bao lời nguyền rủa
Giờ nhớ về bỗng thấy tối tăm ghê.
Có một lần anh áp mặt vào tường
Theo dấu vết một hình thù quái gở
Rồi một mình kêu lên trong giấc ngủ
Khi thức giấc, anh cất bước lên đường.
Cánh cửa mở ra trong đêm muộn màng
Em không vui, gương mặt còn ngái ngủ
Anh đứng bên bục cửa như con thú
Khao khát vô cùng ấm áp tình thương.

Anh đi đi! Em tái nhợt kêu lên
Tình cảm chúng mình chỉ là quá khứ
Giờ với anh, em không còn gì nữa
Anh đi đi! Em khóc, chớ đứng nhìn…
Và anh quay lại theo con đường rừng
Trên con đường đã đi nhiều đám cưới
Không tự chủ được mình, rất tăm tối
Anh lo âu đi trong bão tuyết đêm…
РАСПЛАТА
Я забыл, что такое любовь,
И под лунным над городом светом
Столько выпалил клятвенных слов,
Что мрачнею, как вспомню об этом.
И однажды, прижатый к стене
Безобразьем, идущим по следу,
Одиноко я вскрикну во сне
И проснусь, и уйду, и уеду...
Поздно ночью откроется дверь.
Невеселая будет минута.
У порога я встану, как зверь,
Захотевший любви и уюта.
Побледнеет и скажет: - Уйди!
Наша дружба теперь позади!
Ничего для тебя я не значу!
Уходи! Не гляди, что я плачу!..
И опять по дороге лесной
Там, где свадьбы, бывало, летели,
Неприкаянный, мрачный, ночной,
Я тревожно уйду по метели...
Severianin, Igor (1887-1941)

GẶP GỠ ĐỂ RỒI CHIA XA
Gặp gỡ để rồi chia xa
Yêu để mà không yêu nữa.
Ta muốn cười lên hề hề
Ta muốn khóc lên nức nở!
Thề thốt để nuốt lời thề
Ước mơ để rồi nguyền rủa…
Thật khổ cho người hiểu ra
Tất cả những trò vô bổ.
Ở quê muốn lên thành phố
Ở phố muốn về quê chơi
Đâu đâu cũng gương mặt người
Mà sao lòng lang dạ thú…
Sắc đẹp thường hay quái gở
Quái hình có vẻ đẹp xinh
Thường có cao thượng đê hèn
Vô tội cả điều ác dữ.
Làm sao không khóc nức nở
Làm sao không cười hề hề
Khi nào có thể chia xa
Khi nào thì không yêu nữa?
Встречаются, чтоб расставаться
Встречаются, чтоб расставаться
Встречаются, чтоб расставаться,
Влюбляются, чтоб разлюбить.
Мне хочется расхохотаться
И разрыдаться, и не жить!
Клянутся, чтоб нарушить клятвы,
Мечтают, чтоб клянуть мечты...
О, горе тем, кому понятны

Все наслаждения тщеты.
В деревне хочется столицы...
В столице хочется души...
И всюду человечьи лица
Бесчеловеческой души...
Как часто красота уродна
И есть в уродстве красота...
Как часто низость благородна
И злы невинные уста.
Так как же не расхохотаться,
Не разрыдаться, как же жить,
Когда возможно расставаться,
Когда возможно разлюбить?
Soloviev, Vladimir (1853 – 1900)
ANH CHẲNG TIN CHÚT NÀO
Anh chẳng tin chút nào, em yêu ạ
Chẳng ánh mắt, tình cảm, chẳng lời em
Và anh cũng không tin mình, mà chỉ
Tin những ngôi sao sáng giữa trời đêm.
Những ngôi sao, dải Ngân hà trải rộng
Gửi cho anh những giấc mộng chân thành
Ươm cho anh trên đồng hoang vô tận
Những bông hoa không có ở miền anh.
Giữa hoa này, trong mùa hè muôn thuở
Được tưới đầy màu ánh bạc thanh thiên
Và trong ánh sao trời em tuyệt quá
Như tình tự do, thanh sạch, trinh nguyên!
* * *
Милый друг, не верю я нисколько
Ни словам твоим, ни чувствам, ни глазам,

И себе не верю, верю только
В высоте сияющим звездам.
Эти звезды мне стезею млечной
Насылают верные мечты,
И растят в пустыне бесконечной
Для меня нездешние цветы.
И меж тех цветов, в том вечном лете,
Серебром лазурным облита,
Как прекрасна ты, и в звездном свете
Как любовь свободна и чиста!
Rasul Gamzatov (1924 – 2004)
NẾU MỘT NGHÌN ĐÀN ÔNG
Nếu trong đời có một nghìn đàn ông
Nhờ mối mai trước nhà em tập hợp
Hãy nhớ rằng trong một nghìn đàn ông
Có tên anh – Rasul Gamzatov.
Nếu từ lâu đã yêu em say đắm
Đứng trước nhà một trăm kẻ đàn ông
Trong số họ có một người trông ngóng
Người miền rừng có tên gọi: Rasul.
Nếu yêu em chỉ còn lại mười người
Đứng trong hàng nóng lòng như lửa đốt
Có một kẻ vừa buồn khổ, vừa vui
Đó là anh – Rasul Gamzatov.
Nếu yêu em tất cả còn chỉ một
Kẻ điên cuồng thề thốt mãi tình chung
Thì kẻ đó từ đỉnh cao chót vót
Người miền rừng có tên gọi: Rasul.
Còn nếu như em cô đơn buồn khổ
Không còn ai yêu nữa buổi hoàng hôn

Thì nghĩa là chốn cao nguyên đất đỏ
Trên núi cao Gamzatov không còn.
Если в мире тысяча мужчин
Снарядить к тебе готовы сватов,
Знай, что в этой тысяче мужчин
Нахожусь и я – Расул Гамзатов.
Если пленены тобой давно
Сто мужчин, чья кровь несется с гулом,
Разглядеть меж них не мудрено
Горца, нареченного Расулом.
Если десять влюблены в тебя
Истинных мужей, огня не спрятав,
Среди них, ликуя и скорбя,
Нахожусь и я – Расул Гамзатов.
Если без ума всего один
От тебя, не склонная к посулам,
Знай, что это – с облачных вершин
Горец, именуемый Расулом.
Если не влюблен в тебя никто
И грустней ты сумрачных закатов,
Значит, на базальтовом плато
Погребен в горах Расул Гамзатов.
Berggolts, Olga (1910- 1975)
MÙA RỤNG LÁ CÂY
Mùa thu ở Matxcơva, trên đường phố
treo những tấm biển đề dòng chữ
“Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”
Mùa thu! Giữa trời Matxcơva
Những đàn sếu bay về trong sương khói
Những chiếc lá màu vàng sẫm tối

Đang cháy lên trong những khu vườn.
Những tấm biển treo dọc theo con đường
Những tấm biển nhắc nhở cùng tất cả
Dù ai có lứa có đôi, ai người đơn lẻ:
“Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”
Ôi, con tim của tôi sao mà cô đơn
Trên con đường xa lạ!
Buổi chiều lang thang bên những ô cửa sổ
Và khẽ rùng mình dưới những cơn mưa.
Tôi ở đây một mình có phải để cho
Một người mà tôi vui, một người mà tôi quí?
Không hiểu vì sao lòng tôi lại nhớ:
“Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”
Lúc này đây đã không có gì cần
Thì cũng có nghĩa chẳng còn gì để mất
Ngay cả người thân yêu, người gần gũi nhất
Đã không còn có thể gọi bạn thân.
Thì tại vì sao tôi lại cứ buồn
Rằng đến muôn đời tôi đành vĩnh biệt
Một kẻ không vui, một kẻ không hạnh phúc
Một kẻ cô đơn.
Chỉ đáng nực cười hay thiếu cẩn trọng chăng
Hay phải biết đợi chờ, hay chịu đựng…
Không – thật vô cùng khiếp đảm
Vẻ dịu dàng khi vĩnh biệt, như mưa.
Cơn mưa tối sầm, mưa ấm áp nhường kia
Mưa lấp loá và mưa run rẩy thế
Mong anh hạnh phúc và mong anh vui vẻ
Trong phút giây này vĩnh biệt, như mưa.
… Tôi một mình đi bộ ra ga

Một mình thôi, không cần ai tiễn biệt
Tôi chưa nói với anh mọi điều đến hết
Nhưng mà thôi, không nói nữa bây giờ.
Con đường nhỏ tràn đầy trong đêm khuya
Những tấm biển dọc đường như vẫn nói
Với những kẻ cô đơn trên đường qua lại:
“Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”
Листопад
Осенью в Москве на бульварах
вывешивают дощечки с надписью
"Осторожно, листопад!"
Осень, осень! Над Москвою
Журавли, туман и дым.
Златосумрачной листвою
Загораются сады.
И дощечки на бульварах
всем прохожим говорят,
одиночкам или парам:
"Осторожно, листопад!"
О, как сердцу одиноко
в переулочке чужом!
Вечер бродит мимо окон,
вздрагивая под дождем.
Для кого же здесь одна я,
кто мне дорог, кто мне рад?
Почему припоминаю:
"Осторожно, листопад"?
Ничего не нужно было,-
значит, нечего терять:
даже близким, даже милым,

даже другом не назвать.
Почему же мне тоскливо,
что прощаемся навек,
Невеселый, несчастливый,
одинокий человек?
Что усмешки, что небрежность?
Перетерпишь, переждешь...
Нет - всего страшнее нежность
на прощание, как дождь.
Темный ливень, теплый ливень
весь - сверкание и дрожь!
Будь веселым, будь счастливым
на прощание, как дождь.
...Я одна пойду к вокзалу,
провожатым откажу.
Я не все тебе сказала,
но теперь уж не скажу.
Переулок полон ночью,
а дощечки говорят
проходящим одиночкам:
"Осторожно, листопад"...
Esenin, Sergei (1895-1925)
EM SẼ NHỚ VỀ ANH
Những bông hoa bảo tôi rằng: vĩnh biệt
Những nụ hoa cúi xuống giọng đau buồn
Rằng mãi mãi tôi không còn được biết
Mặt hoa hồng và gương mặt quê hương.
Nhưng em ạ, dù sao thì anh đã
Thấy mặt đất này và đã thấy em
Nên giờ đây trước phận mình nghiệt ngã

Anh vui lòng nhận cái chết dịu êm.
Và bởi vì anh đã từng hiểu được
Đã đi qua cuộc sống với nụ cười
Anh vẫn nói rằng trong từng khoảnh khắc
Mọi thứ trên đời đều lặp lại thôi.
Đến một ngày rồi sẽ có một người
Chẳng xua đi nỗi đau người đi trước
Và người đó sẽ viết cho em tôi
Những bài ca đẹp hơn điều mong ước.
Rồi em yêu sẽ ngồi với người tình
Cùng lắng nghe bài ca trong đêm tối
Và biết đâu em sẽ nhớ về anh
Như bông hoa không bao giờ lặp lại.
Цветы мне говорят - прощай,
Головками склоняясь ниже,
Что я навеки не увижу
Ее лицо и отчий край.
Любимая, ну, что ж! Ну, что ж!
Я видел их и видел землю,
И эту гробовую дрожь
Как ласку новую приемлю.
И потому, что я постиг
Всю жизнь, пройдя с улыбкой мимо, -
Я говорю на каждый миг,
Что все на свете повторимо.
Не все ль равно - придет другой,
Печаль ушедшего не сгложет,
Оставленной и дорогой
Пришедший лучше песню сложит.
И, песне внемля в тишине,

Любимая с другим любимым,
Быть может, вспомнит обо мне
Как о цветке неповторимом.
Yevtushenko, Yevgeny(1933-)
ANH ĐÃ HẾT YÊU EM
Anh đã hết yêu em… một kết cục tầm thường
Vô vị như cuộc đời, vô vị như cái chết
Anh làm cho đứt dây khúc tình cay nghiệt
Vờ vĩnh để làm chi – một nửa cây đàn!
Chỉ con chó không hiểu – nó què quặt, xù lông
Em và anh cứ vẽ vời để làm chi không biết.
Anh kéo về mình – nó kêu bên cửa nhà em thút thít
Còn em thả nó ra – nó rên ừ ừ bên cửa nhà anh.
Có lẽ sẽ cuồng điên rồi sẽ chạy loăng quăng
Con chó đa cảm đa sầu, mi quả là trẻ lắm
Nhưng ta không cho phép mình làm người đa cảm
Hễ tiếp tục đớn đau – sẽ kéo đến cuối cùng.
Làm người đa cảm không phải yếu hèn, mà tội lỗi
Khi lại vẫn mềm lòng thì lại vẫn hứa suông
Rên ư ử, khừ khừ rồi lại hình dung
Với tên gọi dại khờ rằng “Tình cứu rỗi”.
Cứu tình yêu là trong những ngày đầu tiên, với
“Không bao giờ!” của nhiệt huyết, “mãi mãi!” của trẻ con.
“Không cần hứa!” – tiếng những con tàu vang lên
“Không cần hứa!” – tiếng những dây diện thoại.
Cành chớm gãy và u ám giữa trời xanh
Cảnh báo cho ta, những con người ít học
Rằng lạc quan tràn đầy là do không hiểu biết
Rằng vô vọng mới là điều hy vọng đáng tin.
Nhân đạo hơn là làm người tỉnh táo và cân

Và hỏi kỹ trước khi đeo vào – đó là qui luật
Đừng hứa gì trời xanh, nhưng hãy trao dù chút đất
Không đến ngày xuống mồ, nhưng dù khoảnh khắc rất cần.
Nhân đạo hơn là đừng nói “em yêu…” khi yêu anh
Kẻo rồi thật nặng nề, từ những bờ môi ấy
Nghe những lời trống không, buồn cười, giả dối
Và nghe dối gian như cả thế giới hoang tàn.
Không cần hứa… Tình – là không thể thi hành
Gian dối để làm chi, cũng giống như vương miện
Ảo ảnh là hay, một khi ảo ảnh chưa tan biến
Nhân đạo hơn là đừng yêu, kẻo sau đấy – cuối cùng.
Con chó kêu rên đến rối loạn tâm thần
Đập cửa nhà anh, rồi bên cửa nhà em ư ử.
Vì đã hết yêu, anh không hề xin em tha thứ
Chỉ tha thứ cho anh vì một thuở đã yêu em.
* * *
Я разлюбил тебя... Банальная развязка.
Банальная, как жизнь, банальная, как смерть.
Я оборву струну жестокого романса,
гитару пополам — к чему ломать комедь!
Лишь не понять щенку — лохматому уродцу,
чего ты так мудришь, чего я так мудрю.
Его впущу к себе — он в дверь твою скребется,
а впустишь ты его — скребется в дверь мою.
Пожалуй, можно так с ума сойти, метаясь...
Сентиментальный пес, ты попросту юнец.
Но не позволю я себе сентиментальность.
Как пытку продолжать — затягивать конец.
Сентиментальным быть не слабость — преступленье,
когда размякнешь вновь, наобещаешь вновь

и пробуешь, кряхтя, поставить представленье
с названием тупым «Спасенная любовь».
Спасать любовь пора уже в самом начале
от пылких «никогда!», от детских «навсегда!».
«Не надо обещать!» — нам поезда кричали,
«Не надо обещать!» — мычали провода.
Надломленность ветвей и неба задымленность
предупреждали нас, зазнавшихся невежд,
что полный оптимизм — есть неосведомленность,
что без больших надежд — надежней для надежд.
Гуманней трезвым быть и трезво взвесить звенья,
допрежь чем их надеть,— таков закон вериг.
Не обещать небес, но дать хотя бы землю.
До гроба не сулить, но дать хотя бы миг.
Гуманней не твердить «люблю...», когда ты любишь.
Как тяжело потом из этих самых уст
услышать звук пустой, вранье, насмешку, грубость,
и ложно полный мир предстанет ложно пуст.
Не надо обещать... Любовь — неисполнимость.
Зачем же под обман вести, как под венец?
Виденье хорошо, пока не испарилось.
Гуманней не любить, когда потом — конец.
Скулит наш бедный пес до умопомраченья,
то лапой в дверь мою, то в дверь твою скребя.
За то, что разлюбил, я не прошу прощенья.
Прости меня за то, что я любил тебя.
Kaputikyan, Silva Barunakovna (1919-)
Em bảo anh: “Đi đi!”
Em bảo anh: “Đi đi!”
Sao anh không ở lại?

Em bảo anh: “Đừng đợi!”
Sao anh lại ra đi?
Những lời em trái ngược
Mắt em lệ đầy vơi
Tại sao anh tin lời?
Sao không nhìn đôi mắt?
Да, я сказала: "Уходи"...
Да, я сказала: "Уходи", -
Но почему ты не остался?
Сказала я: "Прощай, не жди", -
Но как же ты со мной расстался?
Моим словам наперекор
Глаза мне застилали слезы.
Зачем доверился словам?
Зачем глазам не доверялся?
Isakovsky, Mikhail (1900-1973)
NGHE ANH NÀY EM XINH
Nghe anh này em xinh
Nghe anh này em đẹp
Em – hoàng hôn của anh
Một tình yêu không tắt.
Anh đi theo đường phố
Còn trăng sáng trên trời
Còn trăng sáng trên trời
Cho chúng mình gặp gỡ.
Khi lưỡi hái đang mài
Trên đồng chưa cắt cỏ
Anh đào chưa nở đầy
Nghiêng cây vào cửa sổ.
Khi hãy còn tuổi trẻ

Ân ái hãy còn nhiều
Yêu, khi còn được yêu
Gặp, khi còn gặp gỡ.
Gặp gỡ này em xinh
Gặp gỡ này em đẹp
Em – hoàng hôn của anh
Một tình yêu không tắt.
Услышь меня, хорошая,
Услышь меня, красивая -

×