TẠO SỰ HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
YẾU VÀ TRUNG BÌNH Ở MÔN TOÁN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Dạy học là một quá trình nghệ thuật . Trong đó giáo viên đóng vai trò là chủ
thể sáng tạo, học sinh là sản phẩm của quá trình nghệ thuật đó. Sản phẩm “đẹp” hay
“xấu”, “hoàn mỹ” hay “thô thiển” là một phần do chủ thể sáng tạo nên.
Mặt khác, họ cũng là những khán giả nhí trung thành nhưng không kém phần
khó tính. Mỗi một cá thể riêng biệt lại có những tính cách khác nhau; làm cho khán giả ấy
hài lòng và thích thú, hăm hở đến lớp, đến xem giáo viên “biểu diễn”, đồng thời tích cực
nhận vai trong buổi học là điều khó. Nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu .
Đối tượng học sinh này đến lớp với nhiều lý do: có thể ham mê học tập, có thể
không; mọi người đi học thì mình cũng đi học; đi học theo yêu cầu của ông bà, cha me,
thầy cô,.... Một số trường hợp cá biệt chưa nhận ra việc học là trách nhiệm và bổn phận
của mình. Đôi khi, học sinh đến lớp như một cái máy đã được lập trình, hoặc đến với tâm
trạng chán chường, mệt mỏi. Có trường hợp học sinh chưa hiểu bài, dẫn đến tình trạng
chán học và không làm bài, rồi còn có thể không thích điều gì đó trên lớp (bạn bè xa lánh,
không chơi chung) khiến cho việc đến lớp là “cực hình”.
Để giúp cho đối tượng học sinh này đến lớp với tinh thần sảng khoái, phấn
khởi, vui tươi không chỉ do cá nhân học sinh đó phải cố gắng, không chỉ bằng sự động
viên, khích lệ của gia đình mà còn nhờ vào sự “khéo léo, tế nhị, lôi cuốn” của giáo viên
phụ trách lớp.
Trước lý do đó, tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề: Làm thế nào để tạo sự
hứng thú học tập cho học sinh yếu và trung bình, giúp các em đến lớp vì niềm yêu thích,
lòng tự tin và cao hơn nữa là giúp các em được phát triển toàn diện như bạn bè cùng lớp.
II. NỘI DUNG :
1) Một số đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học:
- Trẻ chỉ hứng thú với đặc điểm bên ngoài của quá trình học tập nên hứng thú
đó dễ mất đi .
- Tri giác trẻ thường gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn. Thị giác và
thời gian, không gian còn hạn chế. Hoạt động phân tích tổng hợp còn sơ đẳng. Trẻ
thường gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả .
- Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa
vào đặc điểm bên ngoài nên tình cảm còn mỏng manh, chưa bền vững, sâu sắc, rất dễ xúc
cảm, xúc động.
- Nét tính cách của trẻ mới hình thành nên chưa ổn định. Hành vi của trẻ mang
tính xung đột cao và ý chí còn thấp. Trẻ hồn nhiên và cả tin, thích bắt chước hành vi của
người xung quanh hay trên phim ảnh.
- Nhu cầu nhận thức của trẻ đã phát triển khá rõ rệt, từ nhu cầu tìm hiểu những
sự vật hiện tượng riêng lẻ đến nhu cầu phát hiện những nguyên nhân, quy luật và các mối
liên hệ, quan hệ.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN :
Ngoài đặc điểm tâm sinh lý như trên, học sinh có học lực trung bình, yếu còn
mang tâm trạng bất an, lo lắng, sợ sệt vì sức ép bài vở, thầy cô, bạn bè... Vì thế để giúp
những học sinh này đầy đủ tự tin khi bước chân tới trường, vào lớp, giáo viên phải:
a. Giúp học sinh nắm bài ngay tại lớp
b. Xây dựng môi trường thân thiện, giúp trẻ cảm thấy đến trường như đến
một thế giới tuyệt vời của trẻ em
c. Giáo dục trẻ bằng tình thương
1) Giúp trẻ em nắm bài ngay tại lớp :
- Đối tượng học sinh trung bình yếu thường là những học sinh tiếp thu kiến
thức chậm, lại mau quên, hoặc do về nhà các em dành ít thời gian cho việc học, ôn luyện
lại kiến thức đã học trên lớp. Do đó, giáo viên có thể cho học sinh nắm vững kiến thức
ngay trên lớp là tốt nhất. Để được như thế, giáo viên cần chú ý:
a) Giảng kĩ, phân tích rõ ràng ngọn ngành vấn đề, sử dụng tối đa đồ dùng
trực quan. Các em dễ tiếp thu qua tri giác và những đối tượng trực tiếp được trẻ quan sát.
Trực quan phải đẹp, sặc sỡ, hấp dẫn. Đối tượng này tiếp thu kiến thức theo kiểu “mưa
dầm , thấm lâu“, chính vì thế giáo viên phải kiên nhẫn, nhắc lại thường xuyên hơn .
Ví dụ : Đối với những bài toán giải bằng 2 phép tính đơn giản, học sinh khá
giỏi có thể tự phân tích và làm bài ngay không cần sự hướng dẫn của giáo viên. Nhưng
với những học sinh trung bình, yếu giáo viên luôn phải đi từng bước: tìm hiểu đề, tóm tắt,
phân tích đề, tổng hợp lại cách giải. Cá biệt đối với những em yếu quá, có thể phải đến
tận nơi “cầm tay chỉ việc” thì mới xong.
b) Cung cấp cho học sinh vài mẹo nhỏ để giúp giải quyết bài được dễ dàng
hơn
- Từ lớp 3 trở lên, học sinh được học và thực hiện các phép tính trên số có
nhiều chữ số. Đối tượng này cũng dễ dàng làm sai do bị rối mắt (thấy nhiều số quá, bắt
đầu hoảng, ẩu, làm cho xong). Vì thế, giáo viên giúp học sinh cách đặt tính và tính + , - ,
x , : mà không bị rối.
* Bước 1: Viết số phải rõ ràng, ngay ngắn (kể cả ở trong nháp)
* Bước 2: Dùng thước hoặc băng giấy nhỏ che những phần chưa tính tới.
* Bước 3: Thực hiện tính xong cột nào, mới dịch chuyển thước, băng giấy sang
cột bên cạnh.
* Bước 4: Tính xong phải nhẩm lại 1 lần (hoặc thử lại) cho chắc ăn
- Hướng dẫn cho học sinh làm một băng giấy nhỏ bằng bìa cứng màu trắng để
che cột.
Băng giấy kín Băng giấy hở
Lỗ trống
Cái khó khi sử dụng băng giấy này là học sinh phải viết rất thẳng hàng, các
chữ số phải rõ ràng, khoảng cách đều đặn.
- Mặt khác, đến học kỳ II, học sinh được học rất nhiều dạng toán có lời văn,
đặc biệt là dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Để giúp học sinh thực hiện tốt dạng
toán này điều tất nhiên là giáo viên cần cung cấp kiến thức đầy đủ, chính xác những tiết
đầu, giúp học sinh làm vững từng bước rồi mới xáo trộn các dạng với nhau.
* Bước 1: Đọc kĩ đề toán, gạch dưới những điều đã cho và hỏi .
* Bước 2: Tóm tắt bằng lời, có chừa khoảng cách để rút về đơn vị.
* Bước 3: Xác định dạng toán bằng kiểm tra tóm tắt:
Cách 1 : Nếu 2 đơn vị tính giống nhau, sử dụng phép tính : , x (VD1: cùng
tính số mét đường)
Nếu 2 đơn vị tính khác nhau, sử dụng phép tính : , : (VD2: Tìm
số kg gạo đựng trong 1 túi, sau đó tìm số túi đựng 20kg gạo)
Cách 2 : Xem xét 2 lời giải của bài toán
2 lời giải cùng tìm 1 đơn vị, sử dụng phép tính : , x (VD1)
2 lời giải tìm 2 đơn vị khác nhau, sử dụng phép tính : , : (VD2)
Trường hợp học sinh không biết rút về đơn vị nào thì giúp học sinh xác định
qua tóm tắt, cứ rút về đơn vị bên đại lượng có số liệu nhỏ hơn: