Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Đánh giá tiềm năng, năng lực của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế xã hội xã yên khê, huyện con cuông, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------

Vi Văn Nhân

ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, NĂNG LỰC CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU
SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ N
KHÊ HUYỆN CON CNG , NGHỆ AN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NGÀNH: KHUYẾN NÔNG & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Vinh, năm 2012

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................6
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................8
2.1. Mục tiêu tổng quát ...............................................................................................8
2.2. Mục tiêu cụ thể .....................................................................................................8
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài. ...............................................................8
3.1. Ý nghĩa khoa học. ................................................................................................8
3.2 Ý nghĩa thực tiễn. ..................................................................................................8
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................................9
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................9
1.1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ. ............................................................................9
1.1.1.1. Giới, giới tính và các khái niệm liên quan. ....................................................9


1.1.1.2. Nông thôn, phát triển nông thôn. .................................................................12
1.1.1.3. Giới và phát triển..........................................................................................13
1.1.1.4. Phụ nữ DTTS ...............................................................................................14
1.1.1.5. Tiềm năng của phụ nữ DTTS .......................................................................15
1.1.2. Các quan điểm về vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và vấn đề giải phóng phụ nữ. ....................................................................................15
1.2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. ......................................................15
1.2.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về vai trị của phụ nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề giải phóng phụ nữ. .................................21
“Việt Nam phụ nữ đời đời .........................................................................................23
Nghìn thu vang tiếng Bà Trưng ................................................................................23
Bà Triệu Ẩu thật anh hùng ........................................................................................23
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................29
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..30
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................30
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................30
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu .........................................................................................30
2.2. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................30

2
iii


2.3 Giả thuyết nghiên cứu. ........................................................................................30
2.4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................31
2.4.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu ...............................................................31
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ..........................................................................31
2.4.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu ..........................................................31
2.4.4. Phương pháp điều tra phỏng vấn.....................................................................32
2.5. Điều kiện cơ bản của khu vực nghiên cứu .........................................................32

2.5.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Con Cuông. .............................32
2.5.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Yên Khê. .......................................33
2.5.2.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý: ..................................................................33
2.5.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội: ............................................................................35
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................42
3.1. Thực trạng việc phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực của phụ nữ DTTS xã
Yên Khê.....................................................................................................................42
3.1.1. Những thành tựu và hạn chế trong việc phát huy tiềm năng, nâng cao năng
lực cho người phụ nữ DTTS xã Yên Khê. ................................................................42
3.1.1.1. Trong lĩnh vực kinh tế. .................................................................................42
3.1.1.2. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội. ...................................................................43
3.1.1.3. Trong lĩnh vực việc làm, thu nhập. ..............................................................44
3.1.1.4. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. ................................................................44
3.1.1.5. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng. ............................................46
3.1.2. Nguyên nhân hạn chế việc phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực cho phụ nữ
DTTS xã Yên Khê trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. .................................47
3.1.2.1. Do nhận thức truyền thống. ..........................................................................47
3.1.2.2. Do nguyên nhân kinh tế xã hội. ...................................................................48
3.1.2.3. Do cơ chế chính sách. ..................................................................................49
3.1.2.4. Do bản thân người phụ nữ. ...........................................................................50
3.2. Những tiềm năng, năng lực của phụ nữ DTTS xã Yên Khê trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. .................................................................................................51
3.2.1. Trong lĩnh vực kinh tế. ....................................................................................51
3.2.2. Trong lĩnh vực chính trị. .................................................................................57

3
iv


3.2.3. Trong lĩnh vực văn hóa. ..................................................................................58

3.2.4. Trong quan hệ gia đình, hoạt động cộng đồng và xã hội. ...............................60
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực cho
người phụ nữ DTTS xã Yên Khê. .............................................................................62
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên. ....................................................62
3.3.2. Đặc điểm về kinh tế.........................................................................................64
3.3.3. Phong tục tập quán và các yếu tố văn hóa xã hội. ..........................................65
3.3.4. Chính bản thân người phụ nữ các DTTS. .......................................................66
3.4. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực, vị thế cho phụ nữ DTTS ở
xã Yên Khê. ...............................................................................................................68
3.4.1. Tuyên truyền giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức cho xã hội, chính quyền
và cho chị em phụ nữ DTTS. ....................................................................................68
3.4.2. Giải pháp về phát triển kinh tế ........................................................................69
3.4.3. Cần có một hệ thống cơ chế chính sách hồn thiện và tồn diện. ..................70
3.4.4. Xây dựng nếp sống văn hóa trong gia đình và khu dân cư. ............................72
3.5. Những nguyện vọng của phụ nữ xã Yên Khê – Con Cuông – Nghệ An. ..........73
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...........................................................................75
Kết luận .....................................................................................................................75
Khuyến nghị ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................77

4
v


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất xã Yên Khê 2011. ...............................................36
Bảng 2.2: Cơ cấu dân tộc trên địa bàn xã Yên Khê. .................................................37
Bảng 2.3: Dân số theo các thôn của xã Yên Khê năm 2011. ....................................38
Bảng 2.4: Dự báo dân số xã Yên Khê .......................................................................38

Bảng 2.5: Hiện trạng kinh tế xã Yên Khê năm 2011 ................................................41
Bảng 3.1: Trình độ học vấn của những hộ điều tra ......................................................45
Bảng 3.2: Người làm chính trong cơng việc sản xuất của các hộ được điều tra .......52
Bảng 3.3: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong công việc nội trợ gia đình ........53
Bảng 3.4: Người quyết định chính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh ...............54
Bảng 3.5: Tỷ lệ đóng góp của các thành viên cho kinh tế gia đình ................................56
Bảng 3.6: sự tham gia của phụ nữ trong các tổ chức đoàn thể .....................................57
Bảng 3.7: các lý do phụ nữ khơng được bầu vào các vị trí quan trọng trong thơn ...58
Bảng 3.8: Diện tích đất chưa sử dụng của xã Yên Khê. ...........................................63

5
vii


DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu dân số xã Yên Khê. ................................................................. 31
Biểu đồ 2.2: Dự báo dân số xã Yên Khê ..................................................................39
Biểu đồ 3.1: Cơ hội đi học của trẻ em trai và trẻ em gái DTTS xã Yên Khê ...........47
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ đóng góp vào thu nhập của các thành viên trong gia đình DTTS
xã Yên khê ................................................................................................................ 43
Biểu đồ 3.3: Người quyết định chính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh ...........55
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ đóng góp của các thành viên cho kinh tế gia đình ...........................56
Biểu đồ 3.5: Người thay mặt gia đình tham gia hoạt động cộng đồng 60

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng dân tộc và miền núi nước ta chiếm 75% diện tích, là nơi có nhiều tiềm
năng lớn cả về tài nguyên thiên nhiên cũng như nguồn nhân lực. Sau hơn 15 năm
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TW,

ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số
có bước chuyển biến quan trọng[12].
Tuy nhiên với thực trạng phát triển kinh tế xã hội của khu vực miền núi, vùng
DTTS hiện nay còn quá nhiều bất cập đã cản trở, hạn chế tiến trình phát triển kinh tế
xã hội. Thực trạng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh vốn có.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu là việc phát huy các nguồn nội lực còn rất
thấp, đặc biệt chưa phát huy tốt vai trò nguồn nhân lực phục vụ công cuộc phát triển

6


kinh tế xã hội.
Để khắc phục hạn chế, yếu kém, đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa
(CNH), hiện đại hóa (HĐH) nông nghiệp nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số
(DTTS) ngoài việc phải khai thác tiềm năng, thế mạnh từng vùng, đi đôi với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái, đồng thời phải tập trung phát huy các nguồn lực,
trong đó có tiềm năng của người phụ nữ DTTS.
Phụ nữ là người đảm nhiệm vai trò “kép”: vừa là lực lượng lao động cơ bản
của xã hội, vừa có trách nhiệm trực tiếp tái sản xuất ra con người. Quan tâm đến sự
phát triển của phụ nữ nói chung, khai thác và nâng cao năng lực vị thế vho phụ nữ
DTTS nói riêng khơng chỉ là vấn đề nhân đạo của một quốc gia, một xã hội mà còn
là đòi hỏi thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ xã hội.
Song vùng dân tộc và miền núi nước ta cũng là nơi có điều kiện địa hình và
khí hậu khắc nghiệt, nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số với các
phong tục tập quán lạc hậu và trình độ dân trí thấp. Theo báo cáo phát triển con
người Việt Nam năm 2001 của UNDP, vùng dân tộc và miền núi có trình độ phát
triển thấp nhất trong cả nước về tất cả các phương diện: Đời sống kinh tế – văn hóa
– xã hội.

Yên Khê là một xã miền núi, nằm ở phía đơng nam của huyện Con Cuông,
dân cư chủ yếu là người dân tộc thiểu số (chiếm 70%) với tập quán canh tác cịn lạc
hậu, trình độ dân trí vẫn cịn thấp, nguồn sinh kế của họ còn phụ thuộc vào thiên
nhiên. Với điều kiện cịn khó khăn như vậy họ cũng đạt được nhiều thành tựu nhất
định, tuy nhiên tiềm năng của họ vẫn chưa thực sự phát huy hết và hiệu quả.
Vấn đề đặt ra là phải biết khai thác, phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực
của phụ nữ tạo động lực cho sự phát triển chung của vùng, của đất nước. Do đó,
việc nghiên cứu làm rõ thực trạng của việc phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực
cho phụ nữ DTTS, tìm giải pháp để bồi dưỡng và phát huy hơn nữa nguồn lực này là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì thế, tôi chọn vấn đề “Đánh giá
tiềm năng, năng lực của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội xã Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp nghành kỹ sư KN & PTNT.

7


2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
- Đánh giá tiềm năng, năng lực của phụ nữ DTTS xã Yên Khê, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực của
phụ nữ DTTS xã Yên Khê, huyện Con Cuông, Nghệ An.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tiềm năng của phụ nữ DTTS xã Yên Khê
- Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát huy tiềm năng nâng cao năng lực
cho phụ nữ DTTS xã Yên Khê.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tiềm năng, nâng cao năng lực cho
người phụ nữ DTTS xã Yên Khê, huyện Con Cuông, Nghệ An.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.

3.1. Ý nghĩa khoa học.
Kết quả của luận văn sẽ làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học như: Thuyết
bình đẳng giới, mối quan hệ giữa giới và phát triển… Ngoài ra luận văn cũng giúp
chúng ta có cái nhìn thực tế hơn về năng lực và vị thế của phụ nữ trong xã hội hiện
nay.
Luận văn kết hợp chặt chẽ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với phương pháp tiếp cận
giới. Từ đó khơng những làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về giải phóng phụ nữ
mà cịn đưa họ vào q trình phát triển, nhất là nhóm phụ nữ nghèo nơng thơn, phụ nữ
dân tộc thiểu số, nơi còn rất nhiều hạn chế trong thực hiện bình đẳng giới.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả của luận văn sẽ giúp nâng cao vị thế, vai trị của người phụ nữ trong
xã hội nơng thơn cũng như trong quá trình phát triển chung của đất nước.
Người phụ nữ tự nhận thức được vai trị vị trí của mình trong gia đình và
ngồi xã hội. Qua đó sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khách quan hơn đối với phụ nữ.
Tiến tới xố bỏ bất bình đẳng giới, đảm bảo cuộc sống cho người phụ nữ và khả
năng họ tham gia vào các hoạt động chung của xã hội

8


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ.
1.1.1.1. Giới, giới tính và các khái niệm liên quan.
a, Giới tính: Chỉ sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ góc độ sinh lý học.
Đặc trưng cơ bản của giới tính:
Bẩm sinh: Về phương diện sinh lý học thì đàn ông và đàn bà đã khác nhau từ
trong bào thai. Đó là những đặc điểm xác định bởi tự nhiên không theo và không
phụ thuộc vào mong muốn của con người.

Đồng nhất: Đàn ông hay đàn bà trên khắp thế giới đều có cấu tạo về mặt sinh
lý học giống nhau, đều tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào q trình thụ thai
như nhau.
Khơng biến đổi và không thay đổi: về phương diện sinh lý học, chức năng
sinh sản của đàn bà hay đàn ông là không thể thay đổi hay dịch chuyển cho nhau. Sự
khác biệt về giới tính là bất biến cả về thời gian cũng như không gian.
b, Giới: là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị
xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói
đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ góc độ xã hội.
Đặc trưng của giới:
- Do dạy mà có: Những đặc trưng về giới là những đặc trưng xã hội học được
hình thành trong quá trình dạy và học. Đứa trẻ phải học để trở thành con trai, con
gái. Từ khi sinh ra nó dã được đối xử và dạy dỗ tùy theo nó là trai hay gái. Đó là sự
khác biệt về trang phục hành vi và cách thức ứng xử mà cha mẹ, gia đình và nhà
trường trơng chờ ở con trai, con gái, cũng như hướng dẫn cho trẻ em thuộc mỗi giới
theo những quan niệm cụ thể. Tiếp đó là nhà trường và các tập quán xã hội tiếp tục
củng cố các khuôn mẫu cụ thể về từng giới. Các thể chế xã hội như chính sách, pháp
luật… cũng có ý nghĩa làm tăng hay giảm sự khác biệt giữa hai giới.
- Đa dạng: Giới thể hiện các đặc trưng của phụ nữ và nam giới nên rất đa
dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, của mỗi nước. ngay
trong một nước cũng có những khác biệt đáng kể về vị trí và tiếng nói của phụ nữ và

9


nam giới ở mỗi khu vực như thành thị, nông thơn, hay thậm chí giữa các giai tầng xã
hội như trí thức, nơng dân…
- Ln biến đổi: Vì phụ thuộc vào các đặc điểm xã hội nên tương quan giới
luôn biến đổi cùng với các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, phong tục, tập quán…
- Có thể thay đổi được: Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội hồn tồn

có thể thay đổi được. Quan niệm phụ nữ phải làm các công việc nội trợ, bếp núc như
một “thiên chức” đang được nhìn nhận lại và ngày càng có nhiều nam giới tham gia
làm cơng việc nội trợ, chăm sóc con cái.
c, Các vai trị giới.
Vai trị giới: Là những công việc và hoạt động cụ thể mà phụ nữ và nam giới
thực tế đang làm.
Vai trò giới vừa là một khái niệm, vừa là một trong các cơng cụ được sử
dụng đẻ phân tích tương quan giới trong gia đình và xã hội.
Phân loại vai trị giới
+ Vai trò sản xuất: vai trò sản xuất bao gồm những công việc do cả phụ nữ
và nam giới làm nhằm tạo ra thu nhập bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Chúng bao gồm
cả việc sản xuất hàng hóa có giá trị trao đổi và cả sản xuất tạo ra các vật dụng khơng
những có giá trị sử dụng mà cịn có khả năng trao đổi tiềm tàng.
+ Vai trò tái sản xuất: vai trò tái sản xuất bao gồm những hoạt động tạo ra
nịi giống, duy trì và tái tạo sức lao động. Vai trị đó khơng chỉ bao gồm sự tái tạo
sản xuất sinh học (sinh con) mà cịn cả việc chăm lo, duy trì và phát triển lực lượng
cho thực tại và cho tương lai như ni dạy con, ni dưỡng và chăm sóc các thành
viên khác trong gia đình, các cơng việc nội trợ, giặt giũ, lau chùi nhà cửa… các
công việc này hầu hết do phụ nữ đảm nhận.
+ Vai trò cộng đồng: vai trò cộng đồng bao gồm các hoạt động do phụ nữ và
nam giới thực hiện ở cấp độ cộng đồng nhằm duy trì bảo dưỡng, các nguồn lực khan
hiếm của cộng đồng (nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội…)
thực hiện các nhu cầu chung của cộng đồng như xây dựng đường làng, ngõ xóm, giữ
gìn trật tự vệ sinh, làm đẹp các cơng trình công cộng hoặc trao đổi thông tin, họp
hành lễ hội…
Vai trị cộng đồng có thể chia làm hai loại:

10



- Vai trò tham gia cộng đồng: bao gồm các hoạt động chủ yếu do phụ nữ thực
hiện ở cấp độ cộng đồng: làng, bản, khối phố như là sự mở rộng vai trị tái sản xuất
của mình. Đó là các hoạt động nhằm duy trì, bảo vệ các nguồn lực khan hiếm được
sử dụng chung ở cộng đồng như nước sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe và giáo dục, giữ
gìn mơi trường như qt, dọn đường làng, xóm, phố. Đây thường là những công
việc tự nguyện, không được trả công và thường làm vào thời gian rảnh rỗi.
- Vai trò lãnh đạo cộng đồng: bao gồm các hoạt động ở cấp cộng đồng
thường trong thể chế, chính trị của quốc gia. Những công việc này thường do nam
giới thực hiện và thường được trả công trực tiếp bằng tiền hoặc gián tiếp bằng tăng
thêm vị thế và quyền lực.
d, Nhu cầu, lợi ích và định kiến giới.
- Nhu cầu giới: (còn gọi là nhu cầu thực tế) là những nhu cầu xuất phát từ các
công việc và hoạt động hiện tại của phụ nữ và nam giới. nếu những nhu cầu này
được đáp ứng sẽ giúp cho họ làm tốt vai trị sẵn có của mình.
Nhu cầu giới là những thứ mà phụ nữ và nam giới cần nhưng chưa được đáp
ứng trong cuộc sống. Nhu cầu đó có thể là những thứ rất cụ thể như lương thực,
thực phẩm, quần áo, nhà ở, điện, nước sạch, hoạch là những thứ gắn với cộng đồng
như chăm sóc sức khỏe, cải thiện vệ sinh môi trường, giảm tệ nạn xã hội...
- Lợi ích giới: (cịn gọi là nhu cầu chiến lược) là những nhu cầu của phụ nữ
và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về vị thế xã hội của họ. Những lợi ích này
khi được đáp ứng sẽ làm thay đổi địa vị và vị thế của phụ nữ và nam giới theo
hướng bình đẳng hơn.
Lợi ích của phụ nữ có thể là được nam giới chia sẻ trong cơng việc nội trợ,
được bình đẳn trên pháp luật; bình đẳng trên thực tế trong tuyển dụng, trong đào tạo
và loại trừ mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ… Lợi ích của nam giới có thể là
được chia sẻ gánh nặng kiếm sống, loại trừ những quan niệm rập khuôn về hành vi
của phái mạnh như “trai vô tửu như cờ vô phong”.
Định kiến giới: là nhận thức, thái độ, đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc
điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam và nữ[5].
Giá trị/khuôn mẫu giới: là những ý tưởng mọi người nghĩ phụ nữ và nam giới

nên như thế nào và nên làm những cơng việc gì[2,tr 29].

11


Khoảng cách giới: là những khác biệt về khối lượng cơng việc, về cơ hội
phát triển và về lợi ích mà phụ nữ và nam giới được hưởng.[2,tr 29]
e, Bình đẳng giới và bất bình đẳng giới.
Bình đẳng giới: là nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cơng đồng, của gia đình.
Nam và nữ có quyền thụ hưởng như nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội và gia đình[4].
Bình đẳng giới có nghĩa là những ứng xử, những khát vọng và những nhu cầu
khác nhau của phụ nữ và nam giới đều được cân nhắc, đánh giá và ủng hộ như nhau.
Bình đẳng giới khơng có nghĩa phụ nữ và nam giới phải trở thành như nhau, nhưng
các quyền, trách nhiệm và các cơ hội của họ sẽ không phụ thuộc vào họ sinh ra là
nam giới hay phụ nữ.
Bất bình đẳng giới: Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về
vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người,
đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình, của đất nước.
Hay nói cách khác, bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt với nam giới và
phụ nữ tạo nên các cơ hội khác nhau, sự tiếp cận các nguồn lực khác nhau, sự thụ
hưởng khác nhau giữa nam và nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Các dạng tồn tại bất bình đẳng giới: Gánh nặng cơng việc, sự phân biệt đối
xử, bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, những định kiến rập khn và bạo lực trên cơ
sở giới tính.
1.1.1.2. Nơng thơn, phát triển nông thôn.
Nông thôn: Là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nơng
dân tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội và mơi
trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức

khác.[3]
Phát triển nông thôn:
Theo ngân hàng thế giới (1975): Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm
cải thiện các điều kiện sống về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người
nghèo ở vùng nơng thơn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân
sống ở các vùng nông thôn được hưởng lợi ích từ sự phát triển.

12


Một số quan niệm khác lại cho rằng, phát triển nông thôn là hoạt động nhằm
nâng cao vị thế về kinh tế và xã hội cho người dân nông thôn thơng qua việc sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của địa phương bao gồm nhân lực, vật lực và tài
lực.
Trong điều kiện Việt Nam, thuật ngữ này có thể hiểu: Phát triển nơng thơn là
một q trình cải thiện có chú ý một cách bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và
mơi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nơng thơn. Q
trình này trước hết là do chính người dân nơng thơn và có sự hỗ trợ tích cực của nhà
nước và các tổ chức khác.
1.1.1.3. Giới và phát triển.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển là nhờ sự chiến đấu lao động, và hợp
tác của hai giống người: nam và nữ. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, phụ nữ đã sát
cánh cùng nam giới để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Về mặt
sinh học (giới tính), hai giống người này khơng giống nhau trên nhiều phương diện
như hình dáng, giọng nói và chức năng sinh sản. Còn về mặt xã hội (giới) thật khó
có thể so sánh ai hơn ai vì nam và nữ đều đóng vai trị quan trọng khơng thể thiếu
được trong gia đình và xã hội. Khơng thể nói rằng giới tính này là quan trọng cịn
giới tính kia là khơng quan trọng, cũng khơng thể nói rằng giới tính này sinh ra là để
thống trị cịn giới tính kia là bị trị, tuy nhiên lịch sử đã không công bằng khi ghi
chép về nam giới như là những người sáng tạo ra tất cả còn phụ nữ chỉ đóng vai trị

phụ giúp khơng đáng kể.
Phụ nữ là người đảm nhiệm các vai trị sản xuất và đóng vai chính trong vai
trị tái sản xuất: tái sản xuất sinh học, tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất ra cơ
cấu cộng đồng. Trong gia đình, họ là người sinh đẻ, ni dạỵ con cái, giữ gìn gia
đạo, gia phong. Còn đối với dân tộc, phụ nữ đã góp phần bảo lưu truyền thống văn
hóa và hình ảnh của người mẹ ln là biểu tưởng của hịa bình, hạnh phúc. Mặc dù
ở vị thế thấp nhưng trong lịch sử thế giới và Việt Nam, thời kỳ nào cũng có những
phụ nữ kiệt xuất trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự, ngoại
giao…
Thuật ngữ “giới và phát triển” (Gender and Development – GAD) xuất hiện
từ phong trào phụ nữ quốc tế. vào thời kỳ đầu tiên, các nhà nữ quyền đặt vấn đề

13


nghiên cứu “phụ nữ trong phát triển” (WID), nhưng thời gian sau do nhận thấy, tính
khơng tồn diện của vấn đề và không thu hút được sự tham gia của nam giới nên họ
chuyển thành giới và phát triển (GAD) nghĩa là nghiên cứu mối quan hệ giữa phụ
nữ và nam giới trong thế so sánh toàn diện để cùng có thể tìm giải pháp hạn chế tiến
tới xóa bỏ bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực. Nhà nghiên cứu nữ quyền Ann
oakley là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Giới” vào Xã hội học. Sau này chính các
nhà nghiên cứu trên toàn thế giới đã khẳng định quan điểm nghiên cứu Giới trong
Xã hội học, giới với tư cách là hệ thống phân tầng trong đó nữ giới bị xếp hạng và
đánh giá thấp hơn nam giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. S.Furier người
theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu thế kỉ 19 ở nước Pháp đã có một câu nói nổi
tiếng: “trình độ giải phong phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội. điều đó
cũng có nghĩa phụ nữ chỉ thực sự được giải phóng trong một xã hội có trình độ phát
triển cao và đạt được bình đẳng giới. Xã hội đó khơng chỉ thừa nhận vai trò to lớn
của phụ nữ mà còn đưa họ tới vị trí tương xứng với vai trị, với cống hiến của họ.
Việc so sánh giữa vai trò và vị trí của phụ nữ trong mối quan hệ với nam giới ở từng

xã hội cụ thể sẽ đưa đến những cách nhìn khách quan, khoa học và chính xác.
1.1.1.4. Phụ nữ DTTS
Phụ nữ dân tộc thiểu số: Là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng phụ nữ thuộc
các thành phần dân tộc có số lượng dân cư ít hơn người Kinh (tộc người đa số) sinh
sống ở các khu vực của nước ta.
Đặc điểm của phụ nữ dân tộc thiểu số:
Phụ nữ dân tộc thiểu số có những đặc điểm riêng khác với phụ nữ người
Kinh ở khu vực đồng bằng và đô thị:
Là một bộ phận của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ các DTTS mang trong mình cả
đặc điểm, phẩm chất, tiềm năng nổi bật của người phụ nữ Việt Nam, cả những đặc
điểm, tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số. Do sống trong môi trường tự nhiên miền núi và môi trường xã hội - dân tộc thiểu số nên họ chịu sự tác động lớn của cả
hai yếu tố trên. Tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong thời kỳ CNH, HĐH là
truyền thống đồn kết, đức tính cần cù, chịu thương chịu khó; sống có trách nhiệm,
vì mọi người; phẩm chất chân thật, giữ chữ tín; khéo léo và sáng tạo trong công
việc; sức khỏe dẻo dai được rèn luyện trong môi trường tự nhiên khắc nghiệt... Đội

14


ngũ trí thức, cán bộ đảng viên nữ trong đồng bào dân tộc tuy cịn ít về số lượng nhưng
thực sự đã có nhiều đóng góp tạo nên những thành quả của địa phương về phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Tuy nhiên, do đa số phụ nữ DTTS sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các phong tục tập quán “trói buộc” đã tác động lớn đến
cách sống, nếp nghĩ, làm chậm nhịp phát triển của bản thân họ. Mặt khác, tâm lý tự
ti, cam chịu, an phận thủ thường, ngại thay đổi và khó bắt nhịp với cái mới đã hạn
chế những tiềm năng sẵn có, làm cho những tiềm năng đó khó bộc lộ và phát triển.
Phải nhận thức được thế mạnh và hạn chế của phụ nữ DTTS mới tìm ra được
giải pháp đúng nhằm khắc phục hạn chế và phát triển những ưu thế. Vì vậy, phát
huy tiềm năng, năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế - xã hội

chính là làm cho cái hay, cái tốt, các mặt mạnh phát huy tác dụng và tiếp tục nảy nở
thêm để tác động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng chính là
phát triển bản thân họ.
1.1.1.5. Tiềm năng của phụ nữ DTTS
Tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số là toàn bộ những năng lực, khả năng
lao động sáng tạo của phụ nữ các DTTS. Khả năng, năng lực ấy cho phép họ tham
gia và đảm nhiệm những công việc trong các mặt của đời sống xã hội, đáp ứng nhu
cầu tồn tại, phát triển của bản thân phụ nữ, đồng thời đáp ứng nhu cầu của sự tiến bộ
xã hội. Bên cạnh những khả năng, năng lực đã được bộc lộ, còn một phần khả năng,
năng lực đang tiềm ẩn sẽ được bộc lộ, phát triển trong điều kiện thuận lợi.
1.1.2. Các quan điểm về vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và vấn đề giải phóng phụ nữ.
1.2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phụ nữ là phần nửa dân số không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Phụ nữ
là một bộ phận cấu thành quan trọng có ý nghĩa quyết định việc tái sản xuất lực lượng
sản xuất, góp phần quan trọng vào sự phát triển xã hội bền vững.
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đánh giá rất cao vai trò, vị thế của phụ nữ
trong xã hội, coi phụ nữ là nguồn nhân lực chủ yếu trong cách mạng xã hội. Theo
các ông: “Trong lịch sử nhân loại, khơng có một phong trào to lớn nào của những
người áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là những

15


người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức” [7], chính vì vậy nên họ
chưa bao giờ và khơng bao giờ đứng ngồi các cuộc đấu tranh giải phóng. Sự
nghiệp giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc
và giải phóng con người. Nếu dân tộc đã được giải phóng rồi, phụ nữ có vị trí quan
trọng trong q trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phụ nữ phải có trách
nhiệm phát triển kinh tế - xã hội.

Có thể nói, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, xã hội cần phải giải
phóng phụ nữ khỏi sự ràng buộc gia đình, phải làm cho phụ nữ và nam giới bình
đẳng bằng cách lơi cuốn phụ nữ tham gia công việc xã hội.
Những quan điểm biện chứng ấy có được là xuất phát từ sự nghiên cứu cơng
phu và sự chiêm nghiệm trong thực tiễn của C.Mác và Ph.Ănghen để tìm hiểu địa vị
của người phụ nữ trong xã hội tư sản. Các ông đã chứng kiến và thấu hiểu tình cảnh của
người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đó là tình trạng người phụ nữ bị bóc lột
đến kiệt sức, thậm chí bị chết vì do lao động q sức; hoặc đó là sự bóc lột tinh vi bằng
cách kéo dài ngày cơng lao động trong môi trường thiếu vệ sinh và thiếu khơng khí.
Phụ nữ phải làm việc cật lực trung bình ngày 16 giờ và trong mùa may mặc thì làm
cật lực một mạch 30 giờ không nghỉ. Hậu quả của tình trạng trên là sự suy sụp về
tinh thần và thể xác: “Không mấy chốc họ đã thấy mệt mỏi, kiệt sức, suy nhược, ăn mất
ngon, đau vai, đau lưng, đau thắt lưng, nhất là đau đầu; sau đó là xương sống bị vẹo, hai
vai nhô cao và biến dạng, gầy mịn, mắt sưng, chảy nước mắt và nói chung là nhức
nhối, cận thị, ho, ngực lép, khó thở và mọi thứ bệnh phụ nữ [8].
C.Mác đi đến kết luận: trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, phụ nữ có vai trị
lớn nhưng địa vị lại thấp hèn cả trong gia đình và ngồi xã hội, họ ln chịu cảnh
bất bình đẳng với nam giới, bị bóc lột, bị tha hóa. Trong các cơng xưởng tư bản chủ
nghĩa, phụ nữ phải chịu bao nỗi nhục nhã, đắng cay, phải lao động cực nhọc, làm
việc cật lực thậm chí là trong điều kiện ốm đau. Phụ nữ là nơ lệ.
Tình trạng trong hơn nhân gia đình dưới chế độ TBCN cũng vậy. Trong chế
độ TBCN có hai loại gia đình là gia đình tư sản và gia đình vơ sản, giai cấp nắm giữ
tư liệu sản xuất là giai cấp thống trị và bóc lột giai cấp khơng có tư liệu sản xuất,
điều này được thể hiện rõ trong gia đình tư sản, nơi mà người đàn ơng nắm giữ địa
vị kinh tế thì nắm giữ ln vị thế thống trị người đàn bà, người đàn bà khơng có tư

16


liệu sản xuất. Với tư cách là đơn vị của tế bào xã hội, gia đình cũng chứa đựng tất cả

mối quan hệ bất cơng và bất bình đẳng xã hội. Như vậy, chế độ tư bản đã làm tăng
sự nơ dịch từ hai phía xã hội và gia đình và chất thêm gánh nặng lên cả hai vai
người phụ nữ. Cùng một lúc phụ nữ phải vừa tham gia lao động trong nền sản xuất
xã hội và vừa phải đảm nhiệm mọi thứ công việc như nô lệ trong gia đình.
Nghiên cứu lịch sử lồi người, C.Mác và Ăngghen chỉ ra rằng: Trong xã hội
có giai cấp đối kháng, phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp bức giai cấp và sự bất
bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội. Sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến tình
trạng áp bức, nơ dịch của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản, từ đây, trong gia
đình người phụ nữ trở nên hồn toàn lệ thuộc về kinh tế, phải phục tùng tuyệt đối
quyền lực của người chồng. Sự bất bình đẳng nam nữ hay sự bất bình đẳng về giới
có nguồn gốc từ sự bất bình đẳng về kinh tế giữa phụ nữ và nam giới. Địa vị của
người phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội ln thấp kém hơn nam giới là bắt
nguồn từ địa vị kinh tế của họ. Phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam giới trước hết là
trong quan hệ đối với tư liệu sản xuất, đồng thời là trong quan hệ tổ chức, quản lý
sản xuất và trong quan hệ phân phối, tiêu dùng sản phẩm. Cơ sở kinh tế như thế nào
thì đặc điểm và tính chất của mối quan hệ nam nữ như thế ấy. Trong nền kinh tế
cộng sản nguyên thủy, do đàn bà nắm giữ kinh tế nên đàn bà đồng thời nắm giữ
quyền cai quản xã hội và gia đình. Nhưng cùng với sự thống trị kinh tế của đàn bà bị
mất và đàn ông nắm quyền thống trị kinh tế thì sự thống trị của nam giới với phụ nữ
trở nên phổ biến không chỉ trong nền sản xuất vật chất của xã hội mà cả trong nền
tái sản xuất, tức là trong hơn nhân gia đình. Mác và Ăngghen chỉ rõ: “Sự thống trị
của đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự thống trị của họ về kinh
tế” và vì vậy, khi khơng cịn chế độ tư hữu thì sự thống trị của đàn ông đối với đàn
bà trong hôn nhân “sẽ tiêu vong cùng với sự thống trị về kinh tế” [8].
Học thuyết Mác - Lênin đã chỉ rõ nguồn gốc và nguyên nhân kinh tế của sự
bất bình đẳng nam nữ trong xã hội. Nền kinh tế dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội đã đẻ ra 2 đặc trưng cơ bản của chế độ hôn nhân
và gia đình: một là sự thống trị của người đàn ơng và hai là tính ràng buộc vĩnh viễn
của hơn nhân. Kết luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng rút ra ở đây là: cơ sở kinh


17


tế biến đổi thì những đặc điểm và tính chất của mối quan hệ nam nữ tương ứng với
nó cũng thay đổi.
Bên cạnh đó chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: bên cạnh yếu tố kinh tế là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng bất bình đẳng nam nữ cịn có yếu tố phi kinh
tế - đó là yếu tố thuộc về nhận thức, văn hóa, xã hội.
Trình độ nhận thức, thói quen suy nghĩ và các phong tục tập quán phản ánh
sự bất bình đẳng kinh tế giữa phụ nữ và nam giới đã ăn sâu bám chắc vào trong óc
con người, thành tư tưởng “trọng nam khinh nữ” và thành thói ứng xử của người
đàn ơng đối với đàn bà. Đó chính là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc văn hóa - xã
hội của sự bất bình đẳng nam nữ. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, tập quán gia trưởng
trở thành quy tắc, thành thông lệ. Tàn tích đó của chế độ nam trị, chế độ thống trị
của toàn thể nam giới đối với toàn thể nữ giới không cần tới pháp luật bảo vệ vẫn có
tác động cưỡng chế, điều chỉnh hành vi ứng xử của người đàn ông và đàn bà ngay cả
khi cơ sở kinh tế của sự bất bình đẳng nam nữ bị phá bỏ.
Trên cơ sở phân tích nguồn gốc kinh tế, xã hội và nhận thức của tình cảnh
phụ nữ bị áp bức trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin đã vạch rõ xu hướng biến đổi địa vị của người phụ nữ theo hướng tiến tới sự
bình đẳng nam nữ trong xã hội và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối
với sự giải phóng phụ nữ. Khi bàn về vấn đề này, C.Mác và Ph.Ănghen khẳng định,
phụ nữ có tiềm năng, vai trị và vị trí trong các cuộc cách mạng xã hội. Theo C.Mác,
chính chủ nghĩa tư bản phát triển đã tạo ra những tiền đề kinh tế, xã hội cho cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp bị áp bức, bóc lột, giải phóng phụ nữ nhưng bản thân
chủ nghĩa tư bản khi xác lập vị trí của nó trên vũ đài chính trị lại khơng thể giải
phóng được con người nói chung, người phụ nữ nói riêng khỏi sự áp bức của gia
đình và xã hội, thậm chí nó cịn tăng cường sự áp bức bóc lột và làm tha hóa phụ nữ.
Việc này chỉ có thể giải quyết được trong chủ nghĩa xã hội, vấn đề là làm thế nào để
giải phóng được phụ nữ khỏi sự áp bức bất công trong cả gia đình và ngồi xã hội?
C.Mác khẳng định: phải giải phóng phụ nữ khỏi mọi sự áp bức và bất bình đẳng.

Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cuộc cách mạng vơ sản - cuộc cách mạng giải
phóng cho tồn bộ nhân loại.

18


Theo C.Mác và Ph.Ănghen, sự nghiệp giải phóng phụ nữ chỉ có thể thực hiện
được một cách triệt để khi lao động gia đình biến thành lao động xã hội:
- Chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia
sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm cơng việc trong nhà rất ít.
Nhưng chỉ với nền cơng nghiệp hiện đại, là nền công nghiệp không những thu nhận lao
động của phụ nữ trên quy mô lớn, mà cịn trực tiếp địi hỏi phải có lao động nữ và ngày
càng có xu hướng hịa tan lao động tư nhân của gia đình trong nền sản xuất cơng cộng,
thì có thể thực hiện được điều nói trên [8].
Tuy nhiên, để giải quyết những mâu thuẫn khi thực hiện công việc trong gia
đình và ngồi xã hội, để phụ nữ tham gia công việc xã hội mà không bị lệ thuộc
những cản trở từ cơng việc gia đình, theo Ănghen, cần phải đưa cơng việc nội trợ
của gia đình cá thể thành công việc chung của xã hội - tức là “hịa tan lao động tư
nhân của gia đình trong nền sản xuất công cộng”, biến công việc nội trợ thành lao
động công cộng. Tư tưởng này của Mác - Ăngghen được Lênin kế thừa và phát triển
trong điều kiện mới ở nước Nga Xô viết.
Lênin đánh giá rất cao tiềm năng, vai trò của phụ nữ trong cách mạng: “Một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thành cơng nếu khơng có một phần phụ
nữ lao động tham gia rộng rãi”, “không thể nào xây dựng được ngay cả chế độ dân
chủ - chứ đừng nói đến chủ nghĩa xã hội nữa, nếu phụ nữ không tham gia cơng tác
xã hội, đội dân cảnh, sinh hoạt chính trị…”; “Nếu một phần lớn phụ nữ lao động
không tham gia một cách tích cực thì khơng thể có cách mạng xã hội chủ nghĩa
được” [6]. Người còn khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ và chỉ ra khả năng của họ
có ảnh hưởng rất quan trọng đến nguồn lực cách mạng, có mối liên quan mật thiết
với sức mạnh nhân dân: “Không lôi kéo được phụ nữ vào cơng việc chính trị thì

khơng thể lơi kéo được quần chúng nhân dân vào cơng việc chính trị được”. Lênin
cũng đã xác định trách nhiệm của Đảng, Nhà nước là phải lơi cuốn, thúc đẩy mọi
phụ nữ tham gia chính trị, quản lý nhà nước Xô Viết: “Nhiệm vụ của chúng ta là
phải làm cho chính trị trở thành cơng việc mà mỗi người phụ nữ lao động đều có thể
tham dự” [6].
Trong bức thư “Gửi nữ công nhân” viết năm 1920, Lênin tố cáo pháp luật tư
sản giành đặc quyền cho nam giới và đặt phụ nữ vào tình trạng khơng bình đẳng với

19


nam giới. Do đó, để tiến tới giải phóng phụ nữ thì một trong những bước đầu tiên
phải thực hiện là: chính quyền xơ - viết hủy bỏ tất cả pháp luật tư sản và đưa ra luật
pháp tôn trọng bình đẳng nam và nữ. Nhưng Lênin cho rằng như thế chưa đủ, cần
phải tạo bình đẳng trên thực tế. Lênin viết: “Bình đẳng về mặt pháp luật vẫn chưa
phải là bình đẳng trong thực tế đời sống... Muốn vậy, phải làm sao cho nữ công
nhân ngày càng tham gia nhiều hơn nữa vào cơng việc quản lý các xí nghiệp công
cộng, vào quản lý nhà nước” [6]. Lênin tin tưởng rằng “Trong khi quản lý, phụ nữ
sẽ học tập nhanh chóng và đuổi kịp nam giới”.
Người cũng đề ra nhiệm vụ chủ yếu của phong trào công nhân nữ là thu hút
sự tham gia của đông đảo phụ nữ vào cuộc đấu tranh vì sự bình đẳng nam nữ. Lênin
yêu cầu: “Đấu tranh cho phụ nữ được quyền bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội, chứ
không phải bình đẳng về mặt hình thức. Nhiệm vụ chủ yếu là lôi cuốn phụ nữ tham
gia vào lao động sản xuất của xã hội, giải phóng chị em ra khỏi địa vị “nơ lệ trong gia
đình”, ra khỏi địa vị lệ thuộc (cái địa vị làm cho họ ngu muội đi và hạ thấp con người
họ) vào cảnh suốt đời chỉ có trơng nom bếp núc và con cái”. “Đó là cuộc đấu tranh lâu
dài, đòi hỏi phải cải tạo một cách căn bản cả nền kỹ thuật xã hội lẫn tập quán xã hội”
[6].
Như vậy, theo quan điểm của Lênin thì khơng chỉ giải phóng người phụ nữ
ngồi xã hội mà cịn giải phóng họ ngay trong chính gia đình vì chính ở đây gánh

nặng cơng việc đang đè lên vai họ, làm cho họ khơng có điều kiện phát triển được
như nam giới. Hơn thế nữa, Lênin đã đánh giá rất cao khả năng và vai trò của phụ
nữ trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa vì theo Lênin, kinh nghiệm của tất
cả các phong trào giải phóng chứng tỏ rằng cách mạng muốn thắng lợi là tùy thuộc
vào mức độ tham gia của phụ nữ. Bởi vậy, trên thực tế chính quyền xơ - viết đã làm
hết sức mình để lơi cuốn phụ nữ tham gia công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội nhằm từng bước giải phóng phụ nữ. Lênin chỉ ra rằng: Phụ nữ chỉ được giải
phóng, được phát triển khi họ nhận thức được vị trí, vai trị và khả năng của mình và
có ý chí phấn đấu cho sự nghiệp cao cả ấy: việc giải phóng lao động nữ phải là việc
của bản thân phụ nữ. Để thực hiện sự nghiệp giải phóng, chính bản thân phụ nữ phải
ra sức học tập, nâng cao trình độ, nhanh chóng đuổi kịp nam giới. Chỉ có học tập với

20


trình độ cao thì phụ nữ mới thực hiện tốt vai trị và phát huy tốt khả năng của mình
trong gia đình và ngồi xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết khoa học, cách mạng của thời đại ngày
nay, là sự kế tục, phát triển tư tưởng nhân loại về giải phóng phụ nữ. Chủ nghĩa Mác
- Lênin đã chỉ ra rằng nguồn gốc và nguyên nhân cũng như những yếu tố tác động
tới sự bất bình đẳng nam nữ trong lịch sử lồi người đó chính là q trình phụ nữ bị
gạt ra khỏi nền sản xuất xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định rằng sự
nghiệp giải phóng phụ nữ ln gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải
phóng xã hội, giải phóng con người là vấn đề mang tính biện chứng sâu sắc. Hơn
nữa, cùng với việc xóa bỏ cơ sở kinh tế của sự bất bình đẳng nam nữ thì cần tạo cơ
hội và điều kiện để thu hút ngày càng nhiều sự tham gia của phụ nữ vào tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội để phụ nữ có thể phát huy hết tiềm năng của mình.
1.2.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về vai trò của phụ
nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề giải phóng phụ nữ.
Kế thừa và phát triển học thuyết Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một

trong những người Việt Nam đầu tiên hiểu và đặc biệt quan tâm đến tiềm năng, vai
trò, vị thế của phụ nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự nghiệp
cách mạng Việt Nam nói riêng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiềm năng, vai trị của phụ nữ Việt Nam có cội
nguồn sâu xa, từ cuộc sống gia đình và xã hội trong thời niên thiếu ở quê nhà, đến
sự tiếp thu truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa Việt Nam và thế giới. Với sự nhạy
cảm của một tâm hồn và nhân cách lớn, Người sớm nắm bắt được tinh hoa văn hóa
dân tộc trong đó có vấn đề phụ nữ. Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng những
truyền thống văn hóa “thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, “lệnh ông
không bằng cồng bà”; “Người chồng trị vì, người vợ cai quản”, là những hằng số
văn hóa thể hiện vai trị, vị trí của người phụ nữ khơng dễ gì bị “lấn át” trong xã hội
phong kiến, thực dân ở Việt Nam. Chính truyền thống lịch sử với những tấm gương
của các anh hùng liệt nữ hy sinh vì dân vì nước, vì độc lập dân tộc là bằng chứng
hùng hồn không thể phủ nhận, có sức sống mạnh mẽ, trường tồn trong tâm thức, dân
tộc.

21


Trong diễn trình lịch sử - văn hóa của phụ nữ Việt Nam, có thể nói từ thời đại
Hồ Chí Minh, phụ nữ mới được coi như một lực lượng, một tổ chức với tầm vóc lịch
sử có vai trị quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từ rất sớm khi đấu tranh cho quyền độc lập của dân tộc đã đấu tranh cho
quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ các nước thuộc địa. Trong những
năm 20 của thế kỷ XX, trong “Thư gửi quốc tế cộng sản”, “Bản án chế độ thực dân
Pháp”, Người luôn luôn đề cập “Nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ”. Trên tờ
báo Người cùng khổ, trong bài “Phụ nữ Việt nam và chế độ đô hộ của Pháp”, Người
viết: “Chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối
với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó đem ra đối xử đối với trẻ em và phụ nữ lại càng bỉ ổi hơn
nữa”.

Từ cảm nhận sâu sắc nỗi “khổ nhục” của phụ nữ dưới chế độ thực dân phong
kiến, Hồ Chí Minh càng ý thức hơn phụ nữ chính là một lực lượng, “một nửa” thành
cơng của cách mạng. Trước khi có một chính Đảng ra đời, trên báo Thanh niên - cơ
quan tuyên truyền của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội do Người phụ
trách đã mở mục Diễn đàn phụ nữ. Trong một tác phẩm quan trọng viết sau đó, cuốn
Đường cách mệnh (viết năm 1927), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Việt nam cách
mệnh phải có nữ giới tham gia mới thành cơng, mà nữ giới muốn cách mệnh thì
phải theo phụ nữ quốc tế chỉ bảo”. Sau này, trong suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam, Người ln nhấn mạnh khả năng cách mạng của phụ nữ và sớm nhận thấy
nhân tố góp phần thắng lợi của cuộc cách mạng ấy chính là phụ nữ: “Xem trong lịch
sử cách mệnh, chẳng có lần nào là khơng có đàn bà, con gái tham gia”; “An Nam cách
mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”. Về sau, trong thư gửi phụ nữ
nhân dịp kỷ niệm ngày phụ nữ 8-3-1952, Người khẳng định: “Non sơng gấm vóc
nước Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực
rỡ”.
Sự nhìn nhận sâu sắc và đánh giá đúng vai trò của phụ nữ trong lịch sử dân
tộc là tư tưởng xuyên suốt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hơn thế nữa, Người cịn tun
truyền cho đồng bào, đồng chí hiểu về vấn đề đó. Năm 1941, sau khi về nước, trong
số báo Việt Nam Độc lập tại Việt bắc, Người đã viết:

22


“Việt Nam phụ nữ đời đời
Nhiều người vì nước vì nịi hy sinh
Nghìn thu vang tiếng Bà Trưng
Ra tay cứu nước cứu dân đến cùng
Bà Triệu Ẩu thật anh hùng
Cưỡi voi đánh giặc anh hùng bốn phương”
Từ việc đánh giá đúng khả năng và vai trò của phụ nữ trong cách mạng,

Người luôn theo dõi sát sao và tạo mọi điều kiện cho phụ nữ tham gia vào sự nghiệp
bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng nhà nước. Đặc biệt, Người rất quan tâm đến
công tác phát triển Đảng trong quần chúng phụ nữ. Khi làm việc với các cấp ủy
đảng từ trung ương đến địa phương, Người luôn chú ý số lượng cán bộ nữ. Người
hiểu rõ khả năng to lớn của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người
nói: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ trở thành chuyên gia các
ngành và cán bộ lãnh đạo, làm Giám đốc và Phó giám đốc các xí nghiệp, Chủ nhiệm
hợp tác xã nơng nghiệp, Bí thư chi bộ Đảng…” [11] và Người vui mừng trước việc
ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào công việc quản lý: “Từ ngày nước ta được
giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ rõ về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Nhưng một sự tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền
ngày càng nhiều” [9]. Sau nữa, Người đã đặt trách nhiệm của Đảng đối với sự phát
triển của phụ nữ. Người khẳng định: phải giải phóng phụ nữ thực sự, giải phóng phụ
nữ thì phải bằng pháp luật, chính sách, biện pháp cụ thể: “Từ nay, các cấp Đảng,
chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ nữ, phải căn cứ vào trình độ của
từng người và cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn nữa”, “phải thực sự giải
phóng phụ nữ và tơn trọng quyền lợi của phụ nữ” [9], “Đảng và Chính phủ cần phải
có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều
phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo” [11]. Hồ Chí Minh cho
rằng: khơng ai thấu hiểu phụ nữ bằng chính phụ nữ, muốn vận động, bảo vệ, hỗ trợ
phụ nữ phải thành lập tổ chức của phụ nữ. Ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ
XX trong cuốn Đường cách mệnh, Hồ chí Minh đã nói: “muốn thế giới cách mệnh
thành cơng, thì phải vận động đàn bà, con gái công nông các nước…Mỗi Đảng cộng
sản phải có một Bộ phụ nữ trực tiếp thuộc về phụ nữ quốc tế” [10].

23


Tơn trọng phụ nữ, đánh giá đúng vai trị của phụ nữ, song Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng rất nghiêm khắc đối với phụ nữ. Người luôn nhắc nhở phụ nữ phải ý

thức được vai trị, vị thế của mình mà phấn đấu cho bản thân và cho dân tộc. Người
nói: “Đảng, Chính phủ và Bác mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa. Hiện nay trong
các ngành, số phụ nữ tham gia cịn ít” [9]. Vì vậy, người nhắc nhở phụ nữ: “khơng
nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin
tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đồn kết, giúp đỡ nhau để giải
quyết mọi khó khăn trong cơng tác chính quyền”, “phải nâng cao tinh thần làm chủ,
cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí
khí tự cường, tự lập”. Người đã chỉ cho phụ nữ Việt Nam thấy rằng, muốn có sự
bình đẳng thực sự, không nên chỉ trông chờ vào người khác mà “bản thân chị em
phải có chí khí tự cường, tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho mình”[9].
Về con đường giải phóng phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí minh nhấn mạnh: Muốn
giải phóng phụ nữ thì trước hết phải giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, thực
hiện quyền tự do bình đẳng cho mọi người, trong đó có phụ nữ. Để đưa cơng cuộc
giải phóng ấy thắng lợi, để xây dựng xã hội mới thành công, theo Người phải tiến
hành làm cách mạng vô sản, mà trước hết là phải thực hiện thắng lợi cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Đánh đổ đế quốc phong kiến là một bước căn bản để giải
phóng cho phụ nữ. Sau đó, thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để xóa bỏ tận
gốc sự bất bình đẳng của người phụ nữ với nam giới trên tất cả mọi lĩnh vực: kinh
tế, xã hội, văn hóa. Phụ nữ chỉ được bình đẳng thực sự trong điều kiện một nền kinh
tế phát triển, một nền văn hóa lành mạnh và một xã hội văn minh. Do đó, Hồ Chí
Minh chủ trương gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Người thường nói: chúng ta làm cách mạng để giành lấy tự do, dân chủ, bình
đẳng, trai gái ngang quyền nhau, khơng để phụ nữ bị áp bức, bị coi thường. Ngay từ
khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã viết: “thực hiện nam nữ bình quyền” .
Như vậy, từ việc khẳng định phụ nữ là một lực lượng to lớn của xã hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên tư tưởng hẹp hòi của Nho giáo - phong kiến, đánh giá
đúng và khách quan vai trò, tiềm năng và vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Phụ nữ vừa là lực lượng lao động quan trọng của xã hội, vừa là người mẹ, người


24


thầy đầu tiên của con trẻ. Đời sống vật chất và tinh thần của họ, trình độ học vấn của
họ, điều kiện làm việc của họ có ảnh hưởng to lớn đến thế hệ tương lai. Từ đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh xác định tầm quan trọng của việc giải phóng phụ nữ, coi đó là
thước đo tiến bộ của phát triển xã hội. Theo Người, “giải phóng phụ nữ” khơng chỉ
bao hàm nội dung giải phóng phụ nữ thốt khỏi ách nô lệ, khỏi chế độ thực dân
phong kiến trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ mà cịn xóa bỏ tư tưởng “trọng
nam khinh nữ” từ trong gia đình ra ngồi xã hội, là tạo điều kiện để phụ nữ phát huy
tiềm năng sức lực của mình vào phát triển đất nước và của chính bản thân. Tư tưởng
này đã chi phối nhận thức và hành động trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Dưới chế độ phong kiến và về sau là chế độ thuộc địa nửa phong kiến, phụ nữ
Việt Nam hàng trăm năm sống trong triết lý Nho giáo “tam tòng, tứ đức”, “nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô”…, quanh quẩn hoặc an phận với cuộc sống gia đình, với
hạnh phúc nhỏ nhoi chật hẹp trong gia đình và ngồi xã hội, họ bị những quan điểm
trên “trói buộc” và chịu một thân phận “thiệt thịi”…Vì lẽ đó mà giải phóng phụ nữ
là nội dung và chương trình cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiến
hành khơng chỉ là cuộc cách mạng xã hội gắn liền với giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp mà cịn là cuộc cách mạng văn hóa, nhân văn sâu sắc.
Nếu như trong cách mạng dân tộc, dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định “Việt
nam cách mệnh phải có nữ giới tham gia mới thành cơng” thì trong hịa bình và xây
dựng đất nước Người lại nêu: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu khơng giải
phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ
nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Có thể nói quan điểm, tư tưởng của
Người đối với phụ nữ là giải phóng “sức chiến đấu” và “sức lao động”, làm thế nào
để tạo điều kiện tốt nhất để chị em đóng góp nhiều nhất cho đất nước và thơng qua
đó phụ nữ trưởng thành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định vai trị, tiềm năng, vị thế to lớn của
phụ nữ Việt Nam, Người luôn gắn nhiệm vụ giải phóng phụ nữ với giải phóng giai

cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Người khẳng định trong chế độ xã
hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội phải thực sự quan tâm phụ nữ,
hỗ trợ, tạo điều kiện cho người phụ nữ phát huy tối đa tài năng, tiềm lực của mình;
đồng thời phụ nữ muốn tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc thực sự thì phải có ý chí, có

25


×