Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Giải quyết việc làm cho thanh niên ở huyện hoằng hóa, tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.87 KB, 58 trang )

Tr-ờng đại học vinh
Khoa giáo dục chính trị

Vũ THị THùY

gIảI QUỸT VIƯC LµM CHO THANH NI£N ë HUN HO»NG HãA, TỉNH
THANH HóA TRONG GIAI ĐOạN HIệN NAY

Khóa luận tốt nghiệp đại học
Ngành s- phạm giáo dục chính trị

Giáo viên h-ớng dẫn: TS. Đinh Thế Định

1


A- MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết ở bất kỳ thời đại nào, thanh niên cũng là vốn quý, là
một dạng tài nguyên quan trọng của mỗi quốc gia. Bởi vì, đó là lực lượng hùng
mạnh về mọi mặt, là lứa tuổi tràn đầy hồi bão, ước mơ, bầu nhiệt huyết, có thể
“dời non lấp biển”. Trong giai đoạn hiện nay, thanh niên Việt Nam đang đứng
trước những nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài mà Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, đó là việc phát huy nguồn lực của thế hệ trẻ vì sự nghiệp đổi mới,
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, thanh niên hiện nay đang
đứng trước một thực trạng thất nghiệp, khơng có việc làm, làm lãng phí nguồn
nhân lực trẻ và dồi dào của đất nước.
Đối với mỗi quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài
nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ là
mầm mống đưa con người vào những tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Do đó,
giải quyết việc làm đi đến phát huy hiệu quả nguồn nhân lực được xem là một


quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Việt Nam đang trong qúa trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước với mục
tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực
hiện được mục tiêu đó, địi hỏi Đảng và Nhà nước phải phát huy được mọi
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lực thanh niên; bởi thanh niên chiếm hơn 50%
lao động xã hội và chiếm gần 29% dân số. Chủ tịch Hồ CHí Minh đã từng nói:
"Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên ".
Thực tế cho thấy, ở Việt Nam và các địa phương vẫn chưa tận dụng hết
nguồn nhận lực này. Một bộ phận lớn thanh niên trong xã hội đang thất nghiệp,
điều này khơng những gây lãng phí tiềm năng nguồn nhân lực trẻ mà cịn gây ra
những hệ quả khơng tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Khơng có hoặc thiếu
việc làm khơng chỉ ảnh hưởng đến thu nhập, sức mua của nền kinh tế, làm mất
một lực lượng lao động trẻ, khoẻ. Mà còn là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia

2


tăng đáng báo động của tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma tuý... Xã hội sẽ
phải tốn kém nhiều công sức và tiền của để ngăn chặn và khắc phục. Nó cịn gây
ra sự chán nản, suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước của
người chưa có việc làm.
Huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đang nằm trong tình trạng đó. Trong
những năm vừa qua Đảng bộ, chính quyền huyện Hoằng Hóa trên cơ sở nhận
thức đúng tầm quan trọng của công tác giải quyết việc làm cho người lao động
nói chung, lao động thanh niên nói riêng nên đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên, tỷ lệ thanh niên chưa có việc làm cịn ở mức cao, gây ảnh hưởng
khơng nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Vấn đề giải
quyết việc làm cho thanh niên đang là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa then chốt
trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoằng Hóa. Vì
vậy, tôi chọn vấn đề "Giải quyết việc làm cho thanh niên ở huyện Hoằng Hóa,

tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp. Với mong
muốn đề xuất những giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao công tác giải
quyết việc làm cho thanh niên huyện Hoằng Hóa, góp phần thực hiện mục tiêu
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho tới nay đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu vấn đề giải
quyết việc làm cho thanh niên dưới nhiều góc độ khác nhau, được công bố dưới
dạng sách, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, luận văn tốt nghiệp và các bài viết
trên một số tạp chí. Trong đó có:
* Tống Văn Đường, Giải quyết việc làm cho thanh niên trong độ tuổi lao
động ở một số thành phố miền Bắc Việt Nam, Trường Đại học kinh tế quốc dân,
Hà Nội, 1991.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Trình bày về nhu cầu việc làm của lứa tuổi thanh niên và vai trò của họ
trong sản xuất. Đề tài khẳng định đó là một bộ phận quan trọng của nguồn lao

3


động, nhu cầu được làm việc, được học tập là nhu cầu chính đáng của thanh niên
từ 16 - 30 tuổi địi hỏi các tổ chức xã hội, chính quyền, đoàn thể và mọi người
lao động phải quan tâm.
- Nêu lên sự hình thành và kết cấu nguồn lao động của thanh niên ở các
thành phố. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho thanh niên, đề xuất những
phương hướng và biện pháp chủ yếu tạo việc làm cho thanh niên trong tuổi lao
động (cả về chính sách kinh tế - xã hội lẫn việc tạo việc làm) giai đoạn 19911995 ở các thành phố.
* Nguyễn Duy Anh, Giải quyết việc làm ở Hà Nội, Đại học kinh tế ĐHQGHN, 2008.
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng việc làm thất
nghiệp ở Hà Nội từ 2000 đến nay. Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội.

* TS. Nguyễn Thị Hải Vân, Lao động việc làm của thanh niên và vấn đề
giải quyết việc làm cho thanh niên, tạp chí thanh niên, số 16, 2005.
* Nguyễn Hữu Dũng, Trần Văn Trung (1997), Về chính sách giải quyết
việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị qupoocs gia, Hà Nội.
* Luận văn thạc sĩ Nguyễn Kim Liên (2000), Giải quyết việc làm trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bản tỉnh Kiên Giang, Học viện chính
trị quốc gia, Hà Nội.
* Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động – cơ sở lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Gs. Ts Hồng Ngọc Hịa (2008), Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn
trong q trình đẩy mạnh CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nhìn chung các cơng trình trên đã tập trung phân tích các khía cạnh sau:
+ Lý luận về việc làm, thất nghiệp.
+ Tình hình việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên.

4


+ Các quan điểm, phương hướng và một số giải pháp tạo việc làm cho
thanh niên.
Mặt khác, cũng đã có một số đề tài tìm hiểu về vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm cho thanh niên ở huyện Hoằng Hóa. Tuy nhiên, tơi vẫn muốn đi
sâu tìm hiểu và làm rõ thêm về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho thanh
niên ở một huyện đặc thù như huyện Hoằng Hóa theo quan điểm và sự khảo sát
thâm nhập thực tế của mình. Vì vậy, tơi chọn đề tài này làm khoá luận tốt nghiệp
Đại học. Đi sâu và đánh giá một cách khách quan về thực trạng hoạt động của
công tác giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Hoằng Hóa trong
thời gian qua. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
gải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Hoằng Hóa trong thời gian
qua và đề ra các giải pháp thích hợp cho thời gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích: trên cơ sở đánh giá và giải quyết việc làm cho thanh niên
ở một huyện đặc thù như huyện Hoằng Hóa trong những năm vừa qua. Qua đó
đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho thanh niên
huyện trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên đề tài thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm cho thanh
niên.
+ Phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên
huyện Hoằng Hóa trong thời gian qua.
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao có hiệu quả cơng tác giải quyết việc
làm cho thanh ở huyện Hoằng Hóa trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt

5


Nam, những chủ trương chính sách của Nhà nước về thanh niên và nghề nghiệp
việc làm.
Phương pháp: Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu.
+ Phương pháp thống kê, so sánh.
+ Phương pháp điều tra phỏng vấn
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm

cho thanh niên.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên huyện Hoằng
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm
cho thanh niên huyện Hoằng Hóa trong giai đoạn hiện nay.

6


B- NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản về việc làm
1.1.1. Khái niệm việc làm
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, là
vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tại hội nghị quốc tế lần thứ XIII
của tổ chức lao động thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái
niệm người có việc làm như sau: “Người có việc làm là những người có việc
làm gì đó có được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật,
hoặc người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích
hay thu nhập gia đình khơng được nhận tiền cơng hoặc hiện vật” [4, 14].
Theo bộ luật lao động thì "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [2, 10].
Còn theo Từ điển tiếng Việt (xuất bản năm 1992) xác định việc làm như
sau: 1. Hành động cụ thể; 2. Công việc được giao cho làm và được trả tiền công.
Như vậy, việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích
cho bản thân, gia đình và xã hội được thể hiện dưới các hình thức:
- Làm cơng tác trả cơng dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc đổi công.
- Các công việc tự làm để thu lợi cho bản thân.

- Làm các công việc nhằm tạo thu nhập (bằng tiền hoặc hiện vật cho gia
đình nhưng khơng hưởng tiền lương tiền cơng) .
Hiện nay, quan niệm về việc làm đã có nhiều thay đổi, trong thời kỳ bao
cấp người lao động được coi là có việc làm khi họ tiến hành những cơng việc
địi hỏi một chun mơn nào đó tạo thu nhập nhất định, người có việc làm hoặc
phải thuộc biên chế Nhà nước, hoặc làm việc trong các hợp tác xã… Theo cách

7


hiểu này, khái niệm việc làm khơng tính đến những người lao động đang làm
việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể hay làm việc tại nhà. Quan niệm này đã
hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con người, triệt tiêu nhiều tiềm
năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong q trình hoạt động thực tiễn. Hiện
nay người có việc làm khơng chỉ làm việc trong các cơ quan Nhà nước, mà có
thể làm việc ở các thành phần kinh tế hoặc do bản thân người lao động tự tạo ra
để có thu nhập. Việc đổi mới nhận thức về việc làm đã đưa đến sự đổi mới nhận
thức, quan niệm về chính sách, biện pháp giải quyết việc làm trong điều kiện cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực
và khả năng to lớn nhằm giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho người
lao động ở mọi thành phần kinh tế, ở mọi khu vực, trong đó đặc biệt chú ý đến
khả năng tự tạo việc làm của chính bản thân người lao động. Hơn nữa quan niệm
mới hiện nay không chỉ chú ý đảm bảo có việc làm cho người lao động mà còn
coi trọng nâng cao chất lượng việc làm, tiến tới việc làm có năng suất, có thu
nhập cao và được tự do lựa chọn việc làm tức là đảm bảo tính nhân văn của việc
làm.
Việc làm trong xã hội thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố như vốn
đầu tư, sức lao động, nhu cầu thị trường về sản phẩm. Ta nhận thấy rằng khối
lượng của việc làm được tạo ra tỷ lệ thuận với các yếu tố trên. Chẳng hạn như
vốn đầu tư để mua sắm thiết bị máy móc, nhà xưởng mở rộng quy mơ sản xuất

là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn. Khi vốn đầu tư tăng thì tạo ra được nhiều chỗ
làm việc mới và ngược lại thì quy mơ bị thu nhỏ lại kéo theo sự giảm đi về số
lượng việc làm được tạo ra.
Mặt khác, nhu cầu của thị trường về sản phẩm sản xuất ra cịn ảnh hưởng
khơng nhỏ đến việc tạo ra chỗ làm mới. Nếu sản phẩm sản xuất ra được đưa ra
thị trường đảm bảo cả về chất lượng và số lượng mà thị trường chấp nhận, sản
phẩm tiêu thụ được sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, các doanh nghiệp, các nhà
xưởng sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đi đôi với mở rộng sản xuất là cầu về lao

8


động tăng lên. Ngược lại khi cầu về sản phẩm hàng hoá giảm sẽ làm ngừng trệ
sản xuất, làm cho lao động khơng có việc làm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Ngồi ra, cịn một số các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến việc làm ở tầng
vĩ mô: gồm các chính sách kinh tế Nhà nước vì khi các chính sách kinh tế phù
hợp sẽ tạo ra điều kiện khuyến khích mọi thành phần phát triển làm cho cầu lao
động tăng đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều chỗ làm mới. Dân số và lao động là
hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, quy mơ dân số càng lớn thì nguồn
lao động càng nhiều và ngược lại khi nguồn lao động càng lớn lại là sức ép đối
với công tác việc làm cho người lao động bởi vì: Khi cung về lao động lớn sẽ
tạo ra một lượng lao động dư thừa cần giải quyết việc làm. Ngược lại khi cầu lao
động lớn hơn cung lao động sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động tham gia
vào các ngành kinh tế. Vì vậy, tỷ lệ tăng dân số và nguồn nhân lực có ảnh hưởng
đến vấn đề lao động và tạo việc làm cho người lao động.
1.1.2. Khái niệm thất nghiệp
Theo A. Samuelson: “Người thất nghiệp là người khơng có việc làm
nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại làm việc” [6, 235].
Theo tổ chức lao động thế giới ILO: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi
một số người trong độ tuổi lao động mong muốn và có khả năng làm việc, rất

tích cực tìm kiếm nhưng khơng tìm được việc làm vì lí do khơng có chỗ làm
việc trống hoặc trình độ chun mơn khơng phù hợp” [7, 406].
Ở nước ta hiện nay, thất nghiệp được xác định là người trong độ tuổi lao
động, có sức lao động nhưng chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng
chưa có việc làm. Thiếu việc làm là tình trạng có việc làm nhưng do ngun
nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết
thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những cơng việc có thu nhập thấp,
khơng đáp ứng nhu cầu cuộc sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Xét theo nguyên nhân, người ta phân thất nghiệp thành các loại:

9


Thất nghiệp cơ cấu: Do cơ cấu của cung lao động khơng phù hợp nhu cầu
sản xuất hàng hố và dịch vụ, loại thất nghiệp này mang đặc điểm tồn tại lâu dài.
Thất nghiệp công nghệ: Do thay đổi công nghệ và áp dụng những tiến bộ
kỹ thuật mới, làm giảm nhu cầu chung về lao động trong một số ngành nghề
nhất định. Loại này có đặc điểm có thể tồn tại lâu dài hay ngắn hạn tuỳ thuộc
vào khả năng đào tạo lại, để nâng cao tay nghề cho người thất nghiệp và độ tuổi
của những người đào tạo lại.
Thất nghiệp chu kỳ: Loại thất nghiệp này thường gắn liền với chu kỳ kinh
tế, nó sẽ giảm trong thời kỳ tăng trưởng, và tăng trong thời kỳ suy thoái.
Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do việc di chuyển lao động giữa các vùng,
các công việc. Người ta gọi loại này là thất nghiệp tự nhiên với ý nghĩa và thời
gian tìm việc ngắn hạn và khơng ảnh hưởng cân bằng trên thị trường lao động.
Xét theo hình thức biểu hiện có thể chia thất nghiệp thành:
Thất nghiệp ngắn hạn: Dưới 3 tháng, trung hạn trên 3 tháng đến 12 tháng,
dài hạn trên 12 tháng.
Thất nghiệp lâu dài: Thường xảy ra với những nhóm dân số nhất định
như thanh niên, phụ nữ, người khuyết tật, người vượt quá giới hạn tuổi nhất

định.
Thất nghiệp toàn phần: Bao gồm toàn bộ thời gian làm việc và thất
nghiệp từng phần vì thời gian khơng đầy đủ.
Thất nghiệp hữu hình: Là loại thất nghiệp thống kê được. Loại này có thể
bao gồm tồn phần hoặc từng phần. Thất nghiệp hữu hình từng phần thường là
hậu quả của việc thừa lao động.
1.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên - vấn đề cấp bách trong giai
đoạn hiện nay
1.2.1. Vai trò của thanh niên trong sự phát triển của xã hội
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là bộ phận ưu tú của nguồn nhân
lực, có tiềm năng về nhiều mặt, là tấm gương sáng phản ánh đời sống xã hội

10


hiện tại và những xu hướng phát triển của tương lai. Trong lịch sử cũng như hiện
tại, dù ở đâu đánh giặc, bảo vệ tổ quốc hay xây dựng phát triển kinh tế, tổ chức
đời sống xã hội, các thế hệ thanh niên nước ta đều được coi là lực lượng xung
kích của dân tộc, đi đầu và có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Lênin đã khẳng định: Nhiệm vụ thực sự xây dựng xã hội Cộng sản chủ
nghĩa chính là thanh niên. Thanh niên là lớp người thực hiện những nhiệm vụ
trọng đại và những ước vọng cao đẹp mà thế hệ trước chưa có điều kiện hồn
thành hoặc chưa làm được, "Nâng nó lên một tầm cao mới, một trình độ chất
lượng mới" [9, 66].
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: "Sự nghiệp đổi mới có
thành cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong
cộng đồng thế giới hay khơng, cách mạnh Việt Nam có vững bước đi theo con
đường Xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh
niên" [10, 23].
Thanh niên là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, là "Người chủ tương lai của nước nhà". Với ưu thế về sức
khoẻ, thể lực, phẩm chất tâm lý, tư duy, trí nhớ, khí chất... và trình độ chun
mơn kỹ thuật, văn hố, ... thế hệ trẻ nước ta có sức lao động dồi dào và thích ứng
tốt với sự biến đổi của nội dung lao động dưới tác động của các tiến bộ khoa học
cơng nghệ. Vì thế họ đã, đang và sẽ là lực lượng lao động đơng đảo, góp phần
khơng nhỏ vào sự thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất
nước.
Thanh niên, lực lượng quan trọng tham gia thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Muốn thực hiện thắng lợi những mục tiêu mở rộng hội nhập kinh tế
quốc tế trong bối cảnh quốc tế hiện nay, ngoài sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước với chủ trương đường lối chiến lược đúng và sách lược khơn
ngoan, cịn phải có những con người có đủ khả năng để tổ chức thực hiện có kết
quả những chủ trương đường lối chính sách đó trong thực tiễn. Thế hệ thanh

11


niên được coi là lực lượng xung kích, đi đầu thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ương khoá X "Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH - HĐH" đã khẳng định vai trò của thanh niên: "Thanh niên là lực
lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai,
vận mệnh của dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhận
những cơng việc địi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khoẻ và sáng tạo. Thanh niên là
độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, ln năng động, sáng tạo,
muốn tự khẳng định mình" [8, 35].
Như vậy, thanh niên có vị trí vai trị rất quan trọng trong lao động sản
xuất, cũng như đối với sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Do đó, thanh niên
phải được quan tâm nhiều hơn nữa để phát huy hết khả năng, bản lĩnh, trí tuệ
của thanh niên nhằm phục vụ cho tổ quốc.

1.2.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên, vấn đề cấp bách hiện nay ở
nước ta
Lao động là yếu tố quan trọng đầu tiên của con người. Ngày nay, trong cơ
chế kinh tế mới, nhiều thanh niên thể hiện đầu óc thực tế và tinh thần độc lập,
quyết đoán trong phương hướng sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư và áp
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, nhiều thanh niên đã làm giàu
nhanh chóng. Thái độ đối với lao động và nghề nghiệp của thanh niên đã có
những biến đổi, họ quan tâm đến cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, ý nghĩa
xã hội của lao động. Nhiều thanh niên đã tích cực chuẩn bị cả về tâm lý, trình độ
chun mơn nghề nghiệp, ngoại ngữ để có thể thích ứng nhanh với u cầu, điều
kiện của nền sản xuất hiện đại.
Do sự đa dạng của các thành phần kinh tế, với nhiều cơ hội mở ra cho
thanh niên về nghề nghiệp, việc làm, thu nhập nên đã xuất hiện những thay đổi
về lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và phấn đấu tăng thu nhập cho bản thân, gia
đình và xã hội. Phấn đấu vào biên chế Nhà nước để được bao cấp khơng cịn là

12


sự lựa chọn duy nhất cho thanh niên nữa. Qua bảng thống kê dưới đấy ta thấy cơ
cấu lao động phân theo thành phần kinh tế thì khu vực kinh tế nhà nước chiếm
tỷ lệ nhỏ. Đa số lao động tập trung nhiều ở khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
Trong tổng số lao động được tạo việc làm hàng năm thì khu vực kinh tế ngồi
Nhà nước chiếm tới 90%. Đây là khu vực đã và đang đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo thêm nhiều chỗ làm mới cho người lao động nói chung, lao động
thanh niên nói riêng.
Bảng 1: Cơ cấu lao động làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
phân theo thành phần kinh tế:
Chỉ tiêu


2005

2006

2007

2008

2009

2010

Kinh tế Nhà nước

9,50

9,11

9,00

9,07

9,12

9,15

Kinh tế ngồi Nhà nước

87,84


87,81

87,52

87,20

87,27

87,30

3,08

3,48

3,73

3,61

3,55

100%

100%

100%

100%

100%


Khu vực có vốn đầu tư 2,66
nước ngoài
100%

Nguồn: Tổng cục thống kê qua các năm
Chiếm gần một nửa lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là lao động
thanh niên (15 - 30 tuổi), lực lượng này đã đóng góp khơng nhỏ cho quá trình
đổi mới và cải cách nước ta trong những năm qua. Giải quyết việc làm cho thanh
niên luôn là bài tốn khó đặt ra cho tồn xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước.
Hệ thống chính sách liên quan tới việc làm cho thanh niên khá đầy đủ.
Nhà nước ln chú trọng tới việc hồn thiện hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh
toàn diện quan hệ lao động. Theo báo cáo của Bộ lao động thương binh và xã
hội năm 2010 cả nước đã tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu người, trong đó hơn
70% việc làm được giải quyết từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
"Các dự án đầu tư trong và ngồi nước, đầu tư phát triển nơng nghiệp, nông

13


thơn, các doanh nghiệp mới hoạt động...". Trong đó giải quyết việc làm cho
khoảng 700 - 800 nghìn lao động thanh niên thơng qua các chương trình như:
Thơng qua chương trình kinh tế xã hội của Nhà nước, chương trình phát
triển kinh tế xã hội của miền núi; chương trình xây dựng nơng thơn mới, chương
trình mục tiêu quốc gia, xố đói giảm nghèo; chương trình quốc gia về việc làm.
Thơng qua chính sách phát triển khu cơng nghiệp, khu chế xuất, hợp tác đầu tư
nước ngoài, thu hút hàng ngàn lao động thanh niên...
Thơng qua chương trình quỹ quốc gia về giải quyết việc làm: Chương
trình cho vay vốn thông qua các dự án để giải quyết việc làm sau nhiều năm đã
đạt được những kết quả đáng trân trọng. Tính đến nay quỹ quốc gia về việc làm

sau nhiều năm đã đạt được những kết quả đáng trân trọng: đã tích luỹ được trên
3.648 tỷ đồng và được phân bổ cho 63 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương các
tổ chức đồn thể chính trị xã hội.
Bên cạnh đó, 35 tỉnh thành phố đã lập quỹ việc làm địa phương với số
vốn trên 952 tỉ đồng, kết hợp với nguồn vốn địa phương từ chương trình và vốn
thu hồi các dự án đã hết hạn nâng tổng doanh số cho vay từ năm 2006 đến năm
2011 đạt 8.866 tỉ đồng với 418 nghìn lượt khách vay, góp phần tạo việc làm cho
250 - 300 nghìn lao động mỗi năm chiếm 20% tổng số việc làm được tạo ra
hàng năm.
Hỗ trợ, giới thiệu việc làm cho thanh niên thông qua các trung tâm giới
thiệu việc làm. Trên cơ sở dự án đầu tư nâng cao năng lực trung tâm giới thiệu
việc làm đã được phê duyệt, từ 2006 đến nay, chương trình mục tiêu quốc gia đã
đầu tư cho 40 trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành lao động thương binh
xã hội, tổng số vốn đầu tư là 418 tỷ đồng. Đến năm 2011 đã có 46 trung tâm giới
thiệu việc làm hoàn thành đầu tư nâng cao năng lực với nguồn vốn 168 tỷ đồng,
dự kiến năm 2012 sẽ tiếp tục đầu tư cho 25 trung tâm giới thiệu việc làm. Từ
năm 2006 - 2011 các trung tâm đã giới thiệu cho 4,5 triệu lượt người, riêng năm

14


2011 đã giới thiệu cho 1,2 triệu lượt người, trong đó đa số thanh niên và lao
động trẻ.
Tổ chức hội chợ việc làm cũng là một tổ phương thức kích thích hoạt
động thị trường lao động. Năm 2010 với tỷ lệ "Thanh niên với nghề nghiệp và
việc làm" các cấp bộ đoàn trong toàn quốc đã tổ chức 7.487 sàn giao dịch ngày
hội việc làm, thu hút 912.544 lượt đoàn viên tham gia. Tư vấn giới thiệu việc
làm cho 1.092 đoàn viên thanh niên tham gia giải quyết việc làm cho 331.836
đoàn viên thanh niên, dạy nghề cho 431.206 bạn trẻ.
Tạo việc làm cho thanh niên thông qua hoạt động xuất khẩu lao động.

Hàng năm với những nỗ lực tìm kiếm thêm thị trường lao động nguồn lao động
ngoài nước và nỗ lực quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, đã đưa hàng
vạn người lao động đi làm việc tại nước ngoài. Riêng năm 2011 mặc dù chịu ảnh
hưởng của cuộc suy thối kinh tế tồn cầu nhưng cả nước đã đưa được 70.000
lao động đi làm tại các nước. Trong những người được đưa đi xuất khẩu lao
động hơn 90% lao động trong độ tuổi thanh niên.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của thanh niên còn cao, cao hơn mức
chung của cả nước. Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở các đô thị tương đối cao và
không ngừng tăng qua các năm. Năm 2006, tỷ lệ thanh niên đô thị thất nghiệp ở
độ tuổi từ 15 - 35 là 5,1%. Năm 2007, tỷ lệ này là 8,5% và năm 2008 đã lên
9,3% chiếm gần 61% trong tổng số người thất nghiệp.
Bên cạnh những mặt tích cực chủ động của thanh niên trong lao động,
khắc phục khó khăn để vươn lên về nghề nghiệp, việc làm và nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống thì hiện nay vẫn cịn một bộ phận thanh niên có lối sống tiêu
cực, lười lao động, lãng phí thời gian, chạy theo lối sống thực dụng. Không nhận
thức được giá trị của lao động.
Như vậy, trong thời gian qua nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động nói chung
thanh niên nói riêng đã được thay đổi cơ bản về nhận thức và cả quá trình thực

15


hiện. Từ chỗ người lao động thụ động chờ vào sự sắp xếp xủa nhà nước nay đã
tự chủ động tạo việc làm cho bản thân và thu hút thêm lao động xã hội. Tuy
nhiên hiện nay vấn đề lao động, việc làm luôn là vấn đề bức xúc nhất, mối quan
tâm hàng đầu của thanh niên.
Hàng năm ở nước ta số người bước vào độ tuổi lao động, số sinh viên tốt
nghiệp Đại học, Cao đẳng...khá đông, nên vấn đề việc làm cho lực lượng lao
động trẻ cực kỳ quan trọng.

Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn nhân lực dồi dào, chính vì thế
thất nghiệp sẽ làm lãng phí một bộ phận đáng kể nguồn nhân lực. Điều này sẽ
gây ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bởi nguồn lực con
người được đánh giá là "nguồn lực của mọi nguồn lực" là "tài nguyên của mọi
tài nguyên".
Lao động thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ ảnh hưởng đến thu nhập, khả
năng tích lũy giảm, thì sức mua trong nền kinh tế cũng giảm xuống. Chất lượng
cuộc sống của người lao động không được đảm bảo vì khơng có thu nhập
thường xun và ổn định.
Do không được đáp ứng nhu cầu việc làm nên hệ số thời gian sử dụng cho
lao động giảm xuống, thời gian nhàn rỗi tăng lên. Tội phạm trong độ tuổi thanh
niên chiếm từ 70 đến 80% tổng số tội phạm. Trong cơ cấu tội phạm, các tệ nạn
xã hội của thanh niên đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm trong xã hội. Trong
đó đáng chú ý là tệ nạn ma t và mại dâm. Chính vì vậy, giải quyết việc làm
cho thanh niên là vấn đề hết sức cấp bách, mang tính xã hội sâu sắc trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ nhất, giải quyết việc làm cho thanh niên nhằm phát huy vai trò, sức
mạnh của họ đối với xây dựng phát triển đất nước.
Một đặc điểm dễ nhận thấy ở thanh niên đó là sức trẻ, nhờ có sức trẻ
thanh niên luôn là lực lượng tiền phong, đi sâu trong mọi hoạt động. Điển hình
là trong cơng tác phát triển kinh tế xã hội, xố đói giảm nghèo.

16


Nhưng cũng chính vì yếu tố sức trẻ mà chúng ta nhìn thấy một thực trạng
là có những thanh niên tốt nghiệp bằng khá, bằng giỏi sau khi ra trường lại
khơng được tuyển dụng, hoặc được tuyển dụng thì lại không vào đúng ngành
học mà họ đã đào tạo … nhu cầu về lao động việc làm là vấn đề mà thanh niên
ln quan tâm. Đồng thời đó là vấn đề bức xúc đòi hỏi phải được giải quyết

nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của thanh niên.
Khơng đáp ứng được nhu cầu việc làm cho thanh niên, nạn "chảy máu
chất xám" luôn là một thực trạng đáng báo động. Chúng ta có nhân tài nhưng cơ
chế trọng dụng nhân tài thơng qua việc làm và mức lương thì chưa phù hợp,
chưa khuyến khích được khả năng sáng tạo trong lao động và việc làm của thanh
niên.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thanh niên chính là đầu
tàu cho cơng cuộc kiến thiết, với hồi bão, ước mơ và sức trẻ, họ là những người
dám nghĩ dám làm. Nếu cho họ cơ hội để thử thách chính mình thì những điều
mà họ làm được đơi khi ngoài dự kiến của chúng ta. Bởi thanh niên là sáng tạo,
trong mỗi việc làm dù được đào tạo bài bản đến đâu thì nhờ có những cơng
trình, những sáng kiến khoa học, đã có rất nhiều thanh niên đã tạo nên một bản
lĩnh, một thương hiệu riêng của Việt Nam trên trường thế giới.
Nếu giải quyết việc làm cho thanh niên trên cơ sở công việc và nghề
nghiệp một cách ổn định, có sự tạo lập vững chắc trong mỗi ngành nghề, từ đó
mới tạo dựng được niềm tin của thanh niên vào công cuộc xây dựng và phát
triển của đất nước, khẳng định sự ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội, của con
đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Thanh niên là một bộ phận cấu thành xã hội và là chủ thể xã hội năng
động, tích cực trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Quá trình CNH,
HĐH đất nước, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hết sức thuận lợi cho thanh niên
bộc lộ tiềm năng, tài năng mọi mặt của mình. Điều quan trọng là Đảng, Nhà
nước phải có những chính sách khuyến khích phù hợp để thanh niên phát huy

17


hết được mọi tiềm năng vai trò trách nhiệm của mình đối với cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn do thanh niên".

Thứ hai, giải quyết việc làm cho thanh niên góp phần đảm bảo ổn định,
an tồn, cơng bằng xã hội.
Việc làm có vai trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó khơng thể
thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt
trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội.
Thanh niên có vai trị to lớn trong xã hội, để đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước thì vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên là một điều tất
yếu và cần thiết.
Giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, thanh niên nói riêng có
hiệu quả có nghĩa là sẽ sử dụng được tối đa lực lượng lao động và nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, phát huy được tiềm năng của lực lượng thanh niên. Đồng
thời tiết kiệm chi phí và nguồn nhân lực cho đất nước.
Giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo điều kiện để phát triển nguồn
lực lao động cả về số lượng và chất lượng. Đây sẽ là cơ sở để cho kinh tế quốc
dân tăng trưởng bền vững.
Việc làm luôn là vấn đề thanh niên quan tâm, nếu như nhu cầu này không
được thoả mãn sẽ là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các vấn đề về
tư tưởng, niềm tin vào lý tưởng cách mạng của Đảng. Thanh niên sẽ sa vào các
tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm...làm suy đồi nhân cách thanh niên. Vì thế
giải quyết việc làm cho thanh niên có ý nghĩa chính trị, xã hội rất to lớn, giáo
dục thanh niên trên cơ sở công việc nghề nghiệp ổn định.
Giải quyết việc làm cho thanh niên tức là tạo điều kiện để thanh niên rèn
luyện phấn đấu trở thành cơng dân có ích, đem sức mình cống hiến cho đất nước
vì đây là lực lượng đông đảo, trẻ trung, đầy nhiệt huyết, năng động sáng tạo.
Đồng thời tạo thời cơ để thanh niên chăm lo cho chính tương lai của bản thân.

18


Khi nghiên cứu về xã hội và quy luật phát triển của xã hội C.Mác đã từng

nói: Tương lai của xã hội loài người hoàn toàn phụ thuộc vào giáo dục thế hệ
công nhân tương lai. Như vậy giải quyết việc làm cho thanh niên khơng chỉ là
tính tất yếu kinh tế mà cịn là tính tất yếu về chính trị - xã hội nhằm đem lại sự
phát triển cho con người và cả xã hội.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho thanh niên góp phần nâng cao chất lượng
nguồn lực, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để hội nhấp kinh tế quốc tế thì vấn đề đặt ra có tính chiến lược đối với
mỗi quốc gia là khả năng cạnh tranh. Muốn phát triển, muốn hội nhập bền vững
không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào nguồn tài nguyên. Trong khi các nguồn lực
tự nhiên, chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, nếu không được con người khai thác,
sử dụng và phát huy trong quá trình lao động thì sẽ trở thành vơ dụng hoặc vẫn ở
dạng tiềm năng. Chính vì vậy, lao động là nguồn lực duy nhất có khả năng phát
hiện khơi dậy và cải biến các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực xã hội khác.
Thực tiễn cho thấy, có nhiều quốc gia rất nghèo tài ngun, thậm chí
khơng có tài ngun, nhưng lại có chỗ đứng vững trên thị trường, có năng lực
cạnh tranh cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, trong khi đó có nhiều nước có tài
ngun dồi dào, nhưng khơng thể thành cơng hoặc thành cơng rất ít trong cạnh
tranh thị trường (như một số nước Nam Á của Châu Phi). Tìm hiểu kinh nghiệm
phát triển của các nước này, có thể thấy rằng, các quốc gia phát triển trong cạnh
tranh nhất thiết phải có đội lao động có học thức, có trình độ chun mơn và tay
nghề cao, được tổ chức hoặc được khuyến khích.
Đặc biệt, trong sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ và
sức sản xuất của kinh tế thị trường trong những năm đầu thế kỷ XXI, chẳng
những không làm giảm đi vai trò của nguồn nhân lực mà ngược lại càng làm cho
nó ngày càng quan trọng hơn, khẳng định được vị thế ưu thế của nó. Điều này
hồn tồn có thể lý giải được vì trí tuệ và kỹ năng của con người là yếu tố không
thể thiếu để lĩnh hội tri thức mới của thời đại về việc áp dụng tiến bộ khoa học

19



và công nghệ vào cuộc sống. Như vậy nguồn nhân lực có vai trị to lớn đối với
q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thanh niên là lực lượng lao động to lớn, luôn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ
cấu dân số của mỗi quốc gia. Chính trị vì vậy tạo việc làm cho người lao động
nói chung, cho thanh niên nói riêng sẽ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tạo việc làm một trong những động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và khi các cơng việc được tạo mới bao giờ cũng địi hỏi một
chuyên môn kỹ thuật cao ở người lao động mà theo quy luật của quá trình tuyển
dụng thì người ứng cử viên cũng phải có một trình độ tương đương bởi thế cho
nên người lao động có xu hướng tích luỹ kiến thức, trình độ lành nghề cho chính
mình để có cơ hội tham gia vào hoạt động kinh tế.
Trong quá trình tạo việc làm cho thanh niên, chúng ta xác định được
những điểm yếu của lao động thanh niên, từ đó có điều kiện xây dựng kế hoạch
đào tạo và đào tạo lại cho lực lượng lao động thanh niên, góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá đất nước.
Giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ góp phần hồn thiện hệ thống quản
lý lao động. Tức là quá trình tạo việc làm sẽ phân bổ lao động một cách hợp lý,
phù hợp với cơ cấu hệ thống ngành nghề có sự phối hợp hài hồ giữa các bộ
phận tổ chức, bố trí lao động phù hợp với đặc điểm tính chất của cơng việc sẽ
nâng cao năng xuất lao động cá nhân, giúp họ phát triển khả năng và sự sáng tạo
của mình trong lao động sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, thanh niên là một bộ phận cấu thành của xã hội, và là lực lượng
lao động cơ bản của xã hội. Giải quyết việc làm cho thanh niên là nhiệm vụ cấp
bách và quan trọng của mỗi quốc gia. Giải quyết việc làm cho thanh niên góp
phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm thiểu các tệ nạn
trong xã hội, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.

20



Kết luận chương 1
Tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu nhập là những vấn đề
mang tính toàn cầu hiện nay; là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay, nguồn nhân lực được đánh giá là nhân tố chủ đạo và có ý nghĩa
quyết định trong hệ thống các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta,
trong sự nghiệp CNH, HĐH, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lực thanh niên
có tầm quan trọng đặc biệt trong việc khai thác và phát huy nội lực nhằm đạt
mục tiêu phát triển bền vững. Một trong những giải pháp cấp bách hiện nay ở
nước ta trong việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực là giải quyết việc làm
cho người lao động, đặc biệt đối với lao động thanh niên.
Thanh niên Việt Nam chiếm gần 29% dân số, hơn 50% lao động xã hội
và cũng chiếm một phần lớn trong tổng số những người thất nghiệp hiện nay.
Do đó, giải quyết việc làm cho thanh niên là nội dung quan trọng cơ bản của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Giải quyết việc làm cho thanh niên không
những sẽ tạo điều kiện cho thanh niên phát huy được vai trò, sức mạnh của họ
đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, mà cịn góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đảm
bảo ổn định, an toàn và công bằng xã hội.
Giải quyết việc làm cho thanh niên là để xây dựng xã hội phát triển bền
vững, tốt đẹp thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

21


Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QYUẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN HUYỆN
HOẰNG HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

2.1. Khái quát một số nét về điều kiện tự nhiên, lịch sử, đặc điểm kinh
tế - xã hội ở huyện Hoằng Hoá
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và lịch sử
* Đặc điểm về điều kiện tự nhiên:
Hoằng Hoá là huyện ven biển, nằm ở phía đơng bắc của tỉnh Thanh Hố.
Phía Đơng là biển, phía bắc giáp huyện Hậu Lộc, phía tây giáp huyện Thiệu
Hố, n Định và Vĩnh Lộc, phía nam giáp huyện Quảng Xương, thành phố
Thanh Hoá và một phần huyện Đông Sơn. Xét theo vĩ độ kinh độ trên mặt địa
cầu thì Hoằng Hố ở vĩ tuyến 19059'50' ở ngã ba Bơng đến 105059'30' ở Lạch
Trường. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, với nhiều thay đổi, hiện nay Hoằng
Hoá có 49 xã, thị trấn, huyện lỵ là Bút Sơn.
Huyện Hoằng Hố có tổng diện tích tự nhiên 22.208 ha. Trong đó diện
tích đất nơng nghiệp là: 12.973 ha, lâm nghiệp là: 398 ha, chuyên dùng thổ cư
là: 3.910 ha cịn lại là đất khác. Cấu trúc địa hình Hoằng Hố khá phức tạp song
có thể phân chia địa hình Hoằng Hoá thành hai phần như sau:
- Vùng ven biển: Bờ biển Hoằng Hoá kéo dài từ Lạch Trường (cửa sông
Mã cũ) đến Lạch Trào (cửa sông Mã hiện tại). Các xã ven biển gồm 7 xã: Hoằng
Yến, Hoằng Tiến, Hoằng Hải, Hoằng Trường, Hoằng Ngọc, Hoằng Thanh,
Hoằng Đông. Đây là một dải đất cát rộng không đều, độ màu mỡ cũng khơng
giống nhau được hình thành bởi các dịng hải lưu xuôi ngược dọc bờ biển do
phù sa sông Mã, sông Chu... được cồn cát che chở. Sự phát triển của các cồn cát
tạo nên cánh đồn ven biển và bờ biển Hoằng Hoá ổn định từ lâu.
- Vùng đồng bằng: Bao gồm các xã còn lại. Đây là một dải đồng bằng
phẳng, phì nhiều tập trung nhiều dân cư.

22


Hoằng Hố có một vị trí địa lý, địa thế, núi sơng có nhiều ưu thế, nằm trên
đường quốc lộ 1A và đoạn đường sắt Bắc Nam chạy song song xun qua lịng

huyện 11km, có cầu Hồng Long thơng thương với thành phố Thanh Hóa, cầu
Tào là cửa ngõ thơng thương với các trung tâm kinh tế phía Bắc của Tổ Quốc.
Đồng bằng Hoằng Hố được bồi đắp bởi sơng Mã, sơng Tuần thích hợp phát
triển nơng nghiệp, đặc biệt là thâm canh cây lúa nước. Bờ biển Hoằng Hoá dài
12km là tiềm năng lớn cho các ngành kinh tế biển. Huyện Hoằng Hố cũng có
nhiều khống sản như: Nhơm, sắt, a-mi-ăng, mi-ca, felspat... thuận lợi cho các
ngành công nghiệp nặng… Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên của Hoằng Hoá cũng
gây ra những khó khăn cơ bản như: lũ lụt, hạn hán...
* Đặc điểm lịch sử:
Địa danh huyện thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử. Thời kỳ Đinh - Lê gọi
là giáp Cổ Hoằng, thời Lý - Trần gọi là Cổ Đằng, thời nhà Hồ gọi là Cổ Lĩnh,
đến thời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470) đổi là huyện
Hoằng Hoá.
Trước cách mạng tháng tám, huyện Hoằng Hố có 7 tổng, 161 xã, thơn,
trang, sở; đến năm 1945 Hoằng Hố có 8 tổng đó là: Hành Vĩ, Bái Trạch, Từ
Minh, Bút Sơn, Ngọc Chuế, Dương Thuỷ, Lỗ Hương và Dương Sơn với 169 xã,
thôn. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra
đời, các phủ huyện, châu đều gọi là huyện. Các huyện khác có điều chỉnh lại
một số phần đất, riêng Hoằng Hoá vẫn gồm đủ 8 tổng, chỉ nhập thêm một làng
của huyện Hậu Lộc đó là làng Trung Hồ vào xã Hoằng Trinh.
Trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc, con người đã có mặt ở Hoằng
Hoá. Năm 1961, ngành khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện và khai quật di chỉ ở
Hoằng Hoá một số hiện vật sinh hoạt của người cổ cuối thời đại đồ đồng, đồ sắt,
tiếp theo trong những năm 1962, 1967, 1979, di chỉ Quy Chử (Hoằng Quỳ) lại
được khai quật với hiện vật thời kỳ đồng thau cách đây khoảng 3000 năm. Như
vậy là từ rất sớm, Hoằng Hoá phải trải qua một cuộc vật lộn lâu dài với mọi thử

23



thách của thiên nhiên, sự đe doạ của kẻ thù xâm lược cùng đất nước sinh tồn và
phát triển.
Từ cuộc đấu tranh ấy, đã hun đúc nên trong nhân dân huyện Hoằng Hóa
những truyền thống tốt đẹp. Đó là truyền thống yêu nước, lao động cần cù sáng
tạo, tự lập tự cường trong sản xuất và đấu tranh chống ngoại xâm... Trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp và Đế Quốc Mỹ, Hoằng Hố ln giương cao
ngọn cờ quyết thắng với bao chiến công đáng tự hào gắn với xứ Thanh anh
hùng. Tuy nhiên, những khó khăn của điều kiện tự nhiên, đã có ảnh hưởng
khơng tốt tới sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, từ đó làm cho công tác giải
quyết việc làm cho thanh niên nói riêng gặp phải những cản trở nhất định.
2.1.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Hoằng Hố
Trong điều kiện có nhiều khó khăn do ảnh hưởng suy thoái kinh tế trong
nước và thế giới, nhưng dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự
phối hợp của các đoàn thể, đặc biệt là sự nỗ lực của nhân dân huyện Hoằng Hoá
nên nền kinh tế tồn huyện hiện nay, vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và
đạt được nhiều thành tựu to lớn.
* Về thành tựu:
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực, cơ cấu kinh
tế năm 2010: Cơng nghiệp – Nông, Lâm, Ngư Nghiệp – Dịch vụ là: 29,6% 51,2% - 19,2%.
- Trên lĩnh vực văn hoá, giáo dục, xã hội, an ninh quốc phịng:
+ Văn hố xã hội, thơng tin, thể thao:
Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị trên địa
bàn, hướng dẫn thực hiện quy ước, hương ước phù hợp với pháp luật. Hiện nay,
tồn huyện có tới 87% gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hố, văn nghệ, thể
dục thể thao tại các xã, thị trấn, các cơ quan, trường học được đẩy mạnh. Các
hoạt động văn hoá dân gian truyền thống như: Múa sanh, hát Trống quân, hát

24



Chèo văn... được khôi phục. Công tác quản lý trật tự xã hội được tăng cường,
các hoạt động internet, cửa hàng bán cho thuê sách, báo được quản lý nghiêm
chặt...
+ Giáo dục đào tạo:
Chất lượng dạy và học không ngừng được nâng cao, 100% phổ cập giáo
dục tiểu học. Xây dựng nhiều trường đạt chuẩn quốc gia, các cuộc thi "giáo viên
giỏi", "học sinh giỏi" được tổ chức hàng năm và đạt nhiều thành tích. Cơng tác
khuyến học, khuyến tài được quan tâm đúng mức.
+ An ninh - quốc phòng:
An ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội giữ vững, cơng tác đấu tranh
chống tội phạm có nhiều chuyển biến tích cực.
* Về hạn chế, yếu kém:
Bên cạnh kết quả đạt được, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã
hội vẫn cịn tồn tại một số yếu kém.
Thứ nhất: Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, mặc dù rất
nhiều mơ hình nhưng nhân ra diện rộng cịn khó khăn, sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cịn chậm chưa đồng bộ trong tồn huyện.
Thứ hai: Các vấn đề văn hố, xã hội cịn nhiều bức xúc, một số tệ nạn xã
hội, đặc biệt là ma tuý, giết người cướp tài sản, tình trạng thiếu việc làm ngày
càng trở nên nan giản...cải cách hành chính cịn hạn chế, một số Đảng viên cịn
thiếu đạo đức, phiền hà, sách nhiễu, không gây được niềm tin trong nhân dân.
Hiện nay, đang đặt ra yêu cầu Đảng bộ huyện Hoằng Hoá cần phải đưa ra
những biện pháp hữu hiệu để một mặt phát huy những tích cực, mặt khác khắc
phục những hạn chế, thiếu sót để xây dựng Hoằng Hố thành một huyện vững
mạnh tồn diện. Từ đó, tạo điều kiện quan tâm tốt hơn đến việc chăm lo, rèn
luyện, giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên
huyện Hoằng Hóa trong giai đoạn hiện nay.

25



×