Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ái QUỐC đối VỚI SỰ RA đời CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.67 KB, 69 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN HỌC

ĐƯỜNG

LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tên đề tài:

VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

GVHD: Đào Thị Bích Hồng
Lớp: A06
Nhóm: 01

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2021


Trang 2 / 69


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
STT

Họ và tên

MSSV



1

Hà Thị Trâm Anh

1710458

2

Phạm Quốc Bảo

1811540

3

Lê Quốc Cường

1811649

4

Nguyễn Minh Châu

1610272

5

Hồ Tiến Doanh

1811684


Nhiệm vụ
Làm mục 1.1; 1.2 và
2.1, tổng hợp bài, trình
bày theo yêu cầu.
Làm mục 2.2
Làm mục 3.2 và Kết
luận
Làm mục 1.1 và 1.2
Làm mục 3.1 và Mở
đầu

Kết
quả
100%
100%
100%
70%
100%

THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN

NHÓM TRƯỞNG

Trang 1 / 69

Chữ ký


MỤC LỤC


MỤC LỤC....................................................................................................................4
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................7
I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp và sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc........7
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam......................................................................................7
1.2. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920).....10
II. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.............................41
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam............................................................................................................................. 41
2.2. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vơ sản..................................46
III. Chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị thành lập Đảng và soạn thảo Cương lĩnh
chính trị đầu tiên........................................................................................................54
3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên.....................54
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên........................................................................................................................ 63
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................70

Trang 2 / 69


PHẦN MỞ ĐẦU
Học thyết Marx – Lenin về Đảng Cộng Sản đã trải qua quá trình hình thành và phát
triển với thuộc tính cơ bản là tính cách mạng và tính khoa học, địi hỏi những người cộng
sản phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong thực tiễn. Lenin cũng đã nêu rõ: “Chúng ta
không thể coi lý luận của Marx như một cái gì đó đã xong xi và bất khả xâm phạm; trái
lại, chúng ta tin rằng lý luận đó đã đặt nền móng cho mơn khoa học mà những người chủ
nghĩa xã hội cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu

đối với cuộc sống”.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là một trong những người cộng sản như thế. Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Người đã quán triệt sâu sắc lời chỉ dẫn trên của Lenin và có
nhiều đặc điểm sáng tạo rất độc đáo. Trong chiến lược cách mạng của Người, quan điểm
xây dựng Đảng Cộng Sản ở một số nước thuộc địa để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc là quan điểm cực kỳ quan trọng. Quan điểm đó được hình thành từ khi Người
tiếp cận chủ nghĩa Marx – Lenin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta. Từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, từ người yêu nước trở
thành người quốc tế cộng sản, Người tự nguyện phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cộng sản.
Hoạt động trong phong trào quốc tế cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã
sớm nhận thức được nhiệm vụ đầu tiên tối quan trọng đối với cách mạng: sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản là yếu tố quyết định cho sự nghiệp thắng lợi của cách mạng. Vì thế, vấn đề
thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam được đặt ra, được Người thực hiện một cách khoa học
và sáng tạo. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam, với đặc điểm của nó đặt ra cho việc thành
lập Đảng dù về bản chất không khác so với việc thành lập Đảng cộng sản tại các quốc gia
khác, đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể tại Việt Nam – một quốc
gia thuộc địa, nửa phong kiến, đa số là nông dân, giai cấp cơng nhân có tuy nhiên chiếm số
lượng khơng lớn. Trên cơ sở của học thuyết Marx – Lenin, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành
xây dựng thành công Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Đảng do Người sáng lập là
sự kết hợp của chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước

Trang 3 / 69


tại Việt Nam. Đây là cống hiến quan trọng của Người về xây dựng Đảng kiểu mới ở một
nước thuộc địa vào kho tàng chung của lý luận Marx – Lenin.
Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng do Nguyễn Ái Quốc thành lập, cách
mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vẻ vang, lập kỳ tích vĩ đại trong thế kỷ XX.
Cũng chính từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta trở thành người duy nhất lãnh đạo dân
tộc Việt Nam. Hơn 30 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu

rất quan trọng. Hiện nay, tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ văn
minh, địi hỏi Đảng ta phải thường xuyên tự đổi mới, nâng cao năng lực. Vì vậy, nghiên cứu
làm rõ những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trên đường thành lập Đảng là việc làm cần
thiết, đưa tới sự ra đời nghiên cứu này của nhóm.
Đề tài này làm rõ bốn nhiệm vụ chính sau đây.
Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp và kết quả của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX.
Hai là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920)
Ba là, làm rõ sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về chính trị-tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam
Bốn là, làm rõ sự chủ động của Nguyễn Ái Quốc trong việc triệu tập, chủ trì Hội nghị
thành lập Đảng và soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Trang 4 / 69


PHẦN NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp và sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam
1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập
tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ
máy thống trị ở Việt Nam, làm thay đổi từ một nước phong kiến thành thuộc địa nửa phong
kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc

Kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính
sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế
và áp bức chính trị đối với nhân dân ta.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư vốn
khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã
tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới…)
nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm
trong vịng lạc hậu.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân; dung túng,
duy trì các hủ tục lạc hậu… Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở
Đông Dương: “chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị
hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tơi phải
sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”1.
1

Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 33-34.

Trang 5 / 69


1.1.2. Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân,
xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa ngày càng sâu sắc:
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa
thành 2 bộ phận: đại địa chủ và địa chủ vừa và nhỏ. Đại địa chủ gắn liền với Pháp, đi
ngược là quyền của dân tộc. Địa chủ vừa và nhỏ là bộ phận địa chủ có lịng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác
nhau.

Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của
giai cấp nơng dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai,
làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền
sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nơng dân, nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp
cơng nhân Việt Nam có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công
nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật là: “ra đời trước
giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin”1.
Giai cấp tư sản Việt Nam: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn
ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu ớt. Vì

1

Lê Duẩn (2008), Tuyển tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.551.

Trang 6 / 69


vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người
làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu
tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những người

vơ sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm thù đế quốc thực dân, lại chịu ảnh
hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh
thần cách mạng cao.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của 2
giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam
lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau đều bị thực
dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong
kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ
yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là:
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất xã
hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Trang 7 / 69


Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng:
Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân. Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là
ruộng đất cho nơng dân. Trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.2. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)
1.2.1. Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)
Cuối năm 1884, giữa lúc quân Pháp đang khốn đốn ở Bắc Kỳ, phe chủ chiến ở Huế,
đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp
kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số
quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên. Tôn Thất Thuyết huy động số quân cịn lại ở các
địa phương tập trung về Huế, bí mật tổ chức một cuộc phản cơng. Dị biết tình hình, ngày 27

tháng 6 năm 1885, De Courcy (tổng chỉ huy vừa được cử sang) đem 4 đại đội và 2 tàu chiến
từ Hải Phòng vào thẳng Huế nhằm loại trừ phe chủ chiến, dự định bắt cóc Tơn Thất Thuyết.
Ngày 2 tháng 7 năm 1885, De Courcy đến Thuận An rồi lên Huế, yêu cầu Hội đồng
phụ chính đến hội thương. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, gấp rút chấn chỉnh quân
sĩ, đào hào đắp lũy trong thành, bố trí hai đạo qn đặc biệt phịng thủ hồng thành, nhằm
giành thế chủ động trước khi De Courcy bày đặt việc triều yết vua Hàm Nghi để đột nhập
hoàng thành.
Đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, giữa lúc De Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia
sông Hương và bàn kế đột nhập kinh thành Huế thì Tơn Thất Thuyết bí mật chia quân làm
hai cánh. Cánh thứ nhất (do Tơn Thất Lệ chỉ huy) có nhiệm vụ tấn công sứ quán Pháp. Cánh
thứ hai (do Tôn Thất Thuyết đích thân chỉ huy) sẽ đánh úp tiêu diệt tồn bộ lính Pháp ở đồn
Mang Cá. Biết trước âm mưu của giặc nên mặc dù việc chuẩn bị chưa thật đầy đủ, Tôn Thất
Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm giành thế chủ động cho cuộc tấn công. Đúng 1 giờ sáng
ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong cảnh khuya vắng lặng của kinh thành Huế, bỗng có tiếng
súng thần công nổ rầm trời. Lệnh phát hỏa vừa dứt, đồn Mang Cá bốc cháy, quân ta đột
nhập đồn, lính Pháp rối loạn, vài sĩ quan bị thương, bị chết.
Trang 8 / 69


Đồng thời sứ quán Pháp bên kia sông Hương cũng bị tấn cơng, các trại lính địch bốc
cháy dữ dội. De Courcy đối phó cầm chừng, chờ sáng. Trại Mang Cá, lợi dụng quân
Nguyễn chuyển hướng tấn công sang sứ quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành
Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân chúng, vượt qua các ổ phục kích lọt được vào hồng
thành. Qn Pháp đã trắng trợn cướp bóc của cải và tàn sát vô cùng dã man nhiều người dân
vô tội trên đường tiến qn. Trong ngày hơm đó, hầu như nhà nào cũng có người bị giết.
Khơng chỉ hàng vạn người bị giết hại mà kinh thành Huế còn bị cướp đi phần lớn những tài
sản quý báu nhất. Quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển
đi, gồm 2,6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hồn
lại cho triều đình Huế. Cịn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hịm trong 5
ngày mới xong và chở về Pháp.

Sáng mùng 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đồn tùy tùng đời
kinh đơ Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, ngày 13 tháng 7 năm 1885,
Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở
Quảng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại
đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, Hà Tĩnh). Tại đây,
Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885. Hai tờ chiếu này
tập trung tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu,
văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước.
Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, thực tế đây là một phong trào đấu tranh
yêu nước chống Pháp xâm lược của Nhân dân Việt Nam. Trong thời kì này, hoàn toàn vắng
mặt sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần Vương không
phải là các võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu chống Pháp, mà là các sĩ phu văn
thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện
đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sự
biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7 năm 1885 và phát triển qua hai giai đoạn:
Giai đoạn I (1885-1888): Phong trào bùng nổ khắp cả nước
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã hưởng
ứng qua việc tập hợp các n ghĩa binh, xây dựng lên căn cứ. Họ cùng nhau đấu tranh mạnh
mẽ đầy quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên đại bàn rộng lớn thuộc Bắc và
Trang 9 / 69


Trung Bộ. Nhiều tướng lĩnh và văn thân tham gia như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn,
Phàm Bành, Mai Xuân Thưởng… Triều đình Hàm Nghi với sự phị tá trợ giúp của Tôn Thất
Đàm và Tôn Thất Nghiệp (vốn là hai người con của Tôn Thát Thuyết). Dưới sự đàn áp của
thực dân Pháp, vua Hàm Nghi đã rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau về Ấu
Sơn (Hà Tĩnh). Tháng 6 năm 1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh
toàn quyền P.Bert xuống dụ kêu hàng, nhưng khơng ai trong triều đình Hàm Nghi chịu đầu
hàng buông súng. Đặc điểm của phong trào Cần Vương trong giai đoạn này là các hoạt động
chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn lẻ tẻ riêng rẽ.

Ở Bắc Kì có nhiều cuộc khởi nghĩa được biết đến như Khởi nghĩa Cai Kinh ở Bắc
Giang, khởi nghĩa Đốc Tít ở Đơng Triều, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích, khởi nghĩa Tạ
Hiện ở Thái Bình và Nam Định, khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuận ở Hưng Yên và Hải
Dương, khởi nghĩa Đinh Công Tráng và Phạm Bành ở Thanh Hóa, khởi nghĩa của Phan
Đình Phùng và Lê Ninh ở Hương Khê-Hà Tĩnh… Tại khu vực Trung Kì, nổi bật là khởi
nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình, khởi nghĩa của Trần Quang Dự,
Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn Hàm ở Quảng Nam, khởi nghĩa của Lê Trung Đình ở Quảng
Ngãi, khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng ở Bình Định…. Cuối năm 1888, do sự phản bội của
Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri, giai đoạn thứ nhất của
khởi nghĩa Cần Vương kết thúc.
Giai đoạn II (1888-1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn
Giai đoạn này từ cuối năm 1888, mặc dù khơng có sự lãnh đạo từ triều đình nhưng
phong trào Cần Vương vẫn quy tụ nhiều văn thân sĩ phu yêu nước và phát triển thành nhiều
cuộc khởi nghĩa lớn, tiếp tục duy trì với tổ chức cao hơn. Một số cuộc khởi nghĩa lớn như
cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do
Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuận chỉ huy… Trong giai
đoạn này, xuất hiện nhiều khởi nghĩa lớn nhưng thực dân Pháp cũng tăng cường càn quét
mạnh. Do đó, để duy trì và phát triển hoạt động, các nghĩa quân phải chuyển địa bàn hoạt
động đến nhiều vùng khác, từ đồng bằng lên trung du và miền núi. Đặc điểm chung trong cả
hai giai đoạn của phong trào Cần Vương vẫn là hoạt đơng riêng rẽ, lẻ tẻ chưa có sự thống
nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Tính địa phương của các khởi nghĩa này dẫn đến sự thiếu
lãnh đạo và tính liên kết. Do đó, đây cũng là một trong các nguyên nhân khiến về sau chúng
Trang 10 / 69


lần lượt thất bại dưới sự đàn áp và càn quét của Pháp. Năm 1896, phong trào Cần Vương kết
thúc.
Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu
văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp:

Khởi nghĩa của Nguyễn Văn Giáp ở Sơn Tây và Tây Bắc (1883-1887)
Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu.
Khởi nghĩa Hương Khê (1885–1896) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê,
Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa của Nguyễn Xn Ơn ở Nghệ An.
Khởi nghĩa Ba Đình (1886–1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn,
Thanh Hóa.
Khởi nghĩa của Mai Xn Thưởng ở Bình Định.
Khởi nghĩa của Lê Thành Phương ở Phú Yên (1885–1887).
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886–1892) của Tống Duy Tân ở Bá Thước và Quảng Xương,
Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883–1892) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.
Phong trào kháng chiến ở Thái Bình – Nam Định của Tạ Hiện và Phạm Huy Quang.
Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.
Khởi nghĩa Thanh Sơn (1885–1892) của Đốc Ngữ (Nguyễn Đức Ngữ) ở Hịa Bình.
Khởi nghĩa của Trịnh Phong ở Khánh Hòa (1885–1886).
Khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tn ở Quảng Bình.
Khởi nghĩa của Hồng Đình Kinh ở vùng Lạng Sơn, Bắc Giang.
Khởi nghĩa của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân ở Quảng Ngãi.
Khởi nghĩa của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị.
Trang 11 / 69


Khởi Nghĩa của Cù Hoàng Địch ở Nghệ Tĩnh
Đêm ngày 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt trong lúc mọi
người đang ngủ say. Bắt được vua Hàm Nghi, thực dân Pháp ra sức dụ dỗ thuyết phục, mua
chuộc nhà vua trẻ cộng tác với chúng nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Không
mua chuộc được vua Hàm nghi thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại
Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi (châu Phi), các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn
tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị

tiêu diệt. Từ cuối năm 1895 đầu 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan
Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt.
Nguyên nhân thất bại
Tác giả Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua
nhà Nguyễn nêu các nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:
Tính chất địa phương: Sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự
kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối
thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất
thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy
mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.
Quan hệ với dân chúng: Các đạo quân này khơng được lịng dân q nhiều lắm bởi để
có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.
Mâu thuẫn với tôn giáo: Sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương
khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của
người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.
Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số
được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người
Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc
của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi,
họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.

Trang 12 / 69


Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức (tương tự như
"tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh), phong trào Cần Vương cịn có
những ngun nhân thất bại khác:
Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thơ sơ khơng thể
chống lại vũ khí hiện đại của Pháp.
Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa khơng đủ mạnh, chỉ có thể tấn cơng vào

những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực
lượng chính quy của địch.
Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết
vì nước, khơng ít thủ lĩnh qn khởi nghĩa nhanh chóng bng vũ khí đầu hàng khi tương
quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu
và tan rã.
Ngồi ra, vì triều đình phong kiến Việt Nam đã kí hàng loạt các hiệp ước với Pháp,
nên thực tiễn Việt Nam đặt ra yêu cầu là chống thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho dân
tộc. Sau đó là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là vấn
đề ruộng đất. Trong khi đó phong trào Cần Vương là khôi phục lại chế độ phong kiến, mà
thực tiễn đặt ra là cần xóa bỏ. Vì vậy phong trào này đã thất bại vì khơng thể đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn, dẫn đến thiếu khả năng tập hợp lực lượng và thể thành công.
Các phong trào đấu tranh của nông dân
Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song song với các cuộc đấu tranh Cần
Vương cịn có các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đổng bào miền núi. Theo bước
chân xâm lược của thực dân Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân ta nổ ra từ đồng
bằng, rồi lan dần lên trung du, miền núi như
Khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Thái Bình, Hải Dương (1821-1827)
Khởi nghĩa của Cao Bá Quát ở Ứng Hòa – Hà Tây (1854 – 1855).
Cuộc nổi dậy của binh lính do Lê Văn Khơi chỉ huy (1883 – 1835)
Và nhiều hơn 400 cuộc khởi nghĩa khác

Trang 13 / 69


Trong hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân cuối thế kỷ XIX, nổi bật nhất là phong trào
nông dân Yên Thế.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế - Bắc Giang (1884 – 1913),
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế khởi nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Trước khi thực dân
Pháp đặt chân đến vùng này, nơi đây đã là một vùng đất có một cư dân phức tạp, chủ yếu là

nông dân lưu tán các loại. Họ chọn nơi đây làm nơi cư trú và đã cơng khai chống lại triều
đình. Khi thực dân Pháp đến bình định vùng này, các tốn vũ trang ở đây có thể cũng chống
lại quân Pháp như đã từng chống lại triều đình nhà Nguyễn trước đó để bảo vệ miền đất tự
do của họ.Và vì Yên Thế là bình địa của Pháp khi chúng mở rộng chiếm đóng Bắc Kì nên
họ đã nổi dậy đấu tranh để bảo vệ cuộc sống của mình.
Nhiều học giả nhận định ba nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa: Do nhu cầu tự vệ
của nông dân lưu tán cư trú ở đây, nhằm giữ vững vùng đất này như là một vùng đất ngồi
pháp luật, khơng chịu sự kiểm sốt của bất kỳ chính quyền nào. Sự yêu nước và chống
ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế. Yên Thế là vùng đất phía Tây Bắc Giang, diện
tích rộng cây cối rậm rạp, cây cỏ um tùm từ đấy có thể đi thông sang Tam Đảo, Thái
Nguyên, Phúc Yên, Vĩnh Yên nên rất thích hợp với lối đánh du kích, dựa vào địa thế hiểm
trở và công sự dã chiến, đánh nhanh và rút nhanh lại rất thuận tiện khi bị truy đuổi. Chưa có
sự phối hợp và chỉ huy thống nhất. Lúc bấy giờ xuất hiện hàng chục toán nghĩa quân của Đề
Nắm, Bá Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề Thuật, Đề Chung... Mỗi thủ lĩnh cầm đầu một
toán quân và làm chủ một vùng. Theo Chapuis, tới cuối năm 1889, lực lượng của Đề Thám
gồm khoảng 500 quân được huấn luyện chu đáo. Đề Thám liên kết với lực lượng của Lương
Tam Kỳ, một chỉ huy quân Cờ đen, và thủ lĩnh người Thái Đèo Văn Trị. Ngoài căn cứ địa
Yên Thế, Đề Thám còn tổ chức đồn điền tại Phủ Lạng Thương, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc
Yên và Bắc Giang.
Giai đoạn thứ nhất (1884 - 1892)
Trong giai đoạn này, tuy phong trào chưa được thống nhất vào một mối, nhưng nghĩa
quân vẫn hoạt động có hiệu quả. Tháng 11-1890, nghĩa quân Đề Thám đã giành thắng lợi
trong trận chống càn ở Cao Thượng. Từ đầu đến cuối tháng 12-1890, ba lần quân Pháp tấn
công vào Hố Chuối, nhưng cả ba lần chúng đều bị nghĩa quân Đề Thám đánh bại. Đến cuối
Trang 14 / 69


năm 1891, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết vùng Yên Thế, mở rộng hoạt động sang cả
Phủ Lạng Thương.
Năm 1891, quân Pháp lại tấn công Hố Chuối, nghĩa quân Đề Thám phải rút lên Đồng

Hom. Tranh thủ thời cơ, chúng tiến nhanh vào vùng Nhã Nam, rồi vừa tổ chức các cuộc càn
quét, vừa xây dựng các đồn bốt để bao vây nghĩa quân.
Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, nghĩa quân đã lập một cụm cứ
điểm gồm 7 hệ thống cơng sự ở phía bắc Yên Thế do Đề Nắm, Đề Thám, Bá Phức, Đề Tâm,
Đề Tuất, Đề Chung, Tổng Tài chỉ huy. Lúc này, Đề Nắm là một trong những thủ lĩnh có uy
tín nhất của nghĩa quân Yên Thế.
Tháng 3 - 1892, Pháp huy động hơn 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công binh,
pháo binh...) do tướng Voarông (Voiron) chỉ huy ào ạt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Do
tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút khỏi
căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt. Khó khăn ngày càng nhiều, một số thủ lĩnh
ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị giết vào tháng 4 1892. Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ lĩnh
tối cao của nghĩa quân Yên Thế. Tuy gặp khó khăn, nhưng thế mạnh của qn n Thế là
thơng thuộc địa hình và cơ động, giúp họ thốt được vịng vây của qn Pháp.
Giai đoạn thứ hai (1893-1897)

Trong giai đoạn này, nghĩa quân đã hai lần đình chiến với Pháp, lần thứ nhất vào tháng
10-1894, lần thứ hai vào tháng 12-1897. Sau khi Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai
trò lãnh đạo phong trào n Thế. Ơng đã khơi phục những tốn qn cịn sót lại ở n Thế
và các vùng xung quanh, rồi tiếp tục hoạt động. So với giai đoạn trước, số lượng nghĩa quân
tuy có giảm, nhưng địa bàn hoạt động lại mở rộng hơn.
Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hố Chuối, đồng
thời mở rộng hoạt động ra các vùng thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang. Lúc này, các phong trào
Bãi Sậy, Ba Đình, cũng như các đội quân kháng chiến của Đốc Ngữ, Đề Kiều đều đã tan rã,
nên thực dân Pháp có điều kiện tập trung lực lượng đàn áp khởi nghĩa Yên Thế.

Trang 15 / 69


Ngày 17-9-1894, quân Yên Thế bắt cóc Chesnay , biên tập viên tờ Avenir du Tonkin.
Do phải chịu áp lực từ phía chính quyền thuộc địa và khó khăn trong việc dập tắt cuộc khởi

nghĩa, quân đội Pháp phải tiến hành hịa hỗn để nghĩa qn n Thế thả Chesnay. Về phía
nghĩa qn, tuy có giành được một số thắng lợi, nhưng lực lượng cũng suy yếu rõ rệt. Trong
tình hình đó, Đề Thám thấy cần phải hịa hỗn với Pháp để tranh thủ thời cơ củng cố lực
lượng. Tháng 10-1894, cuộc thương lượng giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp kết
thúc.Theo đó, phía Pháp trả 15.000 francs tiền chuộc, họ phải rút khỏi Yên Thế và để Đề
Thám kiểm soát 4 tổng Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng, với quyền thu thuế
trong 3 năm. Trong thời gian này, Đề Thám tới sống ở đồn Phồn Xương và cho cày cấy với
quy mơ lớn. Ơng cũng được Kỳ Đồng hỗ trợ, tuyển mộ người cho ông từ thành phần phu từ
một đồn điền của Pháp do Kỳ Đồng quản lý.
Năm 1895, Đề Thám tham gia tổ chức đánh Bắc Ninh, và từ chối trả lại những vũ khí
mà ơng chiếm được tại đây cho phía Pháp. Tới tháng 11-1895, thiếu tá Gallieni đưa một
pháo thuyền chở quân lên uy hiếp, buộc Đề Thám đầu hàng, nhưng nghĩa quân Đề Thám đã
chống đỡ quyết liệt. Để tránh những cuộc đụng độ lớn với quân Pháp, Đề Thám chủ trương
chia nghĩa quân thành những toán nhỏ phân tán hoạt động trong rừng và ở các làng mạc.
Nghĩa quân phải di chuyển hoạt động trong bốn tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên,
Phúc Yên.
Trước sự truy lùng và vây quét ráo riết của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày
càng suy yếu. Để bảo toàn lực lượng, Đề Thám lại xin giảng hòa với Pháp lấn thứ hai. Thực
dân Pháp lúc này cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa. Vì vậy,
tháng 12-1897, hiệp ước hịa hỗn giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Đề Thám đã được ký
kết với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ hơn, nghĩa quân phải nộp cho Pháp tất cả vũ khí
và phải bãi binh. Đề Thám bề ngoài tỏ ra là phục tùng, nhưng bên trong vẫn ngầm củng cố
lực lượng.
Giai đoạn thứ ba (1897 - 1908)
Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu.
Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa
vũ khí, ra sức luyện tập. Nhờ vậy, lực lượng nghĩa quân ở Phồn Xương tuy không đông
Trang 16 / 69



(khoảng 200 người), nhưng rất thiện chiến. Đồng thời, Đề Thám còn mở rộng quan hệ giao
tiếp với các nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kì.
Tại Yên Thế, nghĩa qn Hồng Hoa Thám đã hai lần đón tiếp nhà yêu nước Phan Bội
Châu. Giữa năm 1906, Châu Trinh cũng lên Yên Thế gặp Đề Thám. Đề Thám còn lập một
căn cứ gọi là đồn Tú Nghệ dành cho các nghĩa sĩ miền Trung ra huấn luyện quân sự. Về
phía Pháp, trong thời gian này chúng đã ráo riết lập đồn, bốt, mở đường giao thông... tạo
mọi điều kiện cần thiết để đánh đòn quyết định vào căn cứ nghĩa quân Yên Thế.
Giai đoạn thứ tư (1909 - 1913)
Năm 1908, Đề Thám tham gia cuộc nổi dậy của lính khố xanh tại Bắc Ninh, Nam
Định và Nhã Nam, khiến một sĩ quan Pháp bị giết. Tới 27-7 năm 1908, xảy ra vụ đầu độc
binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham gia của Đề Thám. Cuộc binh biến này được chuẩn bị rất
chu đáo, theo đó nghĩa quân sẽ bắn phá đồn binh Pháp tại Đồn Thủy (nay là Bệnh viện
Quân đội 108, Hà Nội) bằng đại bác nhằm vơ hiệu hóa đồn này. Các đồn binh tại Sơn Tây
và Bắc Ninh sẽ bị chặn đánh, không cho tiếp cứu Hà Nội. Quân Đề Thám chờ ngoài thành
Hà Nội, chờ tín hiệu từ trong thành, sẽ đánh Gia Lâm và cắt đường xe lửa và điện thoại. Tuy
nhiên cuộc binh biến thất bại, quân Đề Thám phải rút về, 24 người tham gia cuộc binh biến
bị Pháp xử tử, 70 người bị xử tù chung thân.
Nhân cơ hội này, thực dân Pháp chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt nghĩa quân.
Tháng 1-1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Batay (Bataille), khoảng 15.000 quân cả Pháp
và ngụy đã ào ạt tấn công vào Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ, vừa chuyển dần xuống
Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, rồi rút sang Tam Đảo, Thái Nguyên. Trên đường di chuyển,
nghĩa quân vẫn tổ chức đánh trả quyết liệt, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Điển hình
là trận chặn giặc ở đồn Hom, Yên Thế (ngày 30 tháng 1 năm 1909), trận núi Hàm Lợn ở
Tam Đảo, Phúc Yên (ngày 15 tháng 3 năm 1909).
Trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày
càng giảm sút. Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa vào tay giặc.
Từ 29-1 tới 11-11 năm 1909, quân Đề Thám thua 11 trận quan trọng, bị quân Pháp vây hãm
tại Yên Thế. Bà Ba Cẩn bị bắt, bị đày đi Guyana. Đến đây, phong trào coi như đã thất bại về
cơ bản. Ngày ngày 10 tháng 2 năm 1913, Đề Thám bị hai tên thủ hạ Lương Tam Kỳ giết hại
Trang 17 / 69



tại một khu rừng cách chợ Gồm 2 km, nộp đầu cho Pháp lấy thưởng. Sự kiện này đánh dấu
sự thất bại hoàn toàn của phong trào khởi nghĩa Yên Thế.
Nguyên nhân thất bại
Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hịa) khơng hợp với nhiều nghĩa qn (chủ
chiến). Nhiều nghĩa qn đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công cũng gây nên sự
rạn nứt trong nội bộ của nghĩa quân. Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lịng dân do đơi
khi nghĩa qn vẫn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng. Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để
giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chính quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nơng dân lưu tán
cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn hút được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó.
Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó. Ngồi ra cịn do
Pháp cấu kết với lực lượng phong kiến.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong
kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ
dân tộc ở Việt Nam.
Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu
ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu
lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành 2 xu hướng.
Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ
quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để
tiến tới khôi phục độc lập.
Phong trào Đông Du
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp bạo
động để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc.
Đầu năm 1904, sau khi từ Nam Kỳ về, ngày 8 tháng 4 năm Giáp Thìn (1904), Phan
Bội Châu cùng Kỳ Ngoại hầu Cường Để và hơn 20 đồng chí khác họp tại nhà riêng của
Nguyễn Hàm tại Nam Thịnh sơn trang (Thăng Bình, Quảng Nam) lập ra một tổ chức bí mật
có tên là Duy Tân hội. Kỳ Ngoại hầu Cường Để được mời làm Hội chủ để thu phục nhân

tâm tập hợp sĩ phu yêu nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều người trong nước.
Trang 18 / 69


Cịn Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân...
đều là những hội viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của hội.
Sau khi bàn bạc, hội nghị thành lập hội đã đề ra ba nhiệm trước mắt, đó là: Phát triển
thế lực hội về người cũng như về tài chính. Xúc tiến chuẩn bị bạo động và các công việc
khác sau khi khởi phát bạo động. Xác định phương châm ra nước ngoài cầu viện, và cách
thức tiến hành.Hai khoản trên giao cho tồn thể hội viên đảm đương, cịn khoản thứ ba thì
ủy thác cho Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín rồi thực hiện. Và theo Nguyễn Hàm,
thì nước Tàu hiện nay quốc thể đã suy hèn, cứu mình khơng xong thì cứu được ai. Duy nước
Nhật Bản là một nước tân tiến ở trong nòi giống da vàng mới đánh được Nga, dã tâm đang
hăng lắm. Tới đó, đem hết lợi hại tỏ với nó, tất nó ứng viện cho ta. Nếu nó khơng xuất binh
nữa mà mướn tư lương mua khí giới, tất có thể dễ lắm... Sau đó, việc sang Nhật Bản cầu
viện đã được đơng đảo hội viên tán thành
Nhưng thời điểm này chưa thích hợp để Nhật có thể giúp đỡ về quân sự, được một số
lời khuyên Phan Bội Châu đưa Cường Để sang Nhật, viết sách báo để tranh thủ sự đồng tình
của dư luận thế giới, đồng thời cổ động thanh niên sang Nhật học tập để chờ đợi thời cơ.
Sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho hội, Phan Bội Châu đã chuyển hướng từ
"cầu viện" sang "cầu học". Tháng 6 năm Ất Tỵ (1906), Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính
mang một số sách "Việt Nam vong quốc sử" bí mật về nước.
Phan Bội Châu cùng các thành viên nòng cốt trong hội Duy Tân, sau khi bàn bạc đã đề
xướng việc lập các hội nông, cơng, thương, để vừa tập hợp đồn kết lực lượng, vừa lấy đó
làm cơ sở kêu gọi thanh niên xuất dương và là cơ quan tài chính giúp đỡ phong trào Đông
Du.
Song song với các hoạt động trên, các thành viên của phong trào còn sáng tác nhiều
thơ ca yêu nước như: "Hải ngoại huyết thư", "Việt Nam Quốc sử khảo", "Tân Việt Nam",
"Sùng bái giai nhân" (Phan Bội Châu), "Viễn hải quy hồng" (Nguyễn Thượng Hiền), "Kính
cáo tồn quốc" (Cường Để), v.v...gửi về nước tuyên truyền cổ động nhân dân hưởng ứng

phong trào. Vì vậy, sau khi phát động, phong trào Đông Du đã được đông đảo người dân ở
cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ.

Trang 19 / 69


Ở Nam Kỳ, phong trào Đông Du đã nhận được sự giúp đỡ rất tích cực của tri phủ Trần
Chánh Chiếu. Ông này đã lập ra khách sạn Nam Trung để làm nơi gặp gỡ của nhưng người
yêu nước, lập Minh Tân công nghệ xã, để vừa chấn hưng công-thương-nghiệp, vừa để có
tiền ủng hộ phong trào Đơng Du. Ngồi ra, với vai trị là chủ bút tờ Nơng cổ mín đàm và
Lục tỉnh tân văn, ơng cịn cho đăng báo những bài có tư tưởng chống Pháp. Nhiều nhân sĩ
khác ở đây cũng tích cực tham gia và hết lòng lo cho sự nghiệp chung như Đặng Thúc
Liêng, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương, Bùi Chí Nhuận, Đặng Minh Chương…
Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học Trường Quân sự Tokyo (Đông
Kinh Chấn Võ Học Hiệu) cùng với Lương Ngọc Quyến. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học
sinh sang Nhật du học lên tới khoảng 200 người, hầu hết đều vào học tại trường Đông Á
Đồng Văn thư viện - một trường của Nhật tại tô giới của Nhật ở Thượng Hải (Trung Quốc),
sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội...
Để tăng cường quản lý học sinh, giữa năm 1907, Phan Bội Châu tổ chức Việt Nam
Cống hiến hội (gọi tắt là Cống hiến hội), cử Cường Để làm Hội trưởng và ông (Phan Bội
Châu) làm Tổng lý kiêm Giám đốc trực tiếp chỉ đạo tổ chức này.
Lúc bấy giờ, các cuộc vận động duy tân ở trong nước của các tổ chức Duy Tân hội,
phong trào Duy Tân (phát động năm 1906) và Đông Kinh nghĩa thục (thành lập tháng 3 năm
1907) đã tạo nên một khơng khí cách mạng về dân trí rất sơi nổi.Phong trào Đông Du cũng
đã và đang lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam; và việc học tập của lưu học sinh ở Nhật cũng đã
ổn định và đang phát triển thuận lợi.
Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế
Trung Kỳ nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam, rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân
Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt,
trong số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội.

Đang khi ấy ở Nam Kỳ, Trần Chánh Chiếu (một trong số người tích cực ủng hộ Phong
trào Đông Du ở Nam Kỳ) lại cho đăng những bài có tư tưởng chống Pháp. Vì thiếu chứng
cớ, chính quyền thực dân không thể kết án ông, nhưng kể từ đó nhiều người cùng hoạt động
với ơng, họ bí mật khủng bố.

Trang 20 / 69


Thêm một cái cớ nữa để thực dân ra sức đàn áp, đó là vào tháng 3 năm 1908, các phụ
huynh của du học sinh ở Nam Kỳ lại gửi thư công khai theo đường bưu điện cho Phan Bội
Châu nhắn là cử người về nhận tiền quyên góp. Hay tin, thực dân Pháp bèn bố trí người và
bắt được Hoàng Quang Thành và Đặng Bỉnh Thành cùng với mọi giấy tờ, khi tàu vừa cặp
bến Sài Gòn. Lập tức, các phụ huynh bị buộc phải gọi các con em đang du học tại Nhật về,
các hội bn có díu líu đến phong trào bị khám xét và những người có liên quan đều bị bắt
bớ...
Tháng 5 năm đó, Hà Thành xảy ra đầu độc khiến chính quyền thực dân càng ra sức
đàn áp các phong trào, tổ chức cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, để làm tan rã phong trào
Đơng Du, Pháp cịn ký với Nhật hiệp ước vào tháng 9 năm 1908. Theo đó, Pháp cho Nhật
vào Việt Nam mua bán; đổi lại Nhật sẽ không cho các nhà cách mạng và lưu học sinh Việt
Nam ở Nhật nữa. Sau khi cử cảnh sát đến trường Đông Á đồng văn thư viện để giải tán tất
cả các học sinh người Việt, tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục
xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và Duy Tân hội đã dày cơng xây
dựng hồn tồn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.
Nguyên nhân thất bại
Thứ nhất, ngay từ đầu ông đã sai lầm về mặt tư tưởng. Việc xác định kháng Pháp bằng
cách dựa vào Nhật của ơng là điểm sai trọng yếu. Vì bản chất đế quốc mà Nhật sẽ bất chấp
tất cả, bất chấp cả thứ tinh thần châu Á mà ông tin Nhật sẽ tôn trọng. Rốt cuộc, cái mà đế
quốc Nhật muốn lúc đó là vấn đề bành trướng lãnh thổ hơn là tình bang giao với các nước
lân bang. Kết quả là, để có viện phí chi trả trong cuộc chiến Nga Nhật, Nhật đã phải vay từ
Pháp và chấp nhận yêu cầu tôn trọng các nước thuộc địa của Pháp mà Pháp đưa ra. Từ đó,

họ tiến hành trục xuất các thanh niên trong phong trào Đông Du về nước, khơng chấp nhận
thỉnh cầu giúp đỡ từ phía Phan Bội Châu. Những điều này đã được các chí sĩ đương thời
như Lương Khải Siêu, Phan Châu Trinh nhìn thấu, nhưng Phan Bội Châu lại bị ánh hào
quang của chiến thắng 1905 của Nhật Bản làm lu mờ.
Sai lầm thứ hai trong con đường cứu nước của Phan Bội Châu đó là việc chủ trương
cứu nước bằng con đường bạo động. Tình cảnh bấy giờ ở nước ta sau cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào chỗ mê muội, nghèo nàn, dốt nát. Nếu như chỉ
độc một con đường bạo động vũ trang mà hy vọng có thể cứu nước là hồn tồn sai lầm.
Trang 21 / 69


Bởi chính việc thu phục nhân tâm, cơng cuộc “khai dân trí”, chấn hưng đất nước mà Phan
Châu Trinh từng nói đến mới là điều cần làm trước. Chỉ khi nào tập hợp được một lực lượng
to lớn là toàn thể nhân dân, trên dưới đồng lịng thì lúc đó, làm cách mạng bằng con đường
bạo động vũ trang mới nên tiến hành. Còn nếu chỉ bạo động xảy ra lẻ tẻ ở một vài nơi, với
sự ít ỏi về số lượng sẽ nhanh chóng bị dập tắt. Mà tiêu biểu là sự đàn áp của thực dân Pháp
lên những người làm hoạt động ám sát trong hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội.
Sai lầm thứ ba của Phan Bội Châu đó là việc chủ trương cứu nước bằng con đường
dân chủ tư sản từ đó thiết lập nền cộng hịa. Vì thời điểm đó, cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân pháp đã dần tạo ra sự chuyển biến giai cấp. Đông đảo trong xã hội bấy giờ là giai
cấp nông dân và công nhân. Trong khi cuộc cách mạng này lại đem lại quyền lợi cho giai
cấp tư sản. Về cơ bản, nó chỉ tiếp tục thay thế sự bóc lột từ giai cấp phong kiến qua giai cấp
tư sản. Tinh thần dân chủ là điểm tiến bộ lớn nhất trong con đường này.
Con đường cứu nước của Phan Bội Châu rốt cuộc thất bại là vì những lý do cơ bản
trên. Điểm tiến bộ là ông đã nhìn ra sự lạc hậu và bảo thủ của chế độ phong kiến, việc cần
thiết phải có một chế độ mới mà ở đó quyền của nhân dân được đảm bảo. Ông cũng để lại
cho thế hệ đi sau bài học kinh nghiệm để cứu nước theo một con đường khác phù hợp hơn.
Con đường cách mạng vô sản mà người dẫn đầu khơng ai khác chính là Nguyễn Ái Quốc.
Phong trào Duy Tân
Đại diện cho xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải cách

văn hóa, xã hội; động viên lịng u nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến
thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn hưng khí, hậu dân
sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu ngoại viện.
Sau khi phong trào Cần vương và phong trào Văn thân thất bại, nhiều cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số đó,
theo đường lối duy tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng phong trào Đông Du
(1905-1909) do Phan Bội Châu đề xướng và Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát
động tại miền Trung Việt Nam. Tinh thần duy tân được coi như bắt đầu từ những bản điều
trần của Phạm Phú Thứ (1821-1882), Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Nguyễn Lộ Trạch
(1852-1895) với văn bản "Thiên hạ đại thế luận" (1892). Để cứu nước, Phan Bội Châu chủ
Trang 22 / 69


trương dựa theo mơ hình Nhật Bản để xây dựng lực lượng. Vì vậy, ơng đã lập ra Hội Duy
Tân (1904) với mục đích là lập ra một nước Việt Nam độc lập. Trong quá trình hoạt động
của hội, năm 1905, Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du. Khoảng thời gian ấy,
sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh từ quan (1904), rồi làm cuộc Nam du,
Bắc du với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Sau đó, ông bí mật
sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật
Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét
cơng cuộc duy tân của xứ sở này[5]. Ông hoan nghênh việc Phan Bội Châu đưa thanh niên
ra nước ngoài học tập, phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục trong nước, nhưng ông phản
đối chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp bạo động vũ trang và việc mưu cầu ngoại
viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà, phải đi theo con đường dân chủ và cải cách
xã hội, bằng việc nâng cao dân trí và dân quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác.
Phong trào Duy Tân cịn được gọi là Minh xã (Hội ngồi ánh sáng), vì hoạt động cơng
khai, theo đường lối dân chủ, chủ trương "ỷ Pháp tự cường" (dựa vào Pháp để giàu mạnh).
Còn Duy Tân hội do Phan Bội Châu sáng lập cịn được gọi là Ám xã (Hội trong bóng tối),
vì hoạt động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "bài Pháp giành độc lập". Tuy
nhiên, hai khuynh hướng này song song tồn tại và không đối lập nhau một cách tuyệt đối,

mà là đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và phần lớn trí thức nho học ủng
hộ cả hai phong trào.
Năm 1906, Phan Châu Trinh ra Bắc, liên lạc với Lương Văn Can và các thân sĩ Bắc
Hà để lập cơ sở Duy tân ở Bắc (sau đó gần một năm, trường Đơng Kinh Nghĩa Thục được
thành lập). Ơng cũng tìm gặp Đề Thám, sang Quảng Châu gặp Phan Bội Châu rồi cùng sang
Nhật quan sát tình hình chính trị và dân trí nước Nhật, khi bàn luận và biết là khơng cùng
chí hướng với Phan Bội Châu, ông về nước, xúc tiến con đường Duy Tân.
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức thư
chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm
quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để
giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh. Liền theo đó, với phương châm "tự lực
khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp

Trang 23 / 69


×