Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tài liệu Luận văn “Ứng dụng Marketing vào hoạt động tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.09 KB, 35 trang )

Luận văn
Đề tài : “Ứng dụng Marketing vào
hoạt động tại sở giao dịch I ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam ”


LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ
sau khi pháp lệnh về ngân hàng ở nước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng
có sự chuyển đổi căn bản từ hệ thống ngân hàng là một cấp sang hệ thống ngân
hàng hai cấp. Sự xuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sư xâm
nhập thị trường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và văn phịng đại diện của
các ngân hàng nước ngồi đã làm cho mơi trường kinh doanh ngân hàng nước
ngồi đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng ở nước ta “nóng” dần lên và
thị phần của các ngân hàng thương mại trong nước ngày càng bị thu hẹp. Đặc biệt
trong thời kỳ này, các định chế ngân hàng hoạt động trong sự biến động không
ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc chiến giành giật thị trường diễn ra ngày
càng khốc liệt. Bên cạnh đó, do sự yếu kém trong kinh doanh, cơ chế chính sách
thiếu đồng bộ và cịn nhiều bất hợp lý đã gây nên tình trạng thất thốt vốn nghiêm
trọng, nợ khó địi gia tăng. Điều này đã đẩy các ngân hàng thương mại của nước ta
vào trạng thái né tránh, co cụm trong kinh doanh trong khi đó lượng vốn vay lại bị
ứ đọng nhiều (năm 1999 số lượng vốn vay bị ứ đọng ở các ngân hàng tăng 20% so
với năm 1998). Trước những khó khăn đó, để khai thơng những bế tắc và đưa hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thoát khỏi tình trạng trì trệ, yếu kém, nâng cao
sức cạnh tranh, các nhà quản trị ngân hàng ở nước ta đã nhận thấy vai trò quan
trọng của Marketing nên đã từng bước chuyển hướng kinh doanh theo triết lý
Marketing và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên do nó cịn mới mẽ
đối với các ngân hàng về cả lý luận lãn thực tiễn nên việc ứng dụng Marketing
trong kinh doanh còn nhiều yếu kém và chưa tương xứng với tiầm quan trọng của
nó. Xuất phát từ tình hình đó, để góp phần nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng
Marketing trong hoạt động kinh doanh ở các ngân hàng thương mại của nước ta


nói chung và tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng,
em đã chọn đề tài “Ứng dụng Marketing vào hoạt động tại sở giao dịch I ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ” cho đề án mơn học của mình. Mục tiêu của
bài viết là xuất phát từ những đặc điểm chung về hoạt động Marketing trong ngành
ngân hàng và thực trạng ứng dụng của nó ở các ngân hàng thương mại của Việt


Nam nói chung và ở sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói
riêng để tìm ra những giải pháp giúp cho các nhà quản trị ngân hàng nâng cao hiệu
quả việc ứng dụng Marketing trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
Để thực hiện được mục tiêu này em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu mô
tả và chủ yếu là dựa vào những dữ liệu thứ cấp để tìm ra những tồn tại và yếu kém
trong hoạt động Marketing của các ngân hàng ở nước ta, từ đó đưa ra những giải
pháp mang tính chất cá nhân của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Minh Đạo và cô Nguyễn Thu Hà
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn để em hồn thành được bài viết này. Với trình độ
cịn nhiều hạn chế, lại ít hiểu biết về ngân hàng nên chắc chắn bài viết khơng tránh
khỏi những yếu kém và thiếu sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình
của các thầy cô giáo để em được tiến bộ hơn trong những bài viết sau này.
Sinh viên thực hiện
Lê Mạnh Cường


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MARKETING
1. Khái niệm Marketing
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật phổ biến. Người mua
cạnh tranh với nhau, người bán cạnh tranh với nhau, người mua cạnh tranh với
người bán, người mua muốn mua rẻ, người bán muốn bán đắt. Quan hệ cạnh tranh
ngày càng gay gắt đã luôn đe doạ các nhà cung cấp với những rủi ro tiềm ẩn. Để

hạn chế rủi ro các nhà sản xuất đã đưa ra các giải pháp để thu hút khách hàng, để
tồn tại trong nền kinh tế và thu được lợi nhuận tối ưu. Vì khách hàng mới là người
quyết định đến sự thành công hay thất bại của mõi doanh nghiệp, do vậy để nhận
biết và dáp ứng nhu cầu, mong muốn của khách hàng là yếu tố cực kỳ quan trọng,
và marketing ra đời để thực hiện nhiệm vụ đó. Lịch sử hình thành và phát triển đã
chứng tỏ marketing là sản phẩm của kinh tế thị trường. Trải qua hơn một thế kỷ
phát triển và khơng ngừng hồn thiện, Marketing đã khơng cịn là những biện pháp
đơn giản, mà nó đã trở thành một mơn khoa học có đầy đủ cơ sở lý luận.
Marketing có khả năng giải quyết những vấn đề to lớn nhằm hạn chế tối đa những
rủi ro nảy sinh trong nền kinh tế thị trường để đạt được lợi nhuận tối ưu. Marketing
không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và duy nhất, mà cho rằng lợi nhuận là
mục tiêu cuối cùng, điều đó có được là do đáp ứng được nhu cầu và mong muốn
của khách hàng.Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau khi đưa ra
một khái niệm marketing là gì.
Philip Lotter- Mỹ: “Marketing là sự phân tích, tổ chức kế hoạch hố và kiểm
tra những khả năng thu hút khách hàng của một cơng ty, cũng như chính sách và
hoạt động với quan điểm thoả mãn nhu cầu mong muốn của nhóm khách hàng đã
lựa chọn”1. Theo hiệp hội Marketing Anh: “Marketing là chức năng quản lý công
ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt dộng kinh doanh từ việc phát hiện và
biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự của một mặt hàng, đến


việc đưa hàng hố đó đến người tiêu thụ cuối cùng, nhằm đảm bảo cho công ty lợi
nhuận như dự kiến”2
Tựu chung lại: “ Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc
trao đổi với mục đích thoả mãn nhưng nhu cầu và mong muốn của con người"
2. Các công cụ của Marketing
2.1 Sản phẩm
Sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống Marketing mix.
Theo quan điểm của marketing, sản phẩm về vật chất là tất cả các lợi ích mà các

cơng ty định chào bán cho khách hàng và họ cảm nhận được.. Sản phẩm ra đời
trước hết dựa trên những nhu cầu và mong muốn của khách hàng và phục vụ
những nhu cầu và mong muốn đó. Trong mơi trương cạnh tranh gay gắt như hiện
nay thì mỗi sản phẩm ra đơi đều phải chịu sức ép từ sản phẩm của các đối thủ cạnh
tranh cũng như từ các sản phẩm thay thế. Do vậy muốn tồn tại và phát triẻn được
thì sản phẩm phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mỗi đơn vị hàng hoá
được cấu thành bởi nhiều yếu tố, các yếu tố này được sắp xếp thành 3 cấp độ cơ
bản là: hàng hoá theo ý tưởng, hang hoá thực hiện và hàng hoá bổ xung. Mỗi cấp
độ có vai trị riêng nhưng cả 3 cấp độ mới tạo thành hàng hố hồn chỉnh. Liên
quan đến hàng hố cịn có các vấn đề mà các cơng ty quan tâm đó là: nhãn hiệu,
bao gói và dịch vụ, chủng loại và danh mục hàng hoá và chu kỳ sống của sản
phẩm. Để hình thành các vấn đề trên thì vai trị của marketing là rất quan trọng.
2.2 Giá cả:
Giá cả được hiểu là mối tương quan trao đổi trên thị trường. Đây là công cụ
rất quan trọng của marketing vì trên phương diên của các nhà sản xuất thì nó là
biến số duy nhất của marketing mix tạo doanh thu cho doanh nghiệp và ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự hình thành và vận động
của giá cả sản phẩm chịu sự tác động của nhiều nhân tố, bao gồm bên trong và bên
ngồi của doanh nghiệp. Do vậy để có một mức giá phù hợp đòi hỏi phải xem xét
và giải quyết chi phí, sự biến động về giá chung, về mối quan hệ giữa giá và cầu,
mức giá của đối thủ cạnh tranh… Do các doanh thường sản xuất và kinh doanh


nhiều mặt hàng khác nhau, giao dịch với nhiều loại khách hàng, bán ở nhiều loại
thị trường vào những thời điểm khác nhau. Để có thể thu hút khách hàng qua giá,
tăng loại nhuận thì doanh nghiệp phải có những quyết định giá một cách linh hoạt
phù hợp với từng tình huống cụ thể, liên quan đến các chính sách như: chính sách
giá cho sản phẩm mới, chính sách giá cho danh mục sản phẩm, các chính sách điều
chỉnh giá( giá hai phần, giá phân biệt, giá trọn gói, giá theo khu vực địa lý…). Do
ln phải đối phó với hiện tượng cạnh tranh qua giá trong hoạt động kinh doanh,

các doanh nghiệp buộc phải tìm kiếm những nguyên tắc liên quan đến ứng xử giá.
Các nguyên tắc này sẽ giúp cho việc đề xuất quyết định liên quan đến giá của
doanh nghiệp có hiẹu quả hơn.
2.3. Phân phối
Đây là cơng cụ quan trọng nhằm đưa hàng hố và dịch vụ của các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh tới tay người tiêu dùng. Phân phối hàng hoá vật chất là một
dịng chảy chủ yếu trong kênh và chi phí phân phối vật chất chiếm tỉ trọng lớn nhất
trong tổng chi phí phân phối. Doanh nghiệp phải làm các quyết định về mục tiêu
phân phối vật chất, xử lý đơn đặt hàng… để đảm bảo đạt hiệu quả phân phối cao
nhất. Tuỳ vào đặc điểm thị trường, đạc điểm các trung gian thương mại, khả năng
và nguồn lực của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn những kênh phân phối phù hợp.
Liên quan đến việc lựa chọn kênh, cơ cấu của kênh, các quyết định phân phối và
marketing của các tổ chức bán buôn, bán lẻ.
2.4 Xúc tiến hỗn hợp
Các quyết định về xúc tiến hỗn hợp là nhóm cơng cụ Marketing mang tính bề nổi
có chức năng truyền tin về sản phẩm và doanh nghiệp tới khách hàng mục tiêu, tạo
lịng tin va thúc đẩy họ mua. Nó gồm 5 nhóm cơng cụ chủ yếu là: quảng cáo,
khuyến mại, tun truyền, bán hàng cá nhân và marketing trực tiếp.
Quảng cáo là việc người bán sử dụng các phương tiện truyền thơng có trả
tiền để truyền đi thơng tin thuyết phục về sản phẩm, dịch vụ hay doanh nghiệp tới
khách hàng. Quảng cao có nhiều hình thức và được thiết kế nhằm đạt được những
mục tiêu khác nhau liên quan đến 5 bước gồm: xác định mục tiêu, quyết định ngân


sách, quyết định thông điệp, quyết định thông tin truyền thông và đánh giá hiệu
quả của quảng cáo.
Khuyến mại là những cơng cụ nhằm khuyến khích dùng thử và tăng
lượng bán ngay lập tức nhờ cung cấp cho khách hàng nhưng lợi ích bổ xung. Liên
quan đén việc xác định khách hàng mục tiêu và đặc điểm của họ, lựa chọn hình
thức khuyến mại…Cơng cụ chủ yếu la: hàng mẫu, qua tặng, qiảm giá…

Tuyên truyền là công cụ truyền thông quan trọng có tác dụng lớn để tạo
nên mức độ nhận biết . Công cụ chủ yếu là các ấn phẩm, tin tức…
Bán hàng cá nhân là công cụ quan trọng để tác động trực tiếp tới khách
hàng tạo nên hành động mua và phản hồi ngay lập tức. Công việc này địi hỏi phải
có ỹ năng và nghệ thuật bán
Marketing trực tiếp là một hệ thống tương tác của marketing sử dụng
một hay nhiều phương tiện truyền thông quảng cáo để tạo ra hành động mua của
khách hàng ở bất kỳ địa điểm nào.
II.SỰ CẦN THIẾT ỨNG DỤNG MARKTING TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

1.Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
1.1 Khái niệm
“Ngân đối với hầu hết chúng ta không phải là một từ ngữ xa lạ. Nó đã quen thuộc
đối với mọi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Ngân hàng là một loại hình kinh
doanh trong nền kinh tế, song nó có vai trị vơ cùng quan trọng đối với chính nền
kinh tế. Có người coi ngân hàng cùng với tiền tệ là một trong những phát minh vĩ
đại của loài người, bên cạnh các phát minh ra lửa và bánh xe. Thông qua hoạt động
nhận gửi, cho vay, và đầu tư các ngân hàng có khả năng “tạo tiền”. Sự thay đổi
trong khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan chặt chẽ tới tình hình kinh
tế, đặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình trạng lạm phát, từ đó mà ảnh
hưởng tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Đây là một trong những lý do khiến hoạt
động của ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống các quy định chặt chẽ của
Nhà nước nhằm tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động ngân
hàng, đồng thời hướng dẫn hoạt động ngân hàng theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Chính vì có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nên việc định nghĩa ngân hàng là


cần thiết. Điều này nhằm xác định cụ thể những đối tượng sẽ chịu sự quản lý của
Nhà nước về ngân hàng, đồng thời cũng nhằm bảo vệ chính ngân hàng và thực tế
là ở hầu hết các quốc gia đều có các luật về ngân hàng. Các ngân hàng có thể được

định nghĩa qua chức năng, dịch vụ mà chúng cung cấp trong nền kinh tế. Theo đó

“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất -đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế”3.
1.2 Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
Các hoạt động của ngân hàng đã chiếm được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu cũng như các nhà lập pháp bởi những hoạt động đó khơng chỉ có ý
nghĩa đối với bản thân ngân hàng mà cịn có ý nghĩa đối với nền kinh tế. Cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung
cấp ngày càng đa dạng, phong phú và mở rộng về phạm vi cung cấp dịch vụ: bất
động sản, mơi giới chứng khốn, tham gia hoạt động bảo hiểm… Tuy nhiên vẫn có
những sản phẩm dịch vụ mà q trình phát triển của nó gắn liền với q trình hình
thành và phát triển của ngân hàng, nếu thiếu các sản phẩm đó thì khơng thể gọi là
ngân hàng.
Mua bán ngoại tệ: Khi thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngân hàng sẽ nhận
được một khoản phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính phát triển, hoạt động này
đã phát triển với các giao dịch phức tạp hơn: swap, giao ngay, tương lai, quyền
chọn, kỳ hạn…và với khối lượng lớn vì thế hoạt động này thường chỉ do các ngân
hàng lớn thực hiện bởi những giao dịch này có độ rủi ro cao, đồng thời u cầu
phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao. Các ngân hàng nhỏ chỉ thực hiện các
giao dịch nhỏ cho cá nhân.
Nhận tiền gửi và thanh toán hộ: Nhận tiền gửi được coi là một trong những
hoạt động quan trọng của ngân hàng, hoạt động khác biệt giữa ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác. Đồng thời nó là nguồn cung cấp “nguyên liệu đầu vào” chính
cho ngân hàng. Các ngân hàng nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã


hội. Tuỳ theo tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý mà tiền gửi có thể được phân

theo các loại khác nhau.
Theo nguồn hình thành: Tiền ký gửi, tiền gửi được tạo ra từ hoạt động
cho vay của ngân hàng.
Theo thời hạn: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi khơng kỳ hạn
*
Theo mục đích sử dụng: Tiền gửi giao dịch(tiền gửi thanh toán), Tiền gửi
tiết kiệm (tiền gửi phi giao dịch).
Cho vay: Cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng, nó là việc
ngân hàng chuyển trực tiếp tiền cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất
định. Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý, cho vay có thể chia
thành nhiều loại khác nhau.
Theo mục đích sử dụng tiền vay của người vay: Cho vay tiêu dùng, Cho
vay thực hiện hoạt động kinh doanh.
Theo thời hạn: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn.
Bảo lãnh: là nghiệp vụ của ngân hàng theo đó ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa
vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện được
nghĩa vụ đã cam kết của họ đối với đối tác.
Thuê mua tài chính: là nghiệp vụ của ngân hàng theo đó ngân hàng đảm nhận
việc thanh toán tiền mua thiết bị và giữ quyền sở hữu thiết bị.
Những nghiệp vụ trên là những nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng bên cạnh
các ngân hàng đó các ngân hàng cịn có các nghiệp vụ khác: dịch vụ uỷ thác đầu
tư, dịch vụ bảo hiểm, dịch tư vấn tài chính, mơi giới chứng khốn, cho thuê két,
bảo quản vật có giá…
2 . MARKETING VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

.2.1. Khái niệm Marketing ngân hàng
Ngày nay tình hình cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt trong mọi lĩnh vực của
nền kinh tế , do vậy nó mang lại cho mỗi doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng



cũng khơng ít những thách thức, địi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự thích nghi và có
những hướng đi đúng đắn. Ngân hàng là một nganh dịch vụ đặc biệt có rủi ro lớn:
ngun liệu chính và khơng thể thay thế của ngân hàng là tiền, phần lớn lại không
phải thuộc sở hữu của ngân hàng. Như trên chúng ta đã nghiên cứu thì ngân hàng
là tổ chức có hoạt động chính là “nhận tiền gửi” để “cho vay”. Số vốn mà ngân
hàng được phép huy động có thể gấp tới 20 lần số vốn tự có của ngân hàng. Thực
tế sẽ là: toàn bộ số tiền mà ngân hàng sử dụng để cho vay không phải là tiền của
ngân hàng. Ngân hàng có trách nhiệm hồn trả khơng điều kiện đối với khách hàng
gửi khi họ muốn rút tiền, trong khi đó ngân hàng khơng có quyền đó với khách
hàng vay của mình và ngay cả khi đến hạn thì khách hàng vay chưa chắc đã trả
đúng hạn. Điều đó có nghĩa là: trong hoạt động của ngân hàng khơng thể khơng có
rủi ro, đó là điều tất yếu. Khi ngân hàng gặp rủi ro thì khơng chỉ ảnh hưởng đến
ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Chính vì thế marketing được áp
dụng vào hoạt động của ngân hàng để hạn chế rủi ro.
Bên cạnh đó, ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp về pháp lý của Nhà
nước nhưng vẫn chịu sự cạnh tranh gay gắt của thị trường. Ngân hàng không chỉ
cạnh tranh với ngân hàng mà còn cạnh tranh với số lượng ngày càng đơng các tổ
chức tài chính khác đang xâm nhập vào hoạt động ngân hàng. Do đó muốn tồn tại
ngân hàng phải nâng cao được sức cạnh tranh và hình ảnh của mình trên thị
trường. Mặt khác, sản phẩm của ngân hàng mang tính đơn giản đồng điệu,dễ bị bắt
chước một cách nhanh chóng. Việc đưa ra sản phẩm mới đối với ngân hàng lại
không phải là dễ và điều đó cịn phụ thuộc vào điều kiện của nền kinh tế .
Và lý do hơn hết để marketing ứng dụng vào ngân hàng là lợi nhuận. Ngân
hàng là một tổ chức kinh doanh chứ không phải là một tổ chức xã hội do đó lợi
nhuận là mục tiêu sống cịn của ngân hàng. Marketing được ứng dụng vào ngân
hàng nhằm thu hút và thoả mãn nhu cầu khách hàng, và hướng tới mục tiêu cuối
cùng đó là lợi nhuận.
Marketing ngân hàng có thể được hiểu đơn giản là marketing được ứng dụng
vào hoạt động của ngân hàng nhằm thoả mãn khách hàng và thu được lợi nhuận tối
ưu.



Tuy nhiên có một số ý kiến khác nhau về marketing ngân hàng như sau:
Marketing ngân hàng là hoạt động tiếp cận thị trường của ngân hàng
thương mại nhằm phát hiện nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ từ đó ngân hàng
thoả mãn tối đa nhu cầu đó nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động
kinh doanh.
“Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân
hàng để đạt được mục tiêu đề ra của ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về
vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa
chọn bằng các chính sách, biện pháp hướng tới các mục tiêu cuối cùng là đối đa
hoá lợi nhuận”4
Và thực tế đã chứng minh các ngân hàng kinh doanh trên cơ sở các hoạt
động đã được chiến lược hóa ln thành cơng hơn các ngân hàng kinh doanh theo
kiểu tuỳ tiện đối phó với thị trường. Sự thành công của các ngân hàng không xây
dựng các chiến lược marketing, nếu có, chỉ là sự may mắn mà thơi và mang tính
ngắn hạn.
.2.2. Vai trị của marketing trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
.2..2.1.Marketing tham gia vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của
hoạt động kinh doanh ngân hàng
Hoạt động của các ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và trở
thành bộ phận quan trọng trong cơ chế vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng phải lựa chọn và giải quyết
những vấn đề kinh tế cơ bản của hoạt động kinh doanh với sự hỗ trợ đắc lực của
marketing.
Thứ nhất, phải xác định được loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cần cung
ứng ra thị trường. Bộ phận marketing sẽ giúp chủ ngân hàng giải quyết tốt vấn đề
này thông qua các hoạt động như tổ chức thu thập thông tin thị trường, nghiên cứu
hành vi tiêu dùng, cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ và lựa chọn ngân hàng của
khách hàng. Đó là căn cứ quan trọng để chủ ngân hàng quyết định loại sản phẩm

dịch vụ cung ứng ra thị trường ở cả hiện tại và tương lai. Đây là những vấn đề kinh


tế quan trọng vì nó quyết định phương thức hoạt động, kết quả hoạt động, khả
năng cạnh tranh cùng vị thế của mỗi ngân hàng trên thị trường.
Thứ hai, tổ chức tốt quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ và hoàn thiện
mối quan hệ trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng trên thị trường. Quá trình cung
ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng với sự tham gia đồng thời của 3 yếu tố: cơ sở vật
chất kỹ thuật công nghệ, đội ngũ nhân viên trực tiếp và khách hàng. Bộ phận
Marketing ngân hàng có nhiều biện pháp khác nhau để kết hợp chặt chẽ giữa các
yếu tố, các bộ phận. Đặc biệt là khai thác lợi thế của từng yếu tố thông qua các
chiến lược phát triển kỹ thuật công nghệ, chiến lược đào tạo nhân lực và chiến
lược khách hàng phù hợp với từng ngân hàng. Do đó, Markrting đã góp phần to
lớn vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tạo uy tín hình ảnh, tăng sức
cạnh tranh của ngân hàng.
Thứ ba, giải quyết hài hồ mối quan hệ lợi ích giữa khách hàng, nhân viên
và chủ ngân hàng. Bộ phận marketing giúp chủ ngân hàng giải quyết tốt mối quan
hệ trên thông qua các hoạt động như: tham gia xây dựng và điều hành chính sách
lãi, phí, kích thích hấp dẫn phù hợp với từng loại khách hàng, khuyến khích nhân
viên phát minh sáng kiến, cải tiến hoạt động… Bộ phận này vòn tham gia vào việc
xây dựng các cơ chế chính sách có liên quan trực tiếp đến lợi ích của khách hàng,
nhân viên ngân hàng như: chính sách tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp…
Các mối quan hệ trên nếu được giải quyết tốt không chỉ là động lực thúc đẩy
hoạt động kinh doanh, mà còn trở thành cong cụ để duy trì và phát triển mối quan
hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
2.2.2. Marketing trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thị trường
Thị trường vừa là đối tượng phục vụ, vừa là môi trường hoạt động của ngân
hàng. Hoạt động của ngân hàng và thị trường có mối quan hệ tác động hữu cơ và
ảnh hưởng trực tiêp lẫn nhau. Do vậy , hiểu được nhu cầu của thị trường sẽ làm
cho hoạt động của ngân hàng có hiệu quả cao. Điều này sẽ được thực hiên tốt

thông qua cầu nối Marketing bởi Marketing giúp chủ ngân hàng nhận biết được
các yếu tố của thị trường, nhu cầu của khách hàng, về sản phẩm dịch vụ và sự biến


động của chúng. Mặt khác, Marketing là một công cụ dẫn dắt hướng chảy của tiền
vốn, khai thác khả năng huy động vốn, phân chia vốn theo nhu cầu của thị trương
một cách hơp lý.
2.2.3. Marketing góp phần tạo vị thế cạnh tranh của ngân hàng
Quá trình tạo lập vị thế cạnh tranh của ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến
việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ khác biệt và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh của
sản phẩm dịch vụ ở thị trường mục tiêu, đồng thời phải làm cho khách hàng
thấy được lợi ích thực tế từ những sản phẩm dịch vụ đó. Do đó, việc tạo lập vị
thế cạnh tranhcủa sản phẩm dịch vụ ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào khả
năng, trình độ marketing của mỗi ngân hàng.
Để tạo được vị thế cạnh tranh, bộ phận Marketing ngân hàng thường tập
trung giải quyết 3 vấn đề lớn:
Một là, phải tạo được tính độc đáo của sản phẩm dịch vụ. Tính độc đáo
phải mang lại lợi thế của sự khác biệt. Điều đó khơng nhất thiết phải được tạo
ra trên tồn bộ q trình cung ứng sản phẩm dịch vụ, hoặc trọn vẹn một kỹ
thuật Marketing, mà có thể chỉ ở một vài yếu tố, thậm chí ở một khía cạnh liên
quan cũng mang lại sự độc đáo.
Hai là, phải làm rõ được tầm quan trọng của sự khác biệt đối với khách
hàng. Nếu chỉ tạo ra được sự khác biệt khơng thơi thì vẫn là chưa đủ để tạo ra
lợi thế cạnh tranh. Điều quan trọng là sự khác biệt đó phải có tầm quan trọng
đối với khách hàng, có giá trị thực tế đối với họ và được coi trọng thực sự. Một
sự khác biệt của ngân hàng nếu không được khách hàng coi trọng, thì bộ phận
Marketing phải giai quyết bằng mọi cách, kể cả việc điều chỉnh. Mặt khác, bộ
phận này phải làm rõ lợi thế về sự khác biệt của khách hàng thông qua chiến
dịch tuyên truyền quảng cáo
Ba là, khả năng duy trì lợi thế về sự khác biệt của ngân hàng. Sự khác

biệt phải được ngân hàng tiếp tục duy trì, địng thời phải có hệ thống biện pháp
để chống lại sự sao chép của các đối thủ cạnh tranh. Có như vậy lợi thế mới
được duy trì. Trong lĩnh vực ngân hàng, sản phẩm dịch vụ rất dễ bị sao chép, vì
vậy ưu thế rất khó được duy trì lâu dài. Thơng qua việc chỉ rõ và duy trì lợi thế


của sự khác biệt, Marketing giúp ngân hàng phát triển và nâng cao vị thế cạnh
tranh trên thị trường
2.3.Chức năng của bộ phận Marketing ngân hàng
2.3.1. Chức năng làm cho sản phẩm dịch vụ ngân hàng thích ứng với nhu cầu của
thị trường
Làm cho sản phẩm dịch vụ ngân hàng trở nên hấp dãn, có sự khác biệt, đem
lại nhiều tiện ích, đáp ứng nhu cầu đa dạng, đổi mới và ngày càng cao của khách
hàng, tạo lợi thế trong cạnh tranh, đó chính là chức năng thích ứng của Marketing.
Thực hiện chức năng này có nghĩa là bộ phận Marketing phải nghiên cứu thị
trường, xác định được nhu cầu đòi hỏi, mong muốn và cả những xu thế thay đổi
nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Trên cơ sở đó, Marketing gắn kết chặt chẽ
giữa hoạt động nghiên cứư thị trường với các bộ phận trong thiết kế, tiêu chuẩn
hoá phát triển sản phẩm dịch vụ mới và cung ứng sản phẩm dịch vụ ngày càng tốt
hơn nhu cầu của thị trường.
2.3.2. Chức năng phân phối
Đây là toàn bộ quá trình tổ chức để đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng
đến với các nhóm khách hàng đã chọn mà Marketing phải đảm nhiệm. Nó bao gồm
các hoạt động như: Tìm hiểu và lựa chọn những khách hàng tiềm năng, hướng dẫn
khách hàng trong việc lựa chọn và sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tổ chức
các dịch vụ hỗ trợ, và phục vụ khách hàng , nghiên cứu phát triển hệ thống kênh
phân phối hiện đại đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
2.3.3. Chức năng tiêu thụ và yểm trợ
Đây là khâu cuối cùng trong hoạt động sản xuất và nó quyết đinh đến sự
thành cơng của mỗi ngân hàng. Diều này phụ thuộc rât nhiều vào hoạt động của

các nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Đồng thời liên quan đến các hoạt
động xúc tiến như: quảng cáo, tuyên truyền, hội nghị khách hàng…


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
MARKETING TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
I.GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐTPTVN
1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng ĐTPT Việt Nam được thành lập ngày 26\4\1957 với tên gọi Ngân
Hàng Kiến Thiết Phát Triển Việt Nam trực thuộc bộ tài chính. Nhưng do chiến
tranh nên nhiệm vụ chủ yếu của ngân hàng là thanh toán và quản lý vốn do nhà
nước cấp cho để kiến thiết đất nước nhằm thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế
và hỗ trợ công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Hoạt động của ngân hàng thời kỳ
này, không mang bản chất của một ngân hàng.
Vào năm 1981, đất nước đã thống nhất và đang tiến hành xây dựng và phát
triển, ngày 24/6 ngân hàng được đổi tên là Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt
Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo 259QĐ/HĐBT của Hội đồng
bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phù hợp với tình hình đất nước. Với quyết định
này ngân hàng được tổ chức như một doanh nghiệp quốc doanh, nhiệm vụ chủ yếu
của ngân hàng vẫn là cấp phát vốn theo dự án cho đầu tư xây dựng cơ bản, ngân
hàng chưa thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh.
Ngày 14/11/90 theo 401QĐ/HĐBT ngân hàng được đổi tên là Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam cho phù hợp với mơ hình ngân hàng hai cấp đang
được áp dụng. Tháng 5/1990 hai pháp lệnh về ngân hàng (pháp lệnh Ngân hàng
Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính) ra đời
tạo bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thồng ngân hàng. Hai pháp
lệnh đã khẳng định hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng hai cấp
bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng,
cơng ty tài chính…Từ đây Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đồng thời thực hiện

nhiệm vụ như ngân hàng thương mạivừa thực hiện cho vay theo dự án của Nhà
nước. Ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong và ngoài nước


để thực hiện cho vay, bên cạnh đó ngân hàng cũng vẫn nhận vốn từ Ngân sách cấp
và nhiều dự án theo sự chỉ định của Nhà nước
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện có khoảng 76 chi nhánh trực
thuộc tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Sở Giao dịch I là một đơn vị thành viên lớn nhất của hệ thống Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam- một ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động
đa năng tổng hợp trên mọi lĩnh vực, trên phạm vi toàn quốc đặc biệt trong đầu tư
phát triển. Sở Giao dịch I được thành lập theo quyết định số 76/QĐ-TCCB ngày
28/3/1991 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trực
thuộc hội sở chính.
2. Tình hình hoạt động kinh doanh
Tuy mới hoạt động nhưng Sở đã có được những thành cơng đáng kể: là đơn
vị lớn nhất trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư, Năm 2002 chênh lệch thu chi của Sở
đạt 100 tỷ VND trong đó trích quỹ dự phịng rủi ro 30 tỷ, lợi nhuận trước thuế là
70 tỷ tăng 46,93% so với năm 2001.
Hoạt động huy động vốn
Mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt trong việc huy động vốn giữa các ngân hàng
trong địa bàn song Sở vẫn luôn giữ được sự tin cậy của khách hàng thông qua các
chỉ tiêu huy động vốn liên tục tăng qua các năm. Năm 2002 tổng vốn huy động
tăng gần 30% so với năm 2001 (trong đó tiền gửi từ dân cư tăng 18,59%, tiền gửi
từ các tổ chức kinh tế tăng 42,16%), và tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Nguồn
huy động chủ yếu của Sở Giao dịch là từ dân cư: chiếm khoảng 70% tổng vốn huy
động, trong đó tiền gửi bằng USD chiếm tỷ lệ lớn điều này phản ánh đúng thực
trạng chung của các ngân hàng trong năm 2002: lãi suất huy động bằng USD cao
hơn VND. Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế cũng tăng, điều này tạo thuận lợi cho
việc phát triển các dịch vụ trung gian như thanh toán hộ qua ngân hàng

Hoạt động tín dụng
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các năm đều tăng năm 2002 tăng
30% so với năm 2001, tăng 71% so với năm 2000, các hình thức tín dụng cũng đều
tăng trong đó tín dụng trung và dài hạn tăng mạnh đạt xấp xỉ 3.600 tỷVND tăng


54,35% so với năm 2001 và tăng hơn gấp đôi so với năm 2000. Tỷ trọng cho vay
trung và dài hạn ngày càng tăng: năm 2001 chiếm 46%, năm 2002 chiếm 54,6%; tỷ
trọng cho vay theo kế hoạch Nhà nước giảm: năm 2001 chiếm 24%, năm 2002
chiếm 20,24%
Hoạt động dịch vụ
Thu ròng từ hoạt động dịch vụ liên tục tăng trong các năm gần đây. Tính
riêng trong năm 2002 thu ròng từ hoạt động dịch vụ đạt 22,56 tỷ đồng 101,48% so
với kế hoạch giao, tăng 32,24% so với năm 2001. Các dịch vụ như bảo lãnh, thanh
toán trong nước, chi trả tiền kiều hối, kinh doanh ngoại tệ đã có chiều hướng tăng
trưởng mạnh .
Thanh tốn quốc tế
 Doanh số hoạt động thanh toán quốc tế trong năm 2002 đạt 451 triệu
USD bằng 101% so với năm 2001, đạt 96,06 % kế hoạch năm 2002. Doanh số
thanh toán xuất nhập khẩu đạt 233 triệu USD, chuyển tiền đi và chuyển tiền đến
(mậu dịch) trong năm 2002 tăng trên 120 % so với năm 2001 về số món (10.500
món) nhưng doanh số lại giảm (chỉ đạt 128,5 triệu USD). Thu phí dịch vụ từ hoạt
động thanh tốn quốc tế 5,35 tỷ đồng bằng 148,09% năm 2001 và đạt 116,07% kế
hoạch năm .
 Kinh doanh ngoại tệ : doanh số mua bán qui đổi đạt 460 triệu USD, thu
kinh doanh ngoại tệ đạt gần 5,93 tỷ đồng chiếm 26,29% thu dịch vụ, luôn đáp ứng
đày đủ kịp thời với nhu cầu của khách hàng, với cạnh tranh trên thị trường.
 Dịch vụ chuyển tiền kiều hối ngày một phát triển, số lượng tiền chuyển từ
nước ngoài về cho thân nhân Việt Nam ngày một nhiều đặc biệt là dịch vụ chuyển
tiền kiều hối từ Đài Loan về đem lại nguồn thu đáng kể cho Sở GDI và năng cao

uy tín của Sở GDI tại thị trường Đài Loan .
Ứng dụng công nghệ :
Tiếp tục ứng dụng mở rộng hoạt động dịch vụ Home Banking, ATM đến
các khách hàng, dịch vụ Website của Sở Giao dịch đi vào thử nghiệm, xây dựng
chương trình trả lương tự động cho các cơng ty. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ


thông tin vào công tác quản lý một số quy trình nghiệp vụ cơ bản cho các phịng
ban nghiệp vụ quản lý .
3. Tình hình ứng dụng Marketing của sở giao dịch I vào hoạt động kinh
doanh
Ở phần trên chúng ta đã thấy rằng: ngân hàng, cũng giống như bất kỳ doanh
nghiệp nào trong nền kinh tế, phải áp dụng marketing vào hoạt động của mình
nhằm tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị
trường. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế đến nay, các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam đã nhận thức được vấn đề này và bước đầu đã áp dụng marketing như công
cụ để thu hút khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh. Nhận thức của Sở Giao dịch
về marketing ngân hàng được đánh dấu bằng sự ra đời của phòng quan hệ khách
hàng. Tuy nhiên, từ khi đó đến nay việc áp dụng marketing vào hoạt động của Sở
đang ở mức độ nào? Sở đã làm được gì và cịn điều gì chưa làm được?
2.2.1. Cơng tác nghiên cứu thị trường
Có thể nói rằng: Sở đã nhận thức được nghiên cứu thị trường có vai trị quan
trọng và góp phần quyết định đến sự thành cơng của hoạt động marketing, vì thế
nhiệm vụ đầu tiên quy định cho phòng quan hệ khách hàng là “nghiên cứu thị
trường…để tham mưu cho giám đốc xây dựng chiến lược khách hàng, định hướng
phát triển nền khách hàng bền vững phục vụ kinh doanh của Sở”. Để hoàn thành
nhiệm vụ được giao, phòng quan hệ khách hàng đã tiến hành các hoạt động:
Thu thập thông tin: trong điều kiện nền kinh tế ln có nhiều biến động và
cạnh tranh gay gắt, thì khó có doanh nghiệp nào lại tồn tại và phát triển mà khơng
có thơng tin. Tuy nhiên đối với ngân hàng, thông tin lại càng quan trọng hơn do

đặc điểm của ngân hàng là ngành dịch vụ có rủi ro lớn, hàng hoá hết sức đặc biệt tiền tệ- và nhạy cảm với những thay đổi của môi trường kinh doanh. Nhận thưc
được điều nay nên sở đã giao nhiệm vụ này cho phòng quan hệ khách hàng thực
hiện thu thập thơng tin để phân tích và tham mưu cho ban lãnh đạo. Tuy nhiên,
thông tin mới chỉ tập trung vào thông tin về khách hàng, thông tin về đối thủ cạnh
tranh, và thị phần của Sở trên địa bàn.


- Xác định vị thế của ngân hàng: ngồi thơng tin về khách hàng, Sở còn
quan tâm về đối thủ cạnh tranh và tình hình nội bộ để từ đó tiến hành xác định vị
thế của ngân hàng trên địa bàn nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục các
hạn chế. Sở xác định: đối thủ cạnh tranh hiện nay của Sở bên cạnh các Sở và chi
nhánh của các ngân hàng quốc doanh khác trên địa bàn còn có các ngân hàng cổ
phần (ngân hàng ACB, ngân hàng cổ phần Hàng hải, Kỹ thương, Phương nam…)
và các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài (city bank, ANZ…). Chuẩn bị
trước cho vấn đề này trong nhiều năm qua Sở đã tiến hành thu thập thông tin đối
thủ cạnh tranh, phân tích đánh giá và xác định thị phần, vị thế của ngân hàng để
thấy được điểm mạnh và điểm yếu của Sở từ đó có chiến khi các ngân hàng khác
hoạt động như một ngân hàng thương mại thật sự lược kinh doanh phù hợp
2.2.2. Chính sách sản phẩm
Nhằm thu hút và giữ chân khách hàng, Sở đã chú ý hơn đến việc thiết kế và
triển khai dịch vụ mới phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng. Quan điểm của
Sở về chính sách sản phẩm được thể hiện ở hai khía cạnh: đa dạng hố sản phẩm
và nâng cao chất lượng sản phẩm
Đa dạng hoá sản phẩm : Trong những năm vừa qua sản phẩm của Sở đã
khơng ngừng được hồn thiện và cải tién cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Sau đây là một số sản phẩm dịch vụ của Sở:
Dịch vụ tiền gửi: với loại hình tiền gửi thanh tốn,tiết kiệm các kỳ hạn, kỳ
phiếu trái phiếu. Đặc biệt, Sở mới phát triển thêm hình thức tiết kiệm tích kuỹ và
chứng chỉ tiền gửi.
Thanh toán trong nước: mở tài khoản, chuyển tiền nhanh, thu hộ, chi hộ,

chi trả hộ lương, chi trả kiều hối, chi trả người lao động xuất khẩu
Sản phẩm tín dụng: cho vay vốn lưu đơng, cho vay mở L/C, tài trợ xuất
nhập khẩu, cho vay phục vụ đầu tư phát triển,cho vay ứng dụng đề tài nghiên cứu
khoa học,cho vay đồng tài trợ cho dự án, cho vay tiêu dùng, cho thuê tài chính ...
thời gian cho vay, hạn mức vay tuỳ thuộc nhu cầu và điều kiện kinh doanh tài
chính của khách hàng .
Dịch vụ bảo lãnh: bảo lãnh dự phần, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo hành
chất lượng sản phẩm, mua thiết bị trả chậm, vay vốn nước ngồi, thanh tốn …


Và các dịch vụ khác: như rút tiền tự động ATM, ngân hàng tại nhà
Homebanking, dịch vụ Phone- banking, dịch vụ ngân quỹ, đại lý bảo hiểm... Việc
đa dạng hoá sản phẩm khơng chỉ có tác dụng thoả mãn nhu cầu vủa khách hàng, nó
cịn tạo khả năng cạnh tranh, giữ chân khách hàng, với sự đa dạng sản phẩm, nhất
là các sản phẩm dịch vụ có tính hỗ trợ nhau, sẽ giúp khách hàng có thể sử dụng
dịch vụ trọn gói, làm giảm chi phí, thời gian, từ đó tạo sự gắn kết nhiều chiều giữa
khách hàng và Sở. Hiện tại, Sở đang nghiên cứu để đưa một số sản phẩm mới vào
hoạt động như mua bán séc du lịch, gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi
Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ: chất lượng sản phẩm của ngân
hàng (nghành dịch vụ nói chung) khơng thể xác định bằng các chỉ tiêu định lượng
như một số nghành khác. Nó được đo đạc bằng các yếu tố trừu tượng: sự tin cậy,
hài lòng của khách hàng. Và điều đó lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố : sự tiện lợi,
tiện ích, thái độ nhân viên.
Tại Sở, phịng quan hệ khách hàng là nơi tiếp nhận các ý kiến đóng góp, ý
kiến phê bình và những lời phàn nàn của khách hàng. Các ý kiến đóng góp này sẽ
được tìm hiểu để xác thực, từ đó sẽ đưa ra các biện pháp sử lý tạm thời cũng như
hướng khắc phục triệt để. Kết quả của việc xử lý sẽ được thông báo lại với khách
hàng. Điều này đã làm thay đổi suy nghĩ của khách hàng : việc thắc mắc, phàn nàn
khơng những khơng gặp một khó khăn phiền tối nào mà cịn được Sở lắng nghe
giải quyết, từ đó sự khơng thoả mãn trong giao dịch của khách hàng đối với sản

phẩm dịch vụ của ngân hàng được bù đắp bởi một sự thoả mãn mới. Và thực tế cho
thấy rằng: những chi phí phát sinh cho việc giữ khách hàng cũ ít hơn so với việc
tiếp cận các khách hàng mới, lợi ích của việc đó lại lớn hơn, các khách hàng có
phàn nàn mà được giải đáp thoả đáng thì khách hàng tin cậy và trung thành hơn
đối với Sở.
Bên cạnh đó, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, Sở tập trung vào
công tác cải tiến q trình cung ứng, áp dụng cơng nghệ hiện đại vào quá trình
cung ứng. Hiện nay, các quy trình nghiệp vụ của Sở đều được thực hiện theo quy
trình đạt tiêu chuẩn chất lượng ISO- 9001. Các quy trình này cũng ln được
nghiên cứu và cải tiến có sự góp ý của khách hàng nhằm tạo thuận lợi cho khách
hàng. Sở thành lập một bộ phận quản lý chất lượng với nhiệm vụ thường xuyên


giám sát việc thực hiện quy trình định kỳ 6 tháng thực hiện kiểm tra đánh giá báo
cáo ban lãnh đạo các sai sót để khắc phục và chỉnh sửa. Bên cạnh quy trình nghiệp
vụ, Sở cũng ln chú trọng đến máy móc thiết bị trong q trình cung ứng sản
phẩm nhằm tăng năng suất lao động, giảm sự tham gia của con người tạo sự đồng
đều trong chất lượng sản phẩm
Chính sách lãi suất và phí dịch vụ,có thể nói, là một cơng cụ marketing được
các ngân hàng thương mại Việt Nam quan tâm sử dụng hàng đầu nhằm thu hút
khách hàng, đặc biệt sau khi ngân hàng Nhà nước ra quyết địng thực hiện lãi suất
thoả thuận. Và tất nhiên giá cả chỉ là một trong nhiều yếu tố tạo nên sự cạnh tranh
nhưng không phải là yếu tố quyết định. Nếu giá cả bị lạm dụng sẽ gây tổn hại đến
chính ngân hàng. một chính sách giá được đưa ra thường bao gồm hai thành phần
là giảm giá và biểu giá linh hoạt, hai yếu tố này có sự kết hợp chặt chẽ với nhau
trong từng giai đoạn cụ thể và áp dụng đối với từng đối tượng khách hàng
Đối với lãi suất cho vay: Sở tiến hành phân loại, đánh giá từng khách hàng,
với mỗi đối tượng khách hàng Sở áp dụng một chính sách lãi suất khác nhau. Việc
định giá nhìn chung được xác định dựa trên mối quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng, tình hình tài chính của khách hàng, nhu cầu vốn…

2.2.3. Mạng lưới phân phối và môi trường cung ứng
Khi đã có được danh mục sản phẩm đa dạng, giá cả hấp dẫn để thu hút khách
hàng, thì điều quan trọng tiếp theo là một mạng lưới cung cấp rộng khắp để đưa
sản phẩm tiếp cận khách hàng một cách nhanh chóng
Mạng lưới phân phối của Sở Giao dịch gồm :


Trụ sở chính : 53- Quang trung- Hà Nội



Phịng Giao dịch Trung tâm : Tràng Tiền Plaza 24- Hai Bà Trưng-

Hà Nội


Phịng Giao dịch số 1 :35- Hàng Vơi- Hà Nội



Phịng Giao dịch số 2 :108- Phạm Ngọc Thạch- Hà Nội



Các quỹ tiết kiệm: 11 quầy tiết kiệm



Các điểm đặt ATM: 13 điểm





Sở cũng đã có trang web riêng: www.bidv.com.vn

Với sự ứng dụng công nghệ khoa học vào hoạt động kinh doanh, Sở có thêm
các kênh phân phối hiện đại rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng: qua
mạng homebanking, mạng thanh tốn điện tử, điện thoại, fax. Nhờ có các kênh này
mà khách hàng không cần thiết phải trực tiếp đến ngân hàng mà vẫn có thể nhận
được các dịch vụ mong muốn. Điều này góp phần làm giảm chi phí giao dịch của
khách hàng, tăng hiệu quả kinh doanh cho cả khách hàng và ngân hàng .
Về môi trường cung ứng: là những gì hiện hữu mà khách hàng có thể nhận
biết được khi giao dịch: cơ sở vật chất tại quầy giao dịch, hình ảnh của nhân viên
giao dịch (thái độ, phong cách, trình độ…). Sở Giao dịch đã cố gắng tạo ra hình
ảnh đẹp về ngân hàng khi khách giao dịch tại các điểm giao dịch: cơ sở vật chất,
trang thiết bị hiện đại, trụ sở khang trang sạch sẽ và nằm tại các con phố chính. Sở
chú trọng đến việc bố trí bảng hiệu, thiết bị, khoảng khơng, ánh sáng, sự tiện
nghi… Khách hàng có thể thấy các bảng hiệu giới thiều về Sở, bảng tin thơng báo
các loại hình dịch vụ, lãi suất tỷ giá hối đoái
2.2.4. Hoạt động quảng cáo và khuyếch trương
Đây là những hoạt động hỗ trợ cho việc thu hút khách hàng với mục tiêu là
làm khách hàng hiểu rõ ràng và đầy đủ về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng.
Hoạt động này cần hướng tới cả những khách hàng đã và đang giao dịch với ngân
hàng và những khách hàng sẽ Giao dịch với ngân hàng. Khi hoạt động này thực
hiện tốt sẽ tạo ra hình ảnh của ngân hàng và tạo sự tin tưởng của khách hàng đối
với ngân hàng
Các hoạt động quảng cáo và tuyên truyền mà Sở đang thực hiện : Quảng cáo
trên các báo có uy tín, Xây dựng và phát catalog, tờ rơi, Tổ chức hội nghị khách
hàng, và các hình thức khuyến mãi…
II.Đánh giá về tác động của Marketing đối với kết quả hoạt động kinh doanh

tại sở giao dịch I

1. Những thuân lợi
Do lãnh đạo của sở đã nhận thức được vai trị quan trọng của Marketing nên
đã có sự đầu tư đúng mức và đã có thay đổi rõ rệt trong nhận thức của ban giám


đốc cũng như tất cả các nhân viên Mặt khác do là thành viên quan trong của ngân
hàng Đầu tư và phát triển VN nên Sở cũng có những lợi thế về vốn, về uy
tín…Hơn nữa trong tương lai cịn có những thay đổi về kinh tế xã hội cũng như
cac chính sách, điều đó mở ra cho sở 1 số cơ hội mới như:
- Tiến trình hội nhập kinh tế của đất nước, trong đó Hà nội là một trung tâm
kinh tế xã hội lớn của cả nước, sẽ mở ra nhiều cơ hội cho ngành ngân hàng nói
chung và Sở nói riêng.
- Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định chủ trương CNH-HĐH với mục
tiêu đưa nước ta trở thành nước có nền cơng nghiệp phát triển vào năm 2020, tốc
độ tăng trưởng hàng năm đạt từ 5-7%, do đó nhu cầu về vốn trong tương lai là rất
lớn, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, đây là cơ hội lớn cho Sở trong
tương lai.
- Nhà nước đã có đề án cơ cấu lại ngân hàng nhằm sắp xếp và nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Các cơ sở pháp
lý cho hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng hoàn thiện
- Do sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, việc áp dụng các
công nghệ vào hoạt động ngân hàng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Sở.
- Giao lưu kinh tế sẽ giúp ngân hàng có nhiều điều kiện học hỏi kinh
nghiệm, bổ sung các kiến thức thị trường, ngân hàng
2. Khó khăn
Hoạt động thị trường: hoạt động này của sở hiện nay gạp rất nhiều khó
khăn do cịn thiếu thơng tin, họ mới chỉ tập chung vào thông tin của ngân hàng và
sự biến đổi của nó, cịn thơng tin về đối thủ cạnh tranh chưa được chú trọng do đó

khơng phát hiện ra được những đối thủ cạnh tranh cũng như khách hàng tiềm ẩn.
Mặt khác, cán bộ Marketing của Sở nhiệt tình năng động chịu khó học hỏi nhưng
làm việc không phù hợp về chuyên môn được đào tạo, chủ yếu làm việc theo kinh
nghiệm vừa học vừa làm và phải tự mày mò, hoặc được đào tạo chun ngành
khác: kế tốn, tín dụng.
Sản phẩm và giá cả: Giá cả trong hoạt động ngân hàng chính là chi phí mà
khách hàng phải trả cho ngân hàng để được sử dụng các dịch vụ do ngân hàng


cung cấp. Nó được thể hiện rõ nhất ở lãi suất của ngân hàng. Đây là nhân tố thứ
hai của Marketing và là nhân tố chủ yếu xác định thu nhập của ngân hàng trên cơ
sở đánh giá các chi phí mà ngân hàng bỏ ra. Trong những năm qua sở đã có nhiều
cố gắng cải tiến nhằm đa dạng hoá sản phẩm và hạ giá thành. Tuy nhiên do chưa
nắm bắt được nhu cầu của khách hàng nên các sản phẩm dịch vụ và gía cả vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Về dịch vụ , chỉ được đưa ra theo ý
kiến chủ quan, thị trường chưa có sự đo đạc, khơng phù hợp với thị trường. Các
hình thức thanh tốn vẫn chưa thục sự đem lại tiện ích cho khách hàng.
Mạng lưới phân phối: Một hệ thống cung ứng sản phẩm phù hợp với khách
hàng, địa điểm và thời gian cung ứng dịch vụ của ngân hàng là thực sự cần thiết.
Có thể nói mạng lưới phân phối của sở hiện nay còn mỏng và khơng đều . Sở chỉ có
1 trụ sở chính, 3 phòng Giao dịch, 11 quầy tiết kiệm do vậy khách hàng cịn gặp
khó khăn khi rút tiền và giao dịch. Hiện nay sở cũng đưa vào hình thức rút tiền qua
các máy tự động nhưng hình thức này cịn q ít do chi phí cao.
Hoạt động giao tiếp khuyếch trương: Trong mơi trường hoạt động kinh
doanh, ngân hàng có một hệ thống các mối giao tiếp phức tạp: với khách hàng, với
các định ché tài chính khác nhau, với các cơng chúng khác... Vì các mối quan hệ
đó có các phương hướng khác nhau và đan chéo nhau nên ngân hàng có nhiệm vụ
phải tiến hành hình thành và duy trì hình ảnh các sản phẩm cũng như tổ chức mình
trong con mắt của xã hội và khách hàng tiềm năng. Muốn vậy, phải tiến hành các
hoạt động xúc tiến hỗn hợp . Nhưng do chưa được chú trọng nên hoạt động này

chưa thực sự phát triển vì thế khơng đáp ứng được những thay đổi của Sở như: hạ
lãi suất, các đợt huy động vốn…
- Mặt khác, một thách thức nữa đặt ra cho Sở là do quá trình hội nhập diễn
ra khá gay gắt và sự biến động không ngừng của thế giới nên môi trường kinh tế bị
thay đổi đặc biệt là kinh tế trong nước. Từ những thực tế này buộc các Sở phải tiền
hành hiện đại hố phương thức kinh doanh của mình và hơn bào giờ hết và
Marketing trở thành công cụ cực kỳ quan trọng trong hoạt động kinh doanh. nhằm
thúc đẩy sự phản hồi của công chúng mục tiTrong môi trường hoạt động kinh
doanh, ngân hàng có một hệ thống các mối giao tiếp phức tạp: với khách hàng, với
các định ché tài chính khác nhau, vơi snn TW, với các cơng chúng khác... Vì các


mối quan hệ đó có các phương hướng khác nhau và đan chéo nhau nên ngân hàng
có nhiệm vụ phải tiến hành hình thành và duy trì hình Quảng cáo

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ
TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG MARKETING
TẠI SỞ GIAO DICH I
I. MỘT SỐ GIẢI PHÁP

1. Giải pháp đối với phòng quan hệ khách hàng
Như đã nghiên cứu ở trên thì phịng quan hệ khách hàng là phịng chun
trách cơng tác marketing của Sở có nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển dịch vụ
ngân hàng đồng thời có các biện pháp liên tục củng cố chất lượng dịch vụ, đảm
bảo nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay các cơng tác của phịng còn nhiều
hạn chế làm cho hoạt động marketing của Sở chưa mang lại hiệu quả cao như
mong muốn. Chính vì thế, để hoạt động marketing có hiệu quả hơn thì trước hết
cần khắc phục một số tồn tại của phòng quan hệ khách hàng thông qua việc tăng
cường cán bộ chun trách, có năng lực chun mơn cao, am hiểu về marketing,
về ngân hàng. Xây dựng và hoàn thiện bộ máy tổ chức để đạt được hiệu quả cao

nhất.


×