Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Bi kịch tình ái của nhân vật nữ trong truyền kỳ mạn lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.14 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
========

ĐỖ THỊ NGỌC

BI KỊCH TÌNH ÁI CỦA NHÂN VẬT NỮ
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
========

ĐỖ THỊ NGỌC

BI KỊCH TÌNH ÁI CỦA NHÂN VẬT NỮ
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: NGỮ VĂN
.

Giảng viên hướng dẫn: TS.Phạm Tuấn Vũ

Nghệ An 1- 2012




Lời cảm ơn
Trong q trình thực hiện khóa luận này tơi xin chân thành cảm ơn gia
đình, bạn bè, thầy cô đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi thực hiện khóa luận
này, và đặc biệt thầy giáo Phạm Tuấn Vũ đã tận tình hướng dẫ, giúp đỡ tơi
rất nhiều để hồn thành khóa luận này.

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................4
1.Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 4
2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .............................................................. 5
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
6. Cấu trúc của khóa luận …………………………………………………...4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ................................................. 7
1.1 Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục ............................................................. 7
1.1.1 Tiểu sử Nguyễn Dữ ................................................................................ 7
1.1.2 Sơ lược về thể loại truyền kì................................................................... 8
1.1.3 Giới thiệu sơ bộ về tác phẩm Truyền kì mạn lục ................................ 11
1.2 Khái niệm bi kịch ................................................................................... 14
CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA XÃ HỘI THẨM MĨ CỦA NHỮNG BI KỊCH
TÌNH ÁI........................................................................................................ 16
2.1. Thống kê, phân loại bi kịch tình ái của nhân vật nữ trong Truyền kì mạn
lục .................................................................................................................. 16
2.1.1. Thống kê .............................................................................................. 16

2.1.1.1 Bảng khảo sát..................................................................................... 16
2.1.2 Lí giải ................................................................................................... 17
2.2 Phê phán những thế lực tạo nên bi kịch. ................................................ 19
2.3 Ngợi ca tài sắc, bản lĩnh và khát vọng của người phụ nữ. ...................... 30
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BI KỊCH TÌNH ÁI CỦA
NHÂN VẬT NỮ ........................................................................................... 39
3.1 Kết hợp cái bình thường và cái kì lạ........................................................ 39
3.2 Sử dụng thủ pháp đối lập ......................................................................... 44
3.3 Kết hợp văn xuôi, văn vần và văn biền ngẫu. ......................................... 48
KẾT LUẬN .................................................................................................. 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 54

3


MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (nhà văn thế kỉ XVI) là đỉnh
cao của truyện truyền kì Việt Nam và là một trong những tác phẩm xuất sắc
của văn học Việt Nam trung đại, đánh dấu sự trưởng thành của văn học Việt
Nam trung đại, sự chuyển biến từ văn xuôi mang nặng tính chức năng sang
văn xi giàu tính nghệ thuật. Tác phẩm được Vũ Khâm Lân (thế kỉ XVIII)
đánh giá là “thiên cổ kì bút”, đã thành cơng ở nhiều phương diện. Một trong
những thành cơng đó là đã thể hiện chân thực và sâu sắc những nhân vật nữ
với số phận bi kịch. “Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, người
phụ nữ đã xuất hiện trong Truyền kì mạn lục với tất cả diện mạo, tâm tư, tình
cảm, nhu cầu, khát vọng với số phận của mình” [15; 118 - 119].
1.2 Trong xã hội phong kiến, thân phận người phụ nữ rất thấp kém và
bị lệ thuộc vào nam giới. Xã hội đó lại coi rẻ tình cảm của con người làm
cho đời sống tình ái của người phụ nữ lâm vào bi kịch. Nhiều truyện trong

tác phẩm đã phản ánh những bi kịch này một cách chân thực và sâu sắc với
quan điểm nhân văn. Nghiên cứu đề tài này có thêm cơ sở xác nhận giá trị
của Truyền kì mạn lục và những đóng góp của Nguyễn Dữ cho văn học Việt
Nam trung đại.
2. Lịch sử vấn đề
Ở phần này, chúng tôi điểm lại những ý kiến của người đi trước liên
quan đến những vấn đề trong đề tài nghiên cứu.
Trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập 2), Bùi Văn Nguyên cho rằng:
“Đọc Truyền kì mạn lục chúng ta cũng có thể đọc được bộ mặt của xã hội
thời xưa qua nhiều khía cạnh. Giá trị Truyền kì mạn lục khơng phải chỉ ở
chỗ đã tố cáo được bề mặt xã hội thời đó mà còn ở chỗ đã bước đầu phê
phán những ràng buộc của xã hội phong kiến đối với người phụ nữ”. [ 8;
256]. Tác giả khẳng định: “Chán ghét cảnh thối nát của quan trường, ông

4


(Nguyễn Dữ) mượn văn chương để vạch trần những xấu xa, những tội ác của
giai cấp thống trị, tố cáo những thói tệ đương thời và đồng thời cũng nói lên
được một phần nỗi đau đớn xót xa của những người bình thường đặc biệt là
người phụ nữ” [8 ; 26]
Trong bài Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ, Nguyễn Phạm Hùng cho rằng vấn đề người phụ nữ được
trình bày khá sâu sắc: “ Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục đã mở đầu một
cách đích thực khuynh hướng văn học nêu cao tinh thần dân tộc qua việc
ngợi ca, khẳng định con người, nhất là người phụ nữ bình thường bị vùi dập
nhưng vẫn sáng ngời phẩm chất cao quý ” [3 ; 114]
Chưa có một cơng trình nghiên cứu quy mơ nào về bi kịch tình ái của
người phụ nữ trong Truyền kì mạn lục và nghệ thuật thể hiện những bi kịch
này. Mặc dù vậy,những kết quả của cơng trình nghiên cứu trên vẫn là những

gợi ý quan trọng cho khóa luận này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những bi kịch tình ái của nhân vật nữ trong
Truyền kì mạn lục. Khóa luận đi vào tìm hiểu về những nguyên nhân tạo nên
bi kịch tình ái, đồng thời thấy được tác giả ngợi ca tài sắc, bản lĩnh, khát
vọng của người phụ nữ thể hiện trong các chuyện viết về bi kịch tình ái của
người phụ nữ. Bi kịch tình ái của nhân vật nữ có trong các truyện:
1. Chuyện người nghĩa phụ ở Khối Châu.
2. Chuyện cây gạo.
3. Chuyện kì ngộ ở trại Tây.
4. C huyện đối tụng ở Long cung.
5. Chuyện nghiệp oan của Đào thị.
6. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên.
7. Chuyện yêu quái ở Xương Giang.
8. Chuyện nàng Thúy Tiêu.

5


9. Chuyện người con gái Nam Xương.
10. Chuyện Lệ Nương.
Văn bản chúng tôi nghiên cứu nằm trong Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kì mạn lục do Phạm Tú Châu dịch, Trần Thị Băng Thanh giới thiệu
và chỉnh lí, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội,1997
4. Mục đích nghiên cứu
4.1 Khái quát được những kiểu bi kịch tình ái của nhân vật nữ trong
Truyền kì mạn lục.
4.2 Chỉ ra được những thủ pháp nghệ thuật chủ yếu được Nguyễn Dữ
sử dụng để thể hiện các bi kịch đó.
4.3 Khẳng định những đóng góp của Nguyễn Dữ cho văn học Việt

Nam trung đại ở phương diện thể hiện bi kịch tình ái của các nhân vật nữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Đặt nhân vật nữ của tác phẩm với những bi kịch tình ái trong đời
sống văn xi trung đại Việt Nam đang chịu ảnh hưởng nặng nề của nho
giáo Trung Hoa khắc nghiệt.
5.3 Luôn bám sát đặc trưng của truyện truyền kì là phản ánh cuộc sống
và con người có sử dụng yếu tố kì( kì lạ,kì diệu…). Cái kì ở đây vừa là thế
giới quan, vừa là thủ pháp nghệ thuật quan trọng.
5.3 Sử dụng các phương pháp nghiên cứu văn học: thống kê - phân loại, tổng
hợp - phân tích, so sánh.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi Mở đầu và Kết luận, khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Ý nghĩa xã hội thẩm mĩ của những bi kịch tình ái
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện bi kịch tình ái của nhân vật nữ

6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục
1.1.1 Tiểu sử Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (Hải Dương) nay
là thôn Đỗ Lâm, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện (Hải Dương). Ông là con
trai cả của Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng
Đức thứ 27 (1496) đời Lê Thánh Tông.
Lúc nhỏ, ông là người chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ơm lí
tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Ông đậu hương tiến (cử nhân), sau thi
Hội trúng tam trường và có ra làm tri huyện Thanh Tồn (nay là huyện Bình
Xun - Vĩnh Phúc) nhưng được một năm thì từ quan về ni dưỡng mẹ già.

Từ đó mấy năm dư khơng đặt chân đến nơi đơ hội. Ơng sáng tác để gửi gắm
ý tưởng của mình và đã hồn thành tác phẩm “thiên cổ kì bút” Truyền kì mạn
lục.
Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào bài Tựa
Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547)và
những ghi chép của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục: “Sau vì ngụy Mạc
cướp ngơi vua, ơng thề không ra làm quan, ở thôn quê dạy học trị, khơng
bao giờ để chân đến chốn thành thị”, theo Cơng dư tiệp kí của Vũ Phương
Đề thì Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) và là bạn
học với Phùng Khắc Khoan(1528-1613). Như vậy, có thể biết Nguyễn Dữ
sống vào khoảng đầu và giữa thế kỉ XVI - một thời kì lịch sử đầy biến động
của xã hội Việt Nam với những cuộc nội chiến đẫm máu, đẩy nhân dân vào
cảnh khốn cùng.
Tóm lại, căn cứ vào những tài liệu hiện cịn, có thể biết Nguyễn Dữ
thuộc dịng dõi khoa hoạn, từng dùi mài kinh sử, ôm ấp lí tưởng hành đạo, đã
đi thi và đã xuất sĩ. Về sau, có lẽ vì “đại thế bất an”, vì bất mãn với kẻ đương

7


quyền, hơn là phải “ni mẹ già,trịn đạo hiếu” mà Nguyễn Dữ lui về ẩn dật
và viết Truyền kì mạn lục để kí thác tâm sự, thể hiện hồi bão của mình.
1.1.2 Sơ lược về thể loại truyền kì
Truyện truyền kì là thể loại văn học chữ Hán có cội nguồn từ Trung
Quốc, du nhập vào nước ta. Tên gọi truyền kì bắt đầu từ tên tập truyện nhan
đề Truyền kì truyện của Bùi Hình đời Đường. Truyền kì thời Đường kế thừa
truyền thống chí quái thời Lục triều, tuy nhiên giữa hai loại tác phẩm này
cũng có sự khác biệt. Chí quái chủ yếu là ghi chép, nhân vật chính là thần
linh, ma qi, cịn ở truyện truyền kì, hư cấu là chủ yếu và nhân vật chính
là con người.

Truyện truyền kì đời Đường đạt đỉnh cao của thể loại. Truyện truyền kì
là một thể loại có tính chất quốc tế, được sử dụng trên một không gian rộng
lớn gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam trong hàng chục thế
kỉ.
Khơng thể cho rằng “truyền kì là những điều kì lạ vẫn được lưu
truyền” vì như vậy vơ hình trung biến các tác giả truyện truyền kì thành
người sưu tập đơn giản. Truyện truyền kì là truyện ngắn văn ngơn, có nội
dung thuật những câu chuyện kì lạ , chủ yếu do các văn nhân sáng tác ra,
trước đó khơng hề được lưu truyền. Việc trong truyện có niên đại, nhân vật
có tên tuổi, quê quán, hành trang cụ thể và gắn liền với sự kiện nào đó là
biện pháp để tăng tính chân thực của truyện. Từ Trung Quốc, truyện truyền
kì di thực khắp vùng văn minh chữ Hán rộng lớn.
Ở Việt Nam, khái niệm truyện truyền kì được hiểu theo những nghĩa
rộng hẹp khác nhau. Có nhà nghiên cứu xếp tất cả những tác phẩm văn xi
có yếu tố thần linh ma qi hoặc kì dị vào truyện truyền kì. Có người nêu
thêm tiêu chí hư cấu của nhà văn và cho rằng chỉ xếp vào truyện truyền kì
những truyện trong đó con người là nhân vật chính chứ khơng phải là thần
linh ma quỷ. Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Thánh Tông di

8


thảo là tác phẩm mở đầu cho truyện truyền kì ở nước ta, tuy nhiên không
phải cả 20 truyện trong tác phẩm mà chỉ có 10 truyện, hoặc theo ý kiến khác
là 13 truyện thuộc về thể loại này.
Nhìn chung, truyện truyền kì có một số đặc điểm cơ bản làm nên giá trị
của nó, đồng thời phân biệt với các thể loại khác.Đặc điểm lớn nhất, chi phối
các đặc điểm khác của truyện truyền kì là tính chất khác lạ của con người, sự
vật, hiện tượng được phản ánh, người xưa gọi đó là tính chất “kì” (kì diệu, kì
lạ, kì ảo, thần kì, quái dị), bởi đây là thể văn “phi kì bất truyền” (khơng kì lạ

thì khơng lưu truyền). Đây cũng là yếu tố chi phối sâu sắc đến việc triển khai
cốt truyện, xây dựng hình tượng nhân vật, thể hiện tư tưởng chủ đề của tác
giả. Nó xuất hiện như một tất yếu trong mạch vận động của cốt truyện, giúp
cho nhà văn có thể mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực và miêu tả đời sống
con người. Có rất nhiều thủ pháp để tạo ra cái “kì” mà tựu trung là xóa nhịa
những ranh giới mà người trước đó định ra, đảo ngược những tính chất của
sự vật, hiện tượng vẫn được hình dung theo lẽ phải thơng thường. Truyện
truyền kì xây dựng những thế giới khác ngoài thế giới hiện sinh của con
người như thượng giới (Từ Thức lấy vợ tiên), thủy cung (Người con gái Nam
Xương), âm phủ (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên)... Người ta có thể
sống bình thường ở các thế giới siêu thực đó, với những quan hệ được mơ
phỏng từ cõi trần.
Trong truyện truyền kì, con người có khả năng giao tiếp với thế giới
siêu nhiên thiên hình vạn trạng, phổ biến nhất là ma quỷ: “Các tác giả “quỷ
vật giả thác, dĩ tác hiếu kì” (lấy ma quỷ để gợi tính hiếu kì)”[13;53]. Lẽ tồn
tại của truyện truyền kì là chỗ đưa đến một bức tranh lạ về thế giới và con
người bằng sự hư cấu mạnh mẽ. Thế giới siêu nhiên là sự khúc xạ “thế giới
con người, nghĩa là có những giá trị liên kết hay thù địch với con người, làm
nên bức tranh cuộc sống đặc thù. Yếu tố kì trong truyện truyền kì đã tạo nên
cho câu chuyện một vẻ đẹp hư ảo, lạ kì , tạo nên sức hấp dẫn cho truyện, vì

9


vậy nó được coi là đặc trưng của thể loại truyền kì. Việc dùng yếu tố kì ảo để
truyền tải nội dung đã tạo nên sức sống của truyện truyền kì, giúp truyện
truyền kì có sức hút mãnh liệt với mọi lứa tuổi, mọi thế hệ.
Nho giáo đề cao chức năng giáo hóa của văn chương. Truyện truyền kì
thuộc các thể loại có thể “khuyến thiện trừng ác” (khuyến khích điều thiện,
ngăn cản điều ác). Truyện truyền kì có sức lơi cuốn độc giả do ở loại tác

phẩm này, trí tưởng tượng của con người được thỏa sức phát huy, ngôn từ
tác phẩm giàu chất nghệ thuật, xây dựng nhân vật chân thực.Trong bất cứ
truyện truyền kì nào cũng vậy, vừa có yếu tố thực, vừa có yếu tố siêu thực,
thiếu một trong hai loại thì sẽ khơng cịn là truyện truyền kì đích thực nữa.
Theo người xưa, yếu tố siêu thực là hư, trong truyện truyền kì, cái hư ln
thực hóa, cịn cái thực ln được hư hóa, cái hư được dựa trên cơ sở cái thực,
có mối liên hệ với một giá trị hiện thực nào đó, hư và thực biến đổi với nhau.
Trong truyện truyền kì khơng thể có sự đối lập rạch rịi giữa cõi hư và cõi
thực.
Trong truyện truyền kì có sự dung hợp của nhiều thể loại, ngồi văn
xi cịn có thơ, phú, văn tế, câu đối và phần nghị luận ở phía sau, nhằm thể
hiện thị hiếu thẩm mĩ cao của độc giả, và để cho nhân vật thể hiện bản thân
mình một cách thuận lợi nhất, ví dụ, để thể hiện thế giới nội tâm nhân vật,
các tác giả cho nhân vật làm thơ, phú, văn tế...Phân tích nhân vật truyện
truyền kì khơng thể coi nhẹ yếu tố nội tâm, vì đây là chỗ mà tác giả dụng
công, khác hẳn với các thể loại tự sự dân gian coi trọng sự kiện.
Về nghệ thuật, truyện truyền kì được viết bằng văn ngơn - một loại
phong cách ngôn ngữ khác xa phong cách ngơn ngữ sinh hoạt. Cốt truyện
của truyện truyền kì đa dạng và phức tạp hơn hẳn truyện dân gian và các thể
loại tự sự trước đó như chí qi, cổ văn, mặc dù nó ra đời trên cơ sở chí quái.
Cốt truyện của truyện truyền kì một mặt tạo nên hình tượng nhân vật khác

10


thường, mặt khác, tác giả cũng ý thức được đây là phương diện tạo nên giá
trị thẩm mĩ của tác phẩm.
Truyền kì là một thể loại văn học Trung Quốc di thực sang Việt Nam,
vì vậy tất yếu nó đã có sự biến đổi khi tồn tại trong một hệ thống thể loại
khác, phù hợp với truyền thống lịch sử, giá trị văn hóa - thẩm mĩ của người

Việt Nam. Ở nước ta, những truyện truyền kì hiện đã biết phần lớn được viết
bằng chữ Hán - thứ ngôn ngữ chuẩn mực của văn xuôi Việt Nam trung đại,
thuận lợi để dùng văn ngơn và sử dụng điển tích điển cố. Tuy nhiên, nó cũng
làm cho lời văn cầu kì , nặng nề, làm giảm bớt giá trị của truyện truyền kì.
Trong văn học Việt Nam, thế kỉ XV -XVI là giai đoạn đột khởi của thể
loại văn xuôi tự sự, được mệnh danh là thế kỉ của truyện truyền kì. Nguyễn
Dữ là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “truyền kì” để đặt tên cho tác phẩm
của mình. Truyền kì mạn lục của ơng trở thành cột mốc mở đường cho hàng
loạt các tác phẩm truyền kì hoặc mang hơi hướng truyền kì ra đời sau đó
như: Truyền kì tân phả (Đồn Thị Điểm), Cơng dư tiệp kí (Vũ Phương Đề),
Tân truyền kì (Phạm Q Thích)...
1.1.3 Giới thiệu sơ bộ về tác phẩm Truyền kì mạn lục
Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện, được chia thành 4 tập , mỗi tập gồm
5 truyện. Các truyện được viết bằng văn xuôi, xen lẫn văn biền ngẫu và thơ
ca. Trừ truyện số mười chín ( Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa), các truyện
cịn lại đều có lời bình của tác giả ở cuối mỗi truyện. Lời bình trong các
truyện Truyền kì mạn lục khơng bàn về văn chương nghệ thuật, mà chủ yếu
bàn về nội dung ý nghĩa.
“Truyền” ( lưu truyền ), “kì” ( kì lạ), “mạn” (tản mạn), “lục” ( ghi
chép). Đặt tên cho tập truyện là Truyền kì mạn lục, hình như Nguyễn Dữ
muốn biểu lộ thái độ khiêm tốn của người cần bút, thể hiện rằng trước tác
của mình khơng phải là tập sách nghiêm trang như thực lục, liệt truyện, mà
đây chỉ là một “ngoại thư” bao gồm những “truyện lạ”( truyền kì) vẫn được

11


lưu truyền ở đời. Và công việc của ông cũng chỉ là “ghi chép một cách rộng
rãi” ( mạn lục) những sự việc lạ ấy chứ không sáng tác. Nhưng căn cứ vào
tính chất của các truyện thì lại thấy rằng không phải Nguyễn Dữ chỉ “ chép

ra và truyền lại” những truyện cũ. Truyền kì mạn lục khơng phải là cơng
trình ghi chép mà có tính chất của một sáng tác văn học. Nguyễn Dữ đã dựa
vào những sự tích cũ phần nhiều là những truyện đã lưu hành từ lâu trong
dân gian để viết nên những thiên truyện mới. Truyền kì mạn lục, vì vậy, tuy
có vẻ là những “truyện kì lạ” xảy ra hàng trăm năm về trước nhưng thực chất
lại phản ánh được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời .
Những yếu tố siêu nhiên trong Truyền kì mạn lục có phần xa lạ với
truyền thống bất ngữ “quái, lực, loạn, thần” của nhà Nho. Để phục vụ cho
mục đích sáng tác của mình, Nguyễn Dữ đã không câu nệ, mà sử dụng yếu
tố ấy một cách có ý thức để bộc lộ tâm tư, thể hiện hồi bão, qua đó ơng có
thể phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về những vấn đề lớn của xã hội,
của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.
Về thời điểm ra đời của Truyền kì mạn lục, có nhiều ý kiến, nhưng đều
tập trung vào thế kỉ XVI, cụ thể là trước mốc 1547 - là năm Hà Thiện Hán
viết lời tựa cho tác phẩm. Có 3 mốc gần với 1547 hơn cả là 1509, 1527 và
những năm 30 của thế kỉ XVI. Theo Trần ích Nguyên, dựa vào niên hiệu
Đoan Khánh những năm cuối được nhắc trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim
Hoa (1509) thì “ Truyền kì mạn lục được Nguyễn Dữ viết trong khoảng thời
gian 1509-1547 là đáng tin cậy nhất”. Kết hợp với lời Hà Thiện Hán về biến
cố từ quan ở ẩn và Lê Quý Đôn về chuyện “ngụy Mạc cướp ngôi” mà
Nguyễn Dữ thề không ra làm quan nữa, Trần Ích Ngun ước đốn Truyền kì
mạn lục “ viết xong khoảng những năm 30 của thế kỉ 16”. Dựa vào kết quả
phân tích các phần “bổ” và “phụ truyền kì” ở Sơn cư tạp thuật, Nguyễn
Đăng Na xác nhận: Truyền kì mạn lục được Nguyễn Dữ sáng tác “sau 1527,
khi Mạc Đăng Dung đã cầm quyền thay nhà Lê.” [6; 211]. Đọc lại Truyền kì

12


mạn lục, trong phần cuối truyện thứ 19 Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa, khi

bàn đến thơ văn của bản triều có nhắc đến tên nhiều nhà thơ mà người mất
muộn nhất là Đàm Thận Huy (1526) - trước sự kiện nhà Mạc cướp ngôi một
năm (1527), như vậy “mạn lục chắc chắn phải xuất hiện trong khoảng sau
1526, trước 1547” [4; 55]
Ra đời trong thế kỉ XVI - khi mà nền phong kiến Việt Nam đang trên
đà suy vong, giai cấp cầm quyền thối nát, các cuộc nội chiến đẫm máu đẩy
nhân dân vào cảnh khốn cùng, nhưng Truyền kì mạn lục vẫn tốt lên tinh
thần dân tộc. Những cốt truyện, nhân vật, sự kiện đều gắn bó với nước Việt
mặc dù sử dụng nhiều chất liệu Trung Hoa. Nguyễn Dữ đã thể hiện trong tác
phẩm của mình quan niệm “địa linh nhân kiệt”. Nhân tài nước Việt không
chịu thua kém ai và văn hiến Đại Việt cũng khơng thua kém gì phương Bắc.
Bên cạnh việc phản ánh tinh thần dân tộc vốn là truyền thống của văn
học Việt Nam trung đại, Truyền kì mạn lục cịn phản ánh tình hình tư tưởng
của thời đại, khơng chỉ là Nho giáo mà có cả Phật giáo, Đạo giáo và đặc biệt
là văn hóa dân gian, thể hiện qua những thế giới siêu nhiên thần kì, những
nhân vật thần tiên, ma quỷ, những sự việc quái dị... Mặt tích cực của những
yếu tố ấy làm cho tác phẩm phản ánh một cách sinh động đời sống dân tộc,
tạo nên tính trữ tình và hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm, làm nội dung tác
phẩm thêm phong phú và đa dạng. Mặt tiêu cực là những tư tưởng mê tín dị
đoan, hoang đường cũng xuất hiện trong tác phẩm.
Mặc dù vậy, loại trừ những mặt tiêu cực thì Truyền kì mạn lục là một
tác phẩm có giá trị. Giá trị ấy là ở sức mạnh tố cáo những tệ nạn của xã hội
phong kiến, ở sự tin tưởng vào phẩm giá con người và ở tấm lịng thơng cảm
với nỗi khỗ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Giá trị ấy lại còn là ở những
thành tựu của thể loại tự sự nói riêng, của văn học hình tượng nói chung
trong kho tàng văn học viết bằng chữ Hán, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự
xuất hiện của các tác phẩm tự sự khác về sau: “nó tạo ra một mẫu mới cho

13



các sáng tác văn xuôi đến tận những năm đầu thế kỉ XX, tức là có ảnh hưởng
suốt hơn 3 thế kỉ” [4; 55]
Khi viết Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ có chịu ảnh hưởng từ những
câu chuyện đã được lưu truyền từ lâu trong dân gian, đặc biệt, các kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra ông chịu ảnh hưởng lớn từ tác phẩm Tiễn đăng tân
thoại của Cù Hựu. Tuy nhiên, Truyền kì mạn lục vẫn là sản phẩm sáng tạo
của nhà văn, mang đậm dấu ấn của ông, bởi nó thể hiện quan điểm, tư tưởng,
thái độ của ông với cuộc đời, đồng thời cho ta thấy rõ những sáng tạo, những
đóng góp mới của ơng cho nền văn học trung đại Việt Nam, nhất là trong
phương diện thể hiện những bi kịch tình ái của các nhân vật nữ.
1.2 Khái niệm bi kịch
“Bi kịch là một phạm trù mĩ học phản ánh một hiện tượng có tính quy
luật của thực tế đời sống xã hội thường diễn ra trong cuộc đấu tranh không
ngang sức giữa cái thiện với cái ác, cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái
phản động,… trong điều kiện những cái sau còn mạnh hơn những cái trước”
[2; 37]. Cái bi tạo ra một cảm xúc thẩm mĩ phức hợp bao hàm cả nỗi đau xót,
niềm hân hoan lẫn nỗi sợ hãi khủng khiếp. Cái bi thường đi liền với nỗi đau
và cái chết, song bản thân nỗi đau và cái chết chưa phải là cái bi. Chúng chỉ
trở thành cái bi khi hướng tới và khẳng định cái bất tử về mặt tinh thần của
con người. Cái bi, về bản chất là ca ngợi, khẳng định sự bất tử của con người
và phát hiện những phẩm chất cao đẹp, anh hùng của nó. Hê-ghen cho rằng,
trong bi kịch cái chết khơng chỉ là sự hủy diệt. Nó cịn có nghĩa là sự bảo tồn
dưới hình thức biến dạng cái mà trong hình thức có sẵn cần phải bị tiêu
vong. Ăng-ghen thì cho rằng cội nguồn của cái bi là “xung đột giữa địi hỏi
tất yếu về mặt lịch sử với tình trạng khơng thể thực hiện được nó trong thực
tiễn”.
Trong văn học – nghệ thuật, cái bi qua mỗi thời đại vừa không thay đổi ,
lại vừa dễ thay đổi. Ngày nay, cái bi được khám phá và thể hiện trên nhiều


14


khía cạnh và từ trong cội nguồn lịch sử - xã hội của nó. Ở đây, cái bất tử của
nhân vật được thể hiện trong cái bất tử của nhân dân, vì thế cái bi mang tính
chất lạc quan lịch sử.

15


CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA XÃ HỘI THẨM MĨ
CỦA NHỮNG BI KỊCH TÌNH ÁI
2.1. Thống kê, phân loại bi kịch tình ái của nhân vật nữ trong
Truyền kì mạn lục
2.1.1. Thống kê
2.1.1.1 Bảng khảo sát
Tên tác phẩm

STT

1

Nhân vật nữ gặp

Nguyên nhân

bi kịch tình ái

gây bi kịch


Chuyện người nghĩa phụ ở

Nhị Khanh

Khối Châu

Nam quyền

2

Chuyện cây gạo

Nhị Khanh

Nam quyền

3

Chuyện kì ngộ ở Trại Tây

Đào, Liễu

Nam quyền

Dương thị

Thần quyền

4


5
6
7
8
9
10

Chuyện đối tụng ở Long
cung
Chuyện nghiệp oan của Đào

Đào Hàn Than

thị

(Đào thị)

Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
Chuyện yêu quái ở Xương
Giang
Chuyện nàng Thúy Tiêu

Giáng Hương

Thần quyền

Thị Nghi

Cường quyền


Thúy Tiêu

Cường quyền

Chuyện người con gái Nam

Vũ Thị Thiết

Xương

(Vũ Nương)

Chuyện Lệ Nương

Lệ Nương

16

Cường quyền

Nam quyền
Ngoại xâm


2.1.1.2 Phân tích số liệu
Dựa vào kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi thấy kết quả sau đây:
10/20 truyện trong tác phẩm xuất hiện nhân vật nữ gặp bi kịch tình ái, chiếm
50% số truyện.
Trong 10 truyện xuất hiện 11 nhân vật nữ gặp bi kịch tình ái do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó:

5/11 nhân vật gặp bi kịch do nam quyền, chiếm 45,4%
2/11 nhân vật gặp bi kịch do thần quyền, chiếm 18,1%
1/11 nhân vật gặp bi kịch do ngoại xâm, chiếm 9%
3/11 nhân vật gặp bi kịch do cường quyền, chiếm 27,2%
Như vậy, trong Truyền kì mạn lục, số lượng nhân vật nữ có số phận bi
kịch trong tình ái là rất lớn và xuất hiện trong nhiều truyện của tác phẩm.
Những bi kịch ấy do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tựu trung lại đều
xuất phát từ tư tưởng phong kiến hà khắc, bóp nghẹt quyền sống của con
người, đặc biệt là người phụ nữ. Đây là một bước tiến mới, một cái nhìn mới
mẻ trong văn học Việt Nam trung đại.
Trước đó, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng
Nho giáo Trung Hoa, số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ rất rẻ mạt,
nhỏ nhoi, đời sống ái tình ít được nhắc tới, thì đến đây, Nguyễn Dữ lại
hướng ngịi bút của mình về những người phụ nữ với đời sống tình ái đầy bi
kịch, cho dù họ là dâu hiền vợ thảo hay là tinh vật, yêu ma, và thể hiện nó rất
đa dạng trong tác phẩm của mình.
2.1.2 Lí giải
Qua thống kê trên ta có thể thấy những nhân vật nữ với bi kịch tình ái
là đề tài của nhiều truyện trong tác phẩm Truyền kì mạn lục.
Ở văn học giai đoạn trước – chịu ảnh hưởng nằng nề của tư tưởng Nho
giáo Trung Hoa, người phụ nữ bị xã hội phong kiến coi thường, khinh rẻ,
hình tượng người phụ nữ rất hiếm khi xuất hiện, đến Truyền kì mạn lục, lần

17


đầu tiên, hình tượng người phụ nữ được đề cập một cách phong phú đa dạng
thông qua nhiều cảnh đời, nhiều số phận khác nhau, với những nhu cầu và
khát vọng rất bình thường trong cuộc đời.
Nguyễn Dữ sống trong một thời kì lịch sử đầy biến động, nội chiến liên

miên, đất nước loạn li, dân chúng điêu linh, cùng khổ, và Truyền kì mạn lục
đã ra đời trong hồn cảnh đó. Vì vậy mặc dù là những câu chuyện kì lạ viết
về người xưa nhưng nó phản ánh những vấn đề hiện thực sôi nổi, đau thương
của thời đại mà ông đang sống, từ những sa đọa của giai cấp thống trị đến
cuộc sống cùng cực của nhân dân, từ những suy thối của giáo lí Nho- Phật Đạo đến những suy đồi của đạo đức xã hội, đặc biệt là những bi kịch và khát
vọng của người phụ nữ. Nguyễn Dữ đã thấu hiểu được trong thời đại của
ông, những người phải chịu nhiều đớn đau, oan trái nhất của cuộc đời chính
là người phụ nữ và thể hiện một cách sâu sắc.
Nguyễn Dữ là một nhà Nho, trước hết, ông đặt người phụ nữ trong
khuôn khổ của xã hội dưới học thuyết Nho giáo. Giáo lí phong kiến khắc
nghiệt không cho phép người phụ nữ được tự do lựa chọn cuộc sống hạnh
phúc cho mình. Dưới chế độ phong kiến, cả đời họ bị trói buộc bởi cương
thường đạo lí nam nữ tơn ti, tứ đức tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử”, vấn đề lớn nhất trong cuộc đời họ là lựa chọn tình u,
hơn nhân thì họ cũng khơng được tự mình lựa chọn mà buộc phải theo sự sắp
đặt của người khác, cả cuộc đời người người phụ nữ đều bị buộc chặt vào
những người đàn ông, và rồi “cái thuyết tòng phu đã làm hại bao nhiêu bạn
quần thoa trong bao nhiêu thế kỉ” (Bùi Kỉ). Nhưng, chính những con người
khổ đau bé nhỏ ấy, trong đau đớn vùi dập vẫn bừng cháy khao khát khôn
nguôi về hạnh phúc, tình yêu và quyền được sống, xã hội phong kiến với
những luật lệ hà khắc của nó đã khơng cho phép những khao khát đó được
thực hiện, cũng vì thế mà đời sống ái tình của họ cuối cùng đều rơi vào bi
kịch. Cho dù là người phụ nữ sống theo khuôn phép đạo đức của thời đại hay

18


những người phụ nữ không cam chịu số phận mà ln đấu tranh để vươn lên,
để kiếm tìm hạnh phúc, nhưng càng vùng vẫy thì dường như lại càng chìm
sâu vào đau khổ. Truyền kì mạn lục dù chỉ là kể chuyện đời xưa, nhưng đó

khơng chỉ là âm vang q khứ mà cịn là tiếng nói của thời đại Nguyễn Dữ
đang sống, rằng “ở thời đại ông, không một người phụ nữ nào có hạnh phúc,
cho dù họ có ngoan ngỗn, thủy chung, làm trịn phận sự của người con,
người vợ, người mẹ như Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam
Xương, như Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, hay
phá phách như Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo,Đào Hàn Than trong
Chuyện nghiệp oan của Đào Thị... thì cái chết theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng là chung cục cho mọi kiếp đàn bà” [7; 21].
2.2 Phê phán những thế lực tạo nên bi kịch
Nguyễn Dữ là một nhà Nho, vì vậy, viết Truyền kì mạn lục ông vẫn
theo quan điểm của một nhà Nho khi xây dựng nhân vật người phụ nữ theo
khuôn phép của Nho gia như Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam
Xương), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Dương thị
(Chuyện đối tụng ở Long cung), Lệ Nương (Chuyện Lệ Nương) - những
người phụ nữ chịu bao đắng cay, vùi dập vẫn sáng ngời lòng vị tha, đức hi
sinh cao cả. Những con người tốt đẹp đáng trân trọng đó dường như không
sinh ra để hưởng hạnh phúc mà là để chịu đựng mọi khổ đau của cuộc đời,
tất cả đều rơi vào bi kịch khơng lối thốt.
Khi viết Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ có chịu ảnh hưởng rất lớn từ
tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, nhất là khi viết về bi kịch tình ái
của người phụ nữ, nhưng người phụ nữ trong Tiễn đăng tân thoại không phải
chịu quá nhiều đau khổ như trong Truyền kì mạn lục, ít ra cuối cùng những
đơi tình nhân vẫn được tái hợp, khơng ở kiếp này thì trong kiếp sau để thỏa
nguyện khát khao hạnh phúc. Truyền kì mạn lục khơng nhiều những kết thúc
có hậu như thế, trừ Thúy Tiêu (Chuyện nàng Thúy Tiêu), Dương thị (Chuyện

19


đối tụng ở Long cung) là được đồn viên, cịn lại, cái chết thảm khốc đã đuổi

theo số phận của hầu hết những người phụ nữ trong tác phẩm.
Có thể nói, người phụ nữ trong Truyền kì mạn lục phải chịu mấy tầng
áp bức của xã hội phong kiến: thần quyền, cường quyền, vương quyền,
nhưng nặng nề nhất, trực tiếp và khắc nghiệt nhất chính là tư tưởng nam
quyền độc đốn, được ni dưỡng bởi những giáo lí Nho gia tàn nhẫn và bất
cơng với người phụ nữ. Chính tư tưởng này đã đẩy biết bao người phụ nữ
vào bi kịch, khổ đau trên con đường tình ái.
Nàng Nhị Khanh( Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) giống như
bao người phụ nữ, khao khát một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, hòa thuận,
yên ấm. Từ thủa còn thơ, nàng cùng Trọng Quỳ - gái sắc trai tài thường gặp
gỡ nhau và nảy sinh tình ý, được gia đình chấp thuận cho nên duyên vợ
chồng, ăn ở với nhau vui vẻ. Hạnh phúc bắt đầu gặp sóng gió khi cha Trọng
Quỳ vì tính ngay thẳng mà bị bọn nịnh thần ghen ghét, đẩy vào nơi tử địa,
Trọng Quỳ phải đi theo cha, vợ chồng tạm thời li biệt. Nhị Khanh ở nhà, cha
mẹ nàng nối nhau qua đời, phải đến nương nhờ bà cơ là Lưu thị, khơng ngờ
Lưu thị vì ham bạc tiền mà có ý ép nàng làm vợ người khác. Nhờ người bõ
già, mà nàng được cùng Trọng Quỳ đoàn tụ, giữ trọn đạo với chồng. Những
tưởng từ đó, cuộc đời nàng sẽ trở lại ấm êm, hạnh phúc, vợ chồng sum họp,
yêu thương nhau để bù lại những ngày xa cách. Ngờ đâu, sóng gió lần sau lại
lớn hơn lần trước, đưa vợ chồng nàng vào cảnh vĩnh viễn biệt li, mà nguyên
nhân lại chính bởi Trọng Quỳ- người chồng mà nàng thương yêu, chung thủy
hết mực. Trọng Quỳ ham cờ bạc, quen tính chơi bời lêu lổng, đã nhẫn tâm
đem người vợ tao khang, tình nghĩa, nết na hết mực của mình ra làm vật gán
nợ trong một canh bạc với tên lái buôn Đỗ Tam. Hành động vơ nhân tính của
gã đã đẩy Nhị Khanh vào sự tuyệt vọng. Để giữ trọn lòng trinh bạch của
người phụ nữ, nàng tìm đến cái chết. Trong xã hội cũ, một người con gái có
nhan sắc, sống nhờ nhà người , chờ chồng trên sáu năm mà vẫn giữ giá trong

20



tiết sạch thật khơng dễ dàng. Nhưng Nhị Khanh có thể chờ chồng trong cảnh
“bơ vơ trơ trọi”, giữa những lời “trăng gió cợt trêu” chứ khơng thể chịu nổi
một lần sự phụ bạc của người chồng.
Không phải một thế lực cường quyền bá đạo nào, mà chính người
chồng đầu gối tay ấp là người đã đẩy Nhị Khanh vào bi kịch khơng lối thốt
một cách tàn nhẫn. Đó là hậu quả của tư tưởng nam quyền trong xã hội xưa,
người vợ ln phải theo chồng, và người chồng có mọi quyền hạn đối với vợ
mình. Vì vậy mà Trọng Quỳ có thể đem người vợ nết na chung thủy của
mình ra để làm vật đánh cược thay tiền đánh bạc, và khi thua bạc thì thản
nhiên gán nàng cho người khác để chuộc nợ, khiến nàng phải chết để giữ
trọn danh tiết.
Giống như Nhị Khanh, Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương)
cũng là một người phụ nữ nết na, chung thủy, được Trương sinh yêu mến
cưới về làm vợ, sống cuộc sống êm đềm, hạnh phúc bên chồng. Cuộc chiến
tranh xảy ra là sự kiện mở đầu cho hàng loạt biến cố trong cuộc đời Vũ
Nương: chồng đi lính, mẹ chồng chết, đến khi người chồng trở về, nàng bị
chồng nghi oan, phải tìm đến cái chết oan khốc để minh oan cho mình, để tỏ
rõ tấm lịng trinh bạch. Những năm tháng chờ chồng, Vũ Nương thường chỉ
bóng mình in trên vách tường và nói với con đấy là cha nó để khỏa lấp nỗi
nhớ thương chồng. Khi Trương sinh về, đứa bé ngây thơ không chịu nhận
chàng là cha nó mà nói cha là người khác và đêm nào cũng đến chơi. Thế là
với bản tính hay ghen, Trương tin lời đứa bé ngây thơ, cho là vợ hư, mắng
chửi và hắt hủi nàng, đánh đuổi nàng đi, bỏ ngoài tai mọi lời bênh vực cho
nàng. Không cởi được mối nghi ngờ của Trương sinh, Vũ Nương đành chọn
cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Nàng nhảy xuống sơng
Hồng Giang tự vẫn. Có người có thể sẽ hiểu rằng bi kịch cuộc đời Vũ
Nương là do chiến tranh gây nên, chính cuộc chiến tranh đã chia rẽ gia đình
Vũ Nương, gây nên sự hiểu nhầm tai hại của Trương sinh, đẩy Vũ Nương


21


đến cái chết oan khiên. Nhưng tìm hiểu sâu xa hơn, ta sẽ thấy được nguyên
nhân trực tiếp làm tan vỡ hạnh phúc nhỏ nhoi của Vũ Nương không phải là
chiến tranh, bởi nàng đã có thể chờ đợi Trương sinh bao lâu cũng được, mà
nguyên nhân sâu xa ở đây là do nam quyền trong xã hội phong kiến. Nàng là
nạn nhân của người chồng dốt nát, ngu muội, cả ghen và độc đốn. Vũ
Nương khơng có lỗi, đứa trẻ ngây thơ cũng khơng có lỗi, và cái bóng cũng
chỉ là ngun cớ, nó khơng tất yếu sinh ra hiểu lầm và bi kịch. Nó chỉ đưa
đến cái chết oan khiên của Vũ Nương theo cách lí giải của Trương sinh.
Ngay từ đầu truyện, Nguyễn Dữ đã không ngừng làm nổi rõ tính cách độc
đốn, nhỏ nhen của Trương “Trương có tính hay ghen, đối với vợ phịng
ngừa q sức”, và chính sự ghen tng q quắt lấn át lí trí ấy đã làm cho
người vợ cùng đường phải tự kết thúc đời mình. Chi tiết này đã lí giải cho
phản ứng có vẻ dịu dàng mà thực ra rất quyết liệt của Vũ Nương ở cuối
truyện: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa”. Đặt
nhân vật trong mối quan hệ với đặc trưng của truyện truyền kì, việc vượt qua
ranh giới hai cõi sống chết là rất dễ dàng, Vũ Nương hoàn toàn có thể lựa
chọn trở về tiếp tục sống bên chồng con (giống như nhân vật Phan lang
trong cùng truyện này), nhưng nàng đã từ chối. Phản ứng này của Vũ Nương
đã thể hiện sự tố cáo sâu sắc hiện thực thối nát đương thời. Nguyễn Dữ đã để
cho Vũ Nương ở lại mãi mãi nơi làng mây cung nước, bởi với bản tính của
Trương sinh, và với sức mạnh nam quyền độc đốn trong xã hội ấy cho dù
nàng có trở về, thì sẽ có một ngày bi kịch thảm khốc của đời nàng lặp lại mà
thơi. Tính đa nghi của Trương sinh đã không gây hậu quả như thế nếu như
nó khơng được ni dưỡng trong một xã hội mà người phụ nữ ln phải
nhận phần thiệt về mình. Cái chết của Vũ Nương vừa là số phận, vừa là lời tố
cáo sâu sắc những luật lệ phong kiến hà khắc đã nuôi dưỡng, dung túng cho
sự độc ác, bất cơng của chế độ nam quyền, sự độc đốn của người đàn ông

trong xã hội, đẩy người phụ nữ vào bi kịch, đau khổ.

22


Cả Vũ Nương và Nhị Khanh, những người phụ nữ mẫu mực theo
truyền thống đều khơng đành lịng dứt tình với chốn nhân gian, với người
chồng thương yêu - cho dù họ đã bị phụ bạc, bị chính những người đó đẩy
vào cái chết oan khiên thảm khốc. Chính vì vậy, dù đã chết oan, họ vẫn còn
trở lại dương gian để gặp lại người thương trong giây lát, trong khói sương
mờ ảo, hay trong một giấc mộng ngắn ngủi rồi mới dứt tình đi về cõi hư vơ.
Kết truyện, họ đều được giải oan và được người đời tôn vinh, lập miếu để
thờ. Những kết thúc mang tính có hậu này chính là sự thể hiện chiều sâu
nhân văn của tác phẩm, nhưng đồng thời nó cũng thể hiện rõ nhất những bi
kịch trong thời đại của Nguyễn Dữ: cho dù người phụ nữ có sống tốt đẹp đến
đâu thì họ cũng khơng được hạnh phúc. Hạnh phúc của họ nếu có thì cũng
ngắn ngủi và dễ vỡ, thế giới âm dương vẫn cách biệt mn trùng. Đó cũng là
lời tố cáo đanh thép đối với nam quyền phong kiến, sự ghen tng, sự ích kỉ
hồ đồ, vũ phu của người đàn ông, mà trên hết là tố cáo luật lệ của xã hội
phong kiến đã dung túng cho sự độc ác, hủ bại, chà đạp lên quyền sống con
người, trước hết là những người phụ nữ.
Trong hoàn cảnh xã hội mà Nguyễn Dữ đang sống, sự suy đồi đạo đức
cịn gắn với sự suy thối của những giáo lí tư tưởng Nho - Phật - Đạo, vốn là
những tư tưởng được trọng vọng trong xã hội phong kiến, thần quyền là thế
lực bảo vệ cho con người, được người đời tơn kính, vậy mà giờ đây cũng trở
thành thế lực ngăn trở hạnh phúc của con người, đẩy con người mà trước hết
là những người phụ nữ vào bi kịch khổ đau.
Trong Chuyện đối tụng ở Long cung, Dương thị cùng chồng là Trịnh
thái thú vốn có một cuộc sống êm ấm, vợ chồng tâm đầu ý hợp. Chỉ vì
Dương thị lọt vào mắt thần sơng mà cuộc sống của vợ chồng nàng gặp sóng

gió, nàng bị bắt cóc và bị đưa về nơi làng mây cung nước, làm vợ thần
thuồng luồng, vợ chồng phải phân li. Đây là một trong hai truyện viết về bi
kịch tình ái có kết thúc có hậu khi cuối cùng, nhờ sự công minh của Quảng

23


Lợi vương mà vợ chồng nàng được đoàn tụ, trở về sống hạnh phúc bên nhau,
nhưng tiếng nhơ nhớp trong ba năm cách biệt thì có lẽ khơng thể nào xóa bỏ
được, và nó chính là tiếng nói tố cáo với thế lực thần quyền đã gây nên đau
khổ cho con người.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kì mạn lục như một dấu gạch
nối gữa cõi tiên và đời thực, đẹp đẽ như mối tình của Từ Thức và nàng tiên
Giáng Hương nơi Bồng Lai tiên cảnh. Giáng Hương là một tiên nữ nhưng
nàng tự nhận mình là: “bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía
nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục”. Nàng
đã cùng Từ Thức trải qua một mối tình tuyệt đẹp, cùng dạo chơi tiên cảnh và
tán thưởng cuộc đời trần thế mà cả hai người còn vương vấn. Vậy nhưng kết
cục phân li cuối cùng vẫn chờ đợi họ, bởi tình dẫu đậm sâu nhưng tiên phàm
khác biệt, cõi thần tiên không thể dung nạp tấm lịng trần thế. Tình u giáng
Hương - Từ Thức là một tình yêu tự do vượt qua lễ giáo. Nó xa lạ với khn
mẫu phong kiến chính thống nên cuối cùng không thể tồn tại được.
Nho - Phật -Đạo đã có thời kì hồng kim trong lịch sử dân tộc bởi giáo
lí của nó là những khn mẫu, mực thước giữ gìn đạo đức của con người,
phục vụ cho cuộc sống con người, đem lại cho con người sự thanh thản và
hướng con người đến những điều tốt đẹp. Nhưng đến thời đại của Nguyễn
Dữ, những giáo lí này đều đã mất đi ý nghĩa tốt đẹp ban đầu của nó, đã trở
thành cơng cụ trong tay triều đình phong kiến để chèn ép, bóc lột nhân dân,
bọn thống trị đã ngang nhiên dựa vào sức mạnh của thần quyền để thỏa mãn
lịng tham vơ đáy, rẽ thúy chia uyên, đẩy người phụ nữ vào bi kịch, đau khổ.

Trong Truyền kì mạn lục, nỗi đau khổ, bi kịch tình ái của người phụ nữ
thật mn hình mn vẻ, có người vì nam quyền phong kiến mà phải chịu
cảnh oan khuất, chia lìa như Vũ Nương(Chuyện người con gái Nam Xương),
Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), có người vì thần
quyền ngăn trở mà đơi lứa phân li, và cũng có người vì chiến tranh mà tình

24


×