Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Phòng trừ phi hoá chất chuột hại trong ruộng lúa nước pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.91 MB, 8 trang )



Hợp tác Nghiên cứu vì Mục tiêu Phát triển RN 26 9/01
-------------------------------------------------------------------------


BẢN TIN NGHIÊN CỨU


Phòng trừ phi hoá chất chuột
hại trong ruộng lúa nước



















Sử dụng Bẫy cây


trồng cộng đồng

Gặm nhấm là loài dòch hại
chính trong sản xuất nông
nghiệp ta nhiều nước
trong khu vực Đông nam
Á.
ïi
i
l
Thiệt hại do chúng gây ra
trước thu hoạch đang
ngày càng gia tăng tại các
vùng canh tác lúa đồng
thời với việc thâm canh
tăng vụ, đa dạng cây
trồng và thu ngắn thời
gian đồng ruộng bò để
trống. Biện pháp sử dụng
bẫy cây trồng cộng đồng
được mô tả trong tài l ệu
này là một phương pháp
vừa hiệu quả vừa an toàn
cho môi trường dùng để
phòng trừ hai trong số các
oài chuột hại chính đối
với vùng trồng lúa nước











Các bản tin nghiên cứu của
ACIAR tổng hợp các kết quả
và lợi ích thu được từ những
Dự án điển hình của ACIAR.
Mục tiêu là đảm bảo khả năng
có thể ứng dụng rộng rãi nhất
các kết quả đó. Chúng tôi
khuyến khích các cơ quan
nghiên cứu và khuyến nông
sao chép lại hoặc dòch toàn bộ
hay bất kỳ một phần nào đó
được coi là hữu ích trong thực
tế sản xuất.
1










Chuột hại là
một vấn đề
kinh niên đối
với nông dân
trồng lúa
trong khu vực
Đông Nam ,
gây tổn thất
nặng nề




















Chuột hại trên ruộng lúa

Các loài chuột hại là một nhân tố quan
trọng trong hệ sinh thái nông nghiệp lúa
nước tại nhiều vùng trong khu vực Đông
Nam . Ở nhiều nơi có thể có một số loài
khác nhau cùng chung sống xung quanh
ruộng lúa. Những loài gây hại tại các giai
đoạn sinh trưởng của cây lúa như gieo hạt,
đẻ nhánh, làm đòng được xếp vào nhóm
"gặm nhấm gây hại". Tuy nhiên cũng có
những loài có thể ăn động vật không xương
sống và cây cỏ trên cánh đồng và thường
không gây hại thậm trí còn có ích cho sản
xuất.
Tỉ lệ thiệt hại do chuột gây ra ở hệ thống
canh tác lúa cá thể theo kiểu truyền thống
là từ 5 – 10% một năm. Trong vài thập kỷ
qua, con số này đã tăng lên một cách đáng
kể, dễ nhận thấy nhất là tại các vùng luân
canh cao. Ngày nay không có gì là ngạc
nhiên khi nông dân báo cáo thiệt hại hàng
năm ở mức từ 15 - 30%, một số nơi thiệt
hại lên đến mức 50 - 100%. Tại nhiều vùng,
người nông dân đành bỏ gieo trồng một số
vụ nhất đònh vì đã tính trước mức độ thiệt
hại do chuột gây ra. Những vụ bỏ không
trồng do đã dự đoán được kết quả kiểu này
hiếm khi được tính gộp vào tổng thiệt hại
về năng suất do chuột gây ra.
Nhiều nông dân và các cơ quan khuyến
nông đã chuyển qua sử dụng giải pháp

dùng hóa chất, bao gồm thuốc độc liều cao,
thuốc chống đông máu và các thuốc sinh
học. Các biện pháp phòng trừ này rất tốn
kém và nếu sử dụng không đúng qui cách
đôi khi tiêu diệt cả các loài động vật khác
và gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con
người và môi trường.







Các ruộng lúa này đã bò chuột phá hại nặng nề, tập trung chính tại phần giữa ruộng.
Biện pháp sử dụng bẫy cây trồng (cTBS)
đã được áp dụng như một biện pháp phi
hóa chất diệt trừ chuột hại tại các vùng
trồng lúa nước. Biện pháp này đã được
thử nghiệm và xác nhận là rất hiệu quả
trong việc giảm bớt thiệt hại do chuột gây
ra trong hệ thống canh tác lúa nước ở
Indonesia và Việt nam.

Các loài chuột hại chính
Loài chuột gây tổn thất lớn nhất trong hầu
hết các vùng của khu vực Đông Nam Á là
loài chuột đồng lớn Rattus argentiventer.













Chuột đồng lớn, loài chuột hại gây tổn thất lớn nhất cho
sản xuất nông nghiệp ở khu vực Đông Nam Á.

Tại Thái lan và Việt nam và có thể phía
nam Lào và Campuchia loài chuột đồng
lớn này thường sống chung với loài chuột
đồng nhỏ Rattus losea. Hai loài này
thường làm tổ xung quanh ruộng lúa trên
các bờ mương chính.

Thường không gặp hai loài này xuất hiện
tại miền bắc Lào, miền trung và bắc
Philippines (tuy nhiên có thể bắt gặp loài
chuột đồng lớn R. argentiventer ở các đảo
Mindoro và Mindanao). Tại các vùng
này, các thành viên của loài chuột nhà
Rattus rattus là loài gây hại chính cho sản
xuất nông nghiệp. Các loài chuột gây hại
khác bao gồm chuột Thái Bình Dương
(Rattus exulans), chuột cống (Rattus

norvegicus), các loài chuột nhắt và chuột
đất (Bangdicoot)
2
Rào cản và Hệ thống bẫy rào cản
Nhiều biện pháp vật lý đã được nông dân áp
dụng từ mức độ đơn giản như sử dụng hàng rào
nylon nhằm đổi hướng chuột tới ruộng cây trồng
tới sử dụng hệ thống rào khép kín, thông thường
được dựng lên xung quanh các nhà kho. Những
Hệ thống rào cản này đôi khi được kết hợp với
bẫy hoặc lưới đặt tại các lỗ mở cửa của hàng rào
và từ đó khái niệm Bẫy rào cản hay TBS ra đời.
Ông Lam Yuet Minh thuộc Viện Nghiên Cứu Và
Phát Triển Nông Nghiệp Malaysia đã phát kiến
bẫy rào cản trong phòng trừ trên ruộng lúa nước.
Trong 5 năm qua, với sự giúp đỡ của ACIAR,
sáng kiến của ông Lam đã được đúc kết lại và
thử nghiệm tại nhiều điểm thí nghiệm tại
Indonesia và Việt nam. Những cải tiến chính bao
gồm:
1. Kết hợp bẫy và cây mồi nhằm thu hút chuột
tới ruộng làm bẫy.
2. Giảm bớt các chi phí lắp đặt và duy trì bẫy.
3. Sử dụng biện pháp bẫy cây trồng làm cơ sở
trong biện pháp tổng hợp và ứng dụng trong
cộng đồng nhằm phòng trừ chuột hại.
Kết quả của việc ứng dụng bẫy cây trồng cộng
đồng sẽ phát huy cao nhất và tiết kiệm chi phí
nhất khi nó được áp dụng bởi toàn bộ cộng đồng
người nông dân.


Phương thức hoạt động của một bẫy
cây trồng
Cấu thành cơ bản của một Bẫy cây trồng là một
hệ thống hàng rào quây xung quanh một thửa
ruộng có kích thước khoảng 20 x 50 mét và bên
trong có cây bẫy. Một rãnh nước nhỏ bao quanh
dẫn chuột tới một hướng nhất đònh là cửa vào và
tại các cửa có đặt các bẫy lồng hom. Chuột có
thể chui vào bẫy liên tục với số lượng lớn. Cây
làm bẫy hiện tại được chứng minh tốt nhất là cây
lúa và ruộng làm bẫy được gieo sớm hơn với các
ruộng xung quanh từ 2-3 tuần. Vai trò của ruộng
cây bẫy là thu hút chuột ở các ruộng xung quanh
tới bẫy cây trồng (cTBS). Tác dụng bảo vệ của
bẫy theo đường vòng tròn bao quanh ruộng bẫy.
Kết quả từ các ruộng thí nghiệm cho thấy phạm
vi bảo vệ đường tròn này có thể mở rộng tới bán
kính 200 mét theo các hướng, phụ thuộc vào vò
trí của bẫy cây trồng và đặc điểm vò trí của bờ
kênh mương và khu dân cư.



























Một bẫy lồng hom và hom của lồng được thiết kế đúng qui cách - nó cho
phép chuột vào nhưng không ra được.


















Nếu chọn đúng vò trí, một số lượng nhỏ bẫy cây trồng có thể bảo vệ cho một
diện tích cây trồng lớn. Chú ý là phạm vi bảo vệ của các bẫy đan xen với
nhau và đó có thể là nơi cư trú của chuột như bờ mương lớn và xung quanh
làng.

3
Một bẫy cây trồng có thể bảo vệ được
cho khoảng 10-15 hécta lúa. Nếu diện
tích gieo trồng lớn hơn 10 hécta thì chúng
ta cần ít nhất là 2 bẫy cây trồng. Lý do là
chuột có thể di chuyển xa hàng trăm mét
để tìm kiếm thức ăn và sẽ tiếp tục xâm
hại đến các vùng trong phạm vi bảo vệ từ
các vùng lân cận.

Sinh học sinh sản và di chuyển
của chuột đồng.
Bẫy cây trồng sử dụng trong phòng trừ
chuột dựa trên mối quan hệ giữa sinh học
sinh sản của hai loài chuột đồng với thời
vụ gieo trồng của cây lúa.
Khả năng sinh sản của chuột tăng gấp ba
lần ở giai đoạn cây lúa trưởng thành.
Chuột cái bắt đầu mang thai khoảng 1

đến 2 tuần trước khi kết thúc giai đoạn
lúa đẻ nhánh. Thời gian mang thai ngắn
khoảng 3 tuần, sau đó đẻ khoảng 18 con
(trung bình 11-12 con). Chuột con phát
triển nhanh và có khả năng sinh sản sau
khoảng 6 tuần tuổi. Chuột cái trưởng
thành có khả năng thụ thai vài ngày sau
khi đẻ, do vậy mà chúng có thể sinh sản
khoảng 3 lứa trong một vụ lúa và trung
bình một chuột cái có thể đẻ được khoảng
30 đến 40 chuột con. Mùa sinh sản của
chuột có liên quan đến việc luân canh
của cây trồng trên đồng ruộng. Nếu chỉ
có một vụ lúa thì chuột chỉ có một mùa
sinh sản và nếu hai vụ lúa thì chúng có
hai mùa sinh sản.
Sau khi thu hoạch, chuột ăn tất cả mọi thứ
và các hạt ngũ cốc rơi vãi. Khi mà thức
ăn kạn kiệt chúng sẽ tập trung tại các
ruộng lân cận để tìm thức ăn. Nếu như
các ruộng này cũng thu hoạch cùng lúc
thì lúc này chúng sẽ bò chết đói hay di
chuyển đến các sinh cảnh khác không
phải trên đồng ruộng. Việc di chuyển này
là cơ hội cho kẻ thù tự nhiên
của chuột tiếp cận chúng dễ dàng và
đây cũng là một nguyên nhân làm giảm
mật độ quần thể của chuột.
Nói chung, việc kéo dài thêm giai đoạn
cho đất nghỉ kết hợp với các hoạt động

diệt trừ chuột tại các sinh cảnh khác
vào thời điểm làm đất sẽ làm giảm
đáng kể mật độ quần thể của chuột
trong vùng. Thời điểm nước lụt, như tại
các vùng đồng bằng lớn cũng có thể là
nguyên nhân làm số lượng quần thể
chuột giảm mạnh do thiếu thức ăn và
nơi trú ẩn.
Khi thời vụ thu hoạch kéo dài từ một
đến 2 tuần ở những vùng canh tác một
vụ, quần thể chuột sẽ di chuyển từ khu
ruộng này sang khu ruộng khác và là
nguyên nhân gây lại lớn cho các ruộng
thu hoạch muộn. Tình hình trở nên tồi
tệ hơn vì những con chuột được sinh vào
đầu vụ lúa đã đủ trưởng thành để có thể
sinh sản trước khi vụ thu hoạch kết thúc.
Điều này đã làm bùng nổ số lượng
chuột, không những một chuột mẹ có
thể sinh được 30-40 chuột con mà nó và
con cháu của nó còn có thể sinh được
100-120 chuột con.

Tại sao bẫy cây trồng cộng
đồng hoạt động theo phương
thức như vậy
Bẫy cây trồng cộng đồng có chức năng
là tiêu diệt các con cái trong chủng
quần trước và trong mùa sinh sản. Nó
làm giảm chỉ số tăng trưởng của quần

thể chuột. Mỗi một chuột cái bò diệt
được trước khi sinh sản lứa đầu có nghóa
là chúng ta đã diệt được 30-40 con
chuột tương đương ở thời điểm thu
hoạch.
Một bẫy cây trồng cộng đồng thành
công là có thể bắt được số lượng chuột
như nhau ở các giai đoạn phát triển của
cây lúa cho tới giai đoạn đông sữa sau
đó số lượng bắt được sẽ giảm đi.



















Thời gian thu

hoạch lúa kéo dài
khoảng hơn 2
tuần cũng là bắt
đầu thời kỳ sinh
sản của các con
chuột trẻ và số
lượng chuột sẽ
tăng nhanh một
cách đáng sợ


















4









Bảng tóm tắt số lượng chuột bắt được của một bẫy cây trồng có hiệu quả tương ứng với các giai đoạn phát triển của
lúa và mùa sinh sản của chuột đồng.
·
·
·
·
·
·
·
·
·
·
·
·
·
Sử dụng cọc và dây để dựng hàng
rào xung quanh khoảng ruộng đó,
chân hàng rào được chôn sâu 10
cm dưới mặt ruộng và chiều cao
của hàng rào tính từ mặt ruộng là
60 cm
Đào một rãnh xung quanh hàng rào
với bề rộng rãnh hẹp nhất là 50
cm.

Mỗi chiều của ruộng bẫy cây trồng
đặt ít nhất hai bẫy lồng hom (cửa
lồng buộc khít với hàng rào, tránh
để khe hay lỗ tại cửa lồng mà
chuột có thể lách vào ruộng)
Đắp một bờ đất xuyên qua mương
nối bờ ruộng với cửa lồng
Đặt các bẫy kẹp xung quanh hàng
rào phía bên trong để diệt những
con chuột đã qua rào vào trong bẫy
cây trồng.
Ruộng cây bẫy được gieo trồng
sớm hơn so với các ruộng xung
quanh từ 2 đến 3 tuần








































Ruộng bẫy cây trồng cộng
đồng đang được lắp đặt,
chân hàng rào phải được
chôn sâu 10 cm để tránh
chuột đào chui qua hàng
rào.










Một bẫy cây trồng bắt được một số lượng
chuột lớn về cuối vụ có thể là do không
hiệu quả ở đầu chu kỳ, có thể là do bẫy
cây trồng được làm và bảo trì sai quy cách
hoặc có thể là do bẫy được làm tại nơi gần
các sinh cảnh khác không phải là cây lúa,
gần làng mà tại đó số lượng chuột chưa bò
diệt trừ bằng các phương pháp bổ xung
khác (xem “các cách phòng trừ khác”).

Cách làm và bảo trì một bẫy
cây trồng
Bẫy cây trồng cộng đồng được làm từ các
nguyên vật liệu sẵn có và kỹ thuật đơn
giản. Tuy nhiên để nó phát huy hiệu quả
tối đa cần phải tuân thủ các qui cách kỹ
thuật sau:
Vật liệu làm bẫy:
Ny lon làm hàng rào (phải bằng
nguyên liệu dai, chắc chắn, chòu được
va chạm mạnh, chòu được gió mạnh và
bền chắc để có thể sử dụng được trong

vài vụ).
Cọc tre hoặc gỗ để dựng hàng rào và
buộc bẫy lồng.
Dây căng và thép buộc đảm bảo hàng
rào luôn thẳng đứng.
Dây ny lon hay vải để buộc hàng rào
với dây căng.
Bẫy lồng hom và bẫy kẹp để trong
ruộng cây bẫy.

Cách lắp đặt:
Chọn một khoảng ruộng kích thước 20
x 50 mét trong khu đồng.

Ruộng làm bẫy cây trồng cộng đồng đang chờ gieo cây bẫy và làm mương xung
quanh hàng rào.


5
12345678910111213141516

×