Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

dangthaimai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.08 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đặng Thai Mai (1902-1984), còn được biết đến dưới tên gọi Đặng Thái Mai và những bút </b>
danh Thanh Tuyền, Thanh Bình. Ơng là giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn
học Việt Nam; và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học
Việt Nam.


<b>Mục lục</b>
[ẩn]
 1 Tiểu sử


 2 Tác phẩm
 3 Gia đình
 4 Chú thích
 5 Liên kết ngoài


<b>Ti</b>

<b>ể</b>

<b>u s</b>

<b>ử</b>

<b>[sửa | sửa mã nguồn]</b>



<b>Đặng Thai Mai sinh ngày 25 tháng 12 năm 1902 tại làng Lương Điền (nay là Thanh </b>
Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học. Cha ơng là Đặng
Nguyên Cẩn, đỗ phó bảng, tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, bị thực dân Pháp bắt, đày đi Cơn Đảo. Ơng là
hậu duệ của Tể tướng Đặng Dung, thuộc chi Tiến sĩ Đặng công Thiếp. [1]


Sau khi cha bị bắt, ông về sống tại quê nội từ năm 6 tuổi, và được bà nội ni dưỡng, giáo
dục lịng u nước, học chữ Hán và chữ Quốc ngữ theo chương trình Đơng Kinh nghĩa thục.
Năm 1925, khi đang theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương - Hà Nội, ông
tham gia phong trào đòi "ân xá" Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đồng thời gia
nhập đảng Tân Việt.


Năm 1928, ông trở thành giáo sư Trường Quốc học Huế. Năm 1929, khi đảng Tân Việt tan
vỡ, ông bị xử một năm tù treo, sau đó lại trở về dạy học ở Huế. Ông lại bị bắt năm 1930 và
bị xử 3 năm vì tham gia phong trào Cứu tế đỏ. Sau khi ra tù, Đặng Thai Mai ra Hà Nội sống


và dạy học tại trường tư Gia Long (1932).


Đến năm 1935, Đặng Thai Mai cùng với các bạn là Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Võ
Nguyên Giáp... lập ra Trường tư thục Thăng Long. Năm 1936, ông cùng Nguyễn Văn Tố,
Vương Kiêm Toàn, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... thành lập ra Hội truyền bá chữ Quốc
ngữ.


Ơng bắt đầu hoạt động văn hóa thời kì Mặt trận Dân chủ (1936-1939), viết báo và sáng tác
một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương các chiến sĩ cách mạng buổi đầu (<i>Cô câm </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Năm 1939, ông ứng cử Viện dân biểu Trung Kỳ. Năm 1944, ông cho ra đời tác phẩm <i>Văn </i>


<i>học khái luận</i> - cuốn sách đầu tiên trình bày có hệ thống nhiều vấn đề lí luận văn học theo


quan điểm tiến bộ, như điển hình và cá tính, nội dung và hình thức, truyền thống và hiện đại.
Đặng Thai Mai cũng là người có cơng giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc qua các cơng
trình Lỗ Tấn (1944), <i>Tạp văn Trung Quốc</i> (1944), các bản dịch kịch <i>Lôi Vũ</i>, <i>Nhật </i>


<i>xuất</i> của Tào Ngu, <i>Lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại</i>, tập 1 (viết năm 1958).


Sau Cách mạng tháng Tám, ông giảng dạy ở bậc đại học và nghiên cứu phê bình văn học.
Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I, Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong Chính phủ liên
hiệp kháng chiến thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1946 [1]. Cũng trong năm này, ông gia nhập


Đảng Cộng sản Đông Dương.


Trong các giai đoạn về sau, ông lần lượt giữ các chức vụ về văn hoá và giáo dục như Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa, Hội trưởng Hội văn hóa Việt Nam,
Giám đốc Trường dự bị đại học và Sư phạm cao cấp Liên khu IV, Giám đốc trường Đại học


Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt
Nam. Ông cũng cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như <i>Văn thơ cách mạng Việt Nam </i>
<i>đầu thế kỷ 20 (1960), Trên đường học tập và nghiên cứu</i> (tập 1, 1959, tập 2, 1965 và tập 3,
1973).


Đặng Thai Mai có vốn nho học uyên thâm và am hiểu văn học cổ điển Pháp, văn học hiện
đại Trung Quốc, văn học cận đại Việt Nam. Đặng Thai Mai là nhà lí luận phê bình sắc sảo.
Năm 1982, ơng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 1996, ông lại
được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) về các cơng trình nghiên cứu văn
học Việt Nam và văn học thế giới.[2]


Đặng Thai Mai mất ngày 25 tháng 9 năm 1984. Nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Mai
Dịch


<b>Tác ph</b>

<b>ẩ</b>

<b>m</b>

<b>[sửa | sửa mã nguồn]</b>


 Văn học khái luận (1944)


 Lỗ Tấn (1944)


 Tạp văn trong văn học Trung Quốc ngày nay (1945)
 Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ văn hóa Phục Hưng (1949)
 Giảng văn Chinh Phụ Ngâm (1950)


 Lược sử văn học hiện đại Trung Quốc (1958)
 Văn thơ Phan Bội Châu (1958)


 Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1961)


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 Đặng Thai Mai - tác phẩm, tập 1 (1978), tập 2 (1984)
 Hồi ký (1985)



<b>Gia đình</b>

<b>[sửa | sửa mã nguồn]</b>



Đặng Thai Mai lập gia đình với bà Hồ Thị Toan. Hai ơng bà có 5 con gái và 1 con trai, trong
đó 3 con rể là tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam


 Con gái đầu là PGS.TS Đặng Bích Hà, vợ của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
 PGS.TS Đặng Thị Hạnh, vợ của Trung tướng Phạm Hồng Cư ngun Cục trưởng


Cục Văn hố, Tổng cục Chính trị, Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm chính trị Qn khu 2.
 PGS. TS Đặng Anh Đào, vợ của cố Trung tướng Phạm Hồng Sơn, Cục phó Cục


Quân huấn, Bộ Tổng tham mưu, Phó Viện trưởng Học viện Quân sự.


 GS. Đặng Thanh Lê, từng là giảng viên khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, vợ của
nhà nghiên cứu Italia học GS Nguyễn Văn Hoàn.


 Con gái út là PGS. TS Đặng Xuyến Như, công tác tại Viện Ứng dụng Công nghệ.
 Con trai ông là PGS.TS.KTS.Đặng Thái Hoàng, giảng viên trường Đại học Xây


</div>

<!--links-->

de-toan-12-lan-1-2020-dangthaimai-thanh-hoa-mathvn.com-
  • 6
  • 5
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×