Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Tài liệu Đề tài “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.83 KB, 76 trang )







LUẬN VĂN



Đề tài “Giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế ”
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu, một nước không
thể phát triển nếu không tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng trước tình
hình đó, nền kinh tế Việt Nam đang có cơ hội đầu tư, phát triển. Nhưng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài những cơ hội còn rất nhiều những thách
thức, do quy mô vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh thấp, có nguy cơ bị
phá sản trước các doanh nghiệp lớn và trước các đối thủ nặng ký từ nước
ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò rất
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm góp phần lớn vào GDP của
cả nước. Với vai trò rất lớn, nhưng lại đứng trước nhiều khó khăn, em không
khỏi băn khoăn về khả năng tồn tại và phát triển của nó. Đó là lý do em
chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ”
để làm đề án của mình.


Để giải quyết đề tài này em xin trình bày những nội dung sau:
- Chương I: Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
- Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở việt nam hiện nay
- Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp
Trong phạm vi của đề án môn học, em xin trình bày một cách ngắn
gọn ý kiến của mình, hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.



§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
2

CHƯƠNG I :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
I. HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI:
1. Sự cần thiết của hội nhập:
1.1. Khái niệm hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào
các tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu, trong đó các thành viên quan hệ
với nhau theo những quy định chung.
1.2. Xu thế thế giới:
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh
tế thế giới đã chịu sự tác động sâu sắc của một loạt những xu thế mới. Đó là
xu thế phát triển cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế hoá, toàn cầu

hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp
cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Thương mại quốc tế phát
triển mạnh mẽ và ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong việc tăng
trưởng kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của thế giới đã
tăng từ 50 tỷ USD trong đầu những năm 50 lên hơn 5500 tỷ USD năm 1999;
tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới tăng bình quân từ 1,2 đến 1,5 lần so với
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư đang trở thành trục đỡ cho sự tăng trưởng
kinh tế của thế giới với tỷ lệ tăng trưởng đầu tư bình quân hàng năm cao hơn
tỷ lệ tăng trưởng của hảng thương mại.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng được nâng cao, ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới; tầm hoạt động mới của các
công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hoá nền
kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng.
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
3
Ngày nay, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế
lớn phản ánh đòi hỏi, bức xúc của các quốc gia, dân tộc vì sự phát triển kinh
tế giữa các nước. Thế giới đang xây dựng nền kinh tế với những chính sách
hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó chú trọng đến hiệu quả và tăng
sức cạnh tranh cho các nền kinh tế.
Khi toàn cầu hoá đang trở thành xu thế khách quan thì yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hoá kinh tế là
một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ
phát triển cao của nền sản xuất, phân công lao động quốc tế và việc quốc tế
hoá sản xuất trở nên phổ biến. Đặc điểm quan trọng của toàn cầu hoá là nền
kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó nền kinh tế
của các quốc gia chỉ là các bộ phận có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển
với nhiều hình thức phong phú. Bất kỳ một quốc gia nào khi tham gia vào
kinh tế quốc tế đều có thể thu được lợi ích nếu quốc gia đó biết tập trung vào

sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương quan thuận lợi
hơn về mặt chi phí so với các quốc gia khác. Do vậy, chỉ những quốc gia
nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức mới có thể
đứng vững và phát triển. Quốc gia nào không thực hiện hội nhập tức là đã tự
loại mình ra khỏi lề của sự phát triển. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc
tế đã trở thành một tất yếu khách quan.
1.3. Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đã được kiểm
nghiệm qua thực tế, thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam trước đây yếu kém, chậm
phát triển. Sau đó tư tưởng đươc khai thông, Nhà nước đã đề ra nhiều chính
sách kinh tế mới phù hợp với tiến trình lịch sử, đã góp phần lớn vào sự phát
triển kinh tế của đất nước. Bắt đầu từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và
Nhà nước chủ chương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Từ đó đến nay nền kinh
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
4
tế Việt Nam ngày càng năng động hơn. Nhiều đơn vị kinh doanh có hiệu
quả, nhiều ngành nghề đạt và vượt mức kế hoạch đặt ra. Lĩnh vực có thành
tích ấn tượng nhất là ngoại thương, với kim ngạch xuất khẩu tăng 10% năm
2002 gần gấp đôi năm 2001. Đã có 20 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch
xuất khẩu trên100 triệu USD/ năm. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng
may mặc sang thị trường Mỹ đạt 900 triệu USD, xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,
03 tỷ USD. Hội nhập đã làm tăng sự năng động trong bản thân người sản
xuất, do đó, trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có nhiều triển vọng, nhiều lĩnh
vực mới được chú trọng đầu tư như nuôi thuỷ sản, năng suất lúa liên tục
tăng.
Nước ta ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế, điều đó là hết sức cần
thiết và phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, giúp chúng ta hạn chế
đước những yếy kém như đã kể trên. Như vậy, có thể nói nền kinh tế nước

ta phát triển vượt bậc gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế.
2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập thị trường thế giới:
Với một nước có nền kinh tế thấp kém như Việt Nam thì hội nhập
quốc tế đem lại rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức.
2.1. Cơ hội:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, Việt Nam đẩy
nhanh quá trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối
với sự phát triển của quá trình tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất
lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này
trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách
phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá,
tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện
quốc tế để tranh thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
5
sống nhân dân. Việt nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú
nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú không chỉ tạo ta điều kiện cho việc phát triển các ngành khai thác
chế biến mà còn thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn, Việt nam có thể xác lập cơ cấu ngành
kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu trị
trường thế giới.
Thứ ba: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền
kinh tế trí tuệ, khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không
thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao
động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị mới và sử dụng chúng
trong quá trình phát triển kinh tế.

Trên thực tiễn nhièu công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong
những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả
năng tiếp thu công nghệ mới của Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty
Nhật Bản khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia
ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số các quốc gia (10 quốc gia) lớn
hơn Lào, Campuchia và Myanma
1
.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta
khai thông giao lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động
qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động
kỹ thuật công nghệ mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn
lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và
qúa trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động
Việt Nam.

1
Nguồn:Thời báo kinh tế, năm 2001
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
6
Thứ tư: Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất
quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua Việt Nam đã thu được kết
quả rất đáng tự hào. Sau gần hai thập kỷ tăng trưởng GDP đã tăng lên gấp 2
lần, từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước có mức xuất khẩu gạo
lớn. Năm 2002 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 3,5 triệu tấn, năm 2001-3,55
triệu tấn, năm 2002-3,25 triệu tấn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 2 trên thế giới

2
.

Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân
dân được cải thiện. Thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân
vào sự nghiệp đổi mới.
Thứ năm: mặc dù kinh tế Việt Nam chưa phát triển nhưng không
phải hội nhập với hai bàn tay trắng, ngoài tài nguyên thiên nhiên nguồn lực
cùng với sự ổn đinh về chính trị xã hội, Việt Nam cũng có kinh nghiệm nhất
định sau hơn 17 năm đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. Nhận
thức một cách đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp
cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển
hơn bên cạnh các thuận lợi chung cho mọi thành phần kinh tế.
2.2 Thách thức:
Bên cạnh những thuận lợi kể trên nền kinh tế Việt Nam còn nhiều
thách thức trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực
dồi dào nhưng nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ
thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở

2
Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê năm 2002
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
7
chỗ năng lực tiếp cận khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi thế của
nước đi sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao
cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành “bãi rác”
của các công nghệ lạc hậu. Với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và

nhỏ (DNVVN) thì khả năng nhập các công nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ hai, sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp
còn quá thấp do đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát
triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọ
chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp lực cạnh
tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo
AFTA, WTO có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước
ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này
khiến cho hàng hoá của các DNVVN bị cạnh tranh gay gắt.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp
còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ nị
tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh
nghiệm của các nước ngoài và quốc tế ngày càng tăng.
Thứ tư, hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là
một thứ quyền lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động
tiêu cức trực tiếp đến an ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối
loạn và làm lợi cho các thế lực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do
hoá thông tin, truyền thông như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai
thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây thiệt hại sảy ra.
Thư năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc
gia có tiềm lực mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm
hãm thậm chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi định hướng, mục
đích phát triển.
II. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
8
1. Khái niệm:
Không có một khái niệm chung nào thống nhất trên thị trường quốc
tế về những gì cấu thành nên một doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các

khái niệm và sự phân loại thay đổi từ nước này sang nước khác. Quy mô của
doanh nghiệp thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu bao gồm quy mô của
tài sản, số người lao động, cơ cấu sở hữu, nguồn và loại hình tài chợ, lĩnh
vực doanh nghiệp hoạt động. Đối với Việt Nam theo nghị định số
90/2001/ND- CP ngày 23/11/2001 thì DNVVN được định nghĩa như sau:
DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh theo pháp luật hiện hành có vốn đăng
ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người.
Đối với một số lĩnh vực có quy định cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu thức vốn và lao động.
Quy mô doanh nghiệp Vốn tối đa (đồng) Số người lao động tối đa
Lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ

1 tỷ
500

100
Lĩnh vực sản xuất nông
lâm nghiệp và hải sản
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ

1 tỷ
1000

200
Lĩnh vực thương mại và
dịch vụ

Trong đó DN nhỏ:
5 tỷ

500 triệu
250

50
Nguồn: Những nội dung cơ bản về quản trị DNVVN, tháng
1/2002.
Theo cách chung nhất, phân loại doanh nghiệp phụ thuộc vào số
người lao động hoặc số vốn kinh doanh. Tuy nhiên còn cách phân loại khác
được sử dụng trong các tài liệu phát triển đó là theo lĩnh vực chính quy và
phi chính quy. Theo hướng này thì “phi chính quy” ám chỉ các doanh nghiệp
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
9
nhỏ, một thành viên, thường làm việc bán thời gian hay theo thời vụ mà
thông thường chúng không có tài sản cố định và có thể hoạt động tại gia
đình. Thêm vào đó các doanh nghiệp thường hoạt động dưới dạng không
đăng ký chính thức và ngoài vòng kiểm soát của Chính phủ về mặt thuế và
quản lý. Thuật ngữ doanh nghiệp nhỏ thường được sử dụng để nói đến thu
nhập nhỏ phát sinh từ các hoạt động thuộc loại này. Khu vực doanh nghiệp
“chính quy” thường được sử dụng để kể đến các loại hình và quy mô doanh
nghiệp sử dụng một số lượng lao động lớn hơn, không điều hành hoạt động
từ gia đình. Loại doanh nghiệp này phải chịu chi phối bởi pháp luật và có
khả năng tiếp cận dễ dàng đến các thể chế tài chính và dự án phát triển. Khái
niệm thường được sử dụng cho doanh nghiệp chính quy là: “DNVVN là đơn
vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân nhằm thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, cung ứng, trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
để tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó để tối đa hóa lợi

nhuận của chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp”
3
.
2. Đặc trưng cơ bản của DNVVN:
- Hình thức sở hữu: Có đủ các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập
thể, tư nhân và hỗn hợp.
- Về hình thức pháp lý: Các DNVVN được hình thành theo Luật
doanh nghiệp và những văn bản dưới luật. Đây là những những công cụ
pháp lý xác định tư cách pháp nhân rất quan trọng để điều chỉnh hành vi của
các doanh nghiệp nói chung trong đó có DNVVN, đồng thời xác định rõ vai
trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Lĩnh vực và địa bàn hoạt động: DNVVN chủ yếu phát triển ở
ngành dịch vụ, thương mại (buôn bán). Lĩnh vực sản xuất chế biến và giao
thông còn ít (tập trung ở ba ngành: Xây dựng, công nghiệp, nông lâm

3
PGS.TS.Đồng Xuân Ninh: Những vấn đề quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ, trường ĐH KTQD
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
10
nghiệp, thương mại dịch vụ), địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ
và đô thị.
- Công nghệ và thị trường: Các DNVVN chủ yếu có năng lực tài
chính rất thấp, có công nghệ, thiết bị lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động thủ
công. Sản phẩm của các DNVVN chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất
lượng sản phẩm kém; mẫu mã bao bì còn đơn giản, sức cạnh tranh yếu. Tuy
nhiên có một số DNVVN hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông lâm, hải
sản có sản phẩm xuất khẩu với giá trị kinh tế cao.
- Trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động còn thấp
và yếu. Hầu hết các DNVVN hoạt động độc lập, việc liên doanh, liên kết

còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn.
3. Vai trò của DNVVN:
Mặc dù có những yếu kém và bất lợi nhất định nhưng do đặc điểm,
tính chất của chúng nên các DNVVN có vị trí, vai trò và tác động kinh tế xã
hội rất lớn.
Thứ nhất, các DNVVN có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm
đa số về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
và ngày càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, số lượng DNVVN chiếm
khoảng 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các
DNVVN lớn hơn tốc độ ra tăng số lượng các doanh nghiệp lớn. Ở nước ta
hiện nay DNVVN chiếm 65,9% so với tổng số doanh nghiệp Nhà nước và
chiếm 33,6% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
Thứ hai, các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng
của nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập
quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50%
GDP mỗi nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu và quản lý
trung ương, DNVVN đóng góp 24- 25% GDP của cả nước, 31% giá trị sản
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
11
xuất công nghiệp; chiếm 78% mức bán lẻ của ngành thương nghiệp, 64%
khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá. Trong nhiều ngành sản
xuất và dịch vụ khác các DNVVN cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Thứ ba, tác động kinh tế- xã hội lớn nhất của DNVVN là giải quyết
một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho người lao động, thì khu vực này vươn xa hơn hẳn các
khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Ở hầu hết
các nước, DNVVN lại thu hút nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao
động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam, cũng theo đánh

giá của viện nghiên cứu và quản lý trung ương, số lượng lao động của các
DNVVN trong các lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người,
chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng
22,5% lực lượng lao động của cả nước.
Thứ tư, các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ
chế thị trường. Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo
trong kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo,
hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân.
Hầu hết các DNVVN dựa vào vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít với 7%
DNVVN có vay không trả lãi và trên 2% vay từ ngân hàng. Do tính chất nhỏ
lẻ, dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách, yêu cầu vốn ban đầu không nhiều
cho nên các DNVVN có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các
nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất
kinh doanh.
Thứ sáu, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển địch cơ cấu kinh tế,
đặc biệt với khu vực nông thôn.Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn
sẽ thu hút người lao động ở nông thôn thiếu hoặc chưa có việc làm vào hoạt
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
12
động sản xuất, kinh doanh, rút dần lực lượng lao động ở nông thôn chuyển
sang làm công nghiệp và dịch vụ.
Thứ bẩy, các DNVVN là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là
nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp, giúp họ làm quen với môi
trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều
hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà kinh doanh sẽ
trưởng thành, có kinh nghiệm quản lý, biết đưa doanh nghiệp của mình
nhanh tróng phát triển.
III. CẠNH TRANH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:

1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh:
1.1. Khái niệm:
Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học
giả trường phái tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các
hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường
một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần
xứng đáng so với khả năng của mình”.
Qua thời gian và không gian các quan niệm về cạnh tranh cuãng
khác nhau. Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh
được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị
trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một
loại khách hàng về phía mình”.
Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh ” một số nhà khoa học cho
rằng cạnh tranh là vấn đề dành lợi thế về giá cả hàng hoá- dịch vụ và đó là
phương thức để dành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi
là dành lợi thế để hạ thấp các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh
doanh và nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy,
trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
13
một cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh
doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng
đều ở các doanh nghiệp. Và từ đó cạnh tranh còn là môi trường phát triển
mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện thị
trường
4
.
1.2. Phân loại cạnh tranh:

Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, tuy nhiên, một số cách
phân loại cơ bản đó là:
- Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia thành hai loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ. Trong đó, các
doanh nghiệp yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá
sản, các doanh nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Cạnh tranh trong nội bộ ngành
là cuộc cạnh tranh tất yếu xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là
lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác
nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành
tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu
được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn tới sự hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân.
- Xét theo mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị
trường mà ở đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm
chất, quy cách, chủng loại, mẫu mã. Giá cả sản phẩm là do cung- cầu trên thị

4
Nguyễn Quốc Dũng: “ Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam “_ Luận án tiến sĩ
kinh tế, 2000, Hà Nội
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
14
trường quyết định. Các doanh nghiệp được tự do ra nhập, rút lui khỏi thị
trường. Do đó, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham
gia kinh doanh muốn thu được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm
chi phí đầu vào, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù

hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn
hảo là loại thị trường phổ biến nhất hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về
một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị
trường này kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Sự khác
biệt giữa những loại hàng hoá, dịch vụ này ở nhãn hiệu. Có những loại hàng
hoá, dịch vụ chất lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại
căn cứ vào uy tín, nhãn hiệu sản phẩm. Các hình thức của cạnh tranh không
hoàn hảo đó là độc quyền, độc quyền tập đoàn, cạnh tranh mang tính độc
quyền.
2. Sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng
lực cạnh tranh:
2.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh:
- Sức cạnh tranh: Nhìn chung khi xác định sức cạnh tranh của
doanh nghiệp phải xem xét đến năng lực và tiềm năng sản xuất, kinh doanh.
Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh khi các sản phẩm thay thế
hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn sản phẩm
cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất
lượng và dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Theo diễn đàm cao cấp về cạnh
tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho
rằng: “ Cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu
vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế ”. Khái niệm này được coi là phù hợp nhất vì nó được sử dụng
kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành, quốc gia, phản ánh được mối liên hệ
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
15
giữa cạnh tranh quốc gia với cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm,
tăng thu nhập và mức sống nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh, khả năng dành được thị phần lớn trước các

đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay
toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001,
NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, trang 349).
2.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: Năng
lực cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, của sản phẩm hàng hoá. Chúng có mối tương quan mật thiết với
nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế
khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều
thấp. Vì vậy trước khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, em
xin được đề cập sơ lược đến năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản
phẩm. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh
hưởng của năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm tương tự như
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia:
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “ năng cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và
các đặc trưng kinh tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây
dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu
quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Ở Việt
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
16
Nam năng lực cạnh tranh cấp quốc gia còn thấp đứng thứ 65 trên 80 nước
(năm 2002), tăng 5 bậc so với năm 2001 (là 60/75 nước).
2.2.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá:
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó

đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu
dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với
những sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó
thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. đó là hai phạm trù khác nhau
nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có
được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá
quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng
lực cạnh tranh của hàng hoá có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
3. Vai trò của cạnh tranh:
Cạnh tranh có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và của bản thân mỗi DNVVN nói riêng. Bất kỳ
một nền kinh tế nào cũng cần thiết phải duy trì sự cạnh tranh. Đứng ở góc độ
lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống
độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những sản
phẩm có chất lượng tốt, giá cả rẻ. Chính vì vậy cạnh tranh là để bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ là điều
kiện thuân lợi để mỗi doanh nghiệp tự khẳng định vị trí của mình trên thị
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
17
trường, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên dành ưu thế so với các đối thủ
cạnh tranh khác.
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cuộc cạnh tranh

khốc liệt nhất nhằm dành dật người mua, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, tạo
ưu thế về mọi mặt cho doanh nghiệp nhằm thu được lợi nhuộn lớn nhất.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung ứng những
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần để đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng và phong phú của khách hàng. Cạnh tranh thực chất là cuộc
chạy đua không có đích, là quá trình mà các doanh nghiệp đưa ra các biện
pháp kinh tế đích thực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thương trường và
tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra ưu thế về sản phẩm và giá bán thì phải tăng
chất lượng sản phẩm và giá bán phải rẻ. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp, nhất
là DNVVN phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuậtvào sản xuất
kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bên cạnh đó
phải tố ưu hóa các yếu tố đầu vào của sản xuất để tối đa hoá thành quả của
sản phẩm. Trong cơ chế thị trường doanh nghiệp nào cung cấp hàng hoá,
dịch vụ với chất lượng tốt nhất mà giá thành rẻ nhất thì sẽ chiến thắng.
Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp chi phí cao trong sản
xuất kinh doanh và khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có chi
phí thấp vươn lên.
Để tham gia vào thị trường doanh nghiệp phải tuân thủ quy luật đào
thải chon lọc. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao chất
lượng của chính mình, nâng cao trình độ kiến thức về kinh doanh. Do đó,
cạnh tranh là điều kiện rất tốt để đào tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Cạnh tranh là động lực cơ bản nhằm kết hợp một cách tối ưu nhất
lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã
hội. Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh được
coi là cá lớn nuốt cá bé, do đó không được khuyến khích. Song hiện nay,
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
18
cạnh tranh đã được nhìn nhận theo xu hướng tích cực, tác dụng của nó được
thể hiện rất rõ ở sự phá sản của một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu

quả và sự phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp khác biết sử dụng hiệu
quả các yếu tố của quá trình sản xuất, kinh doanh.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực phát triển của hệ thống doanh
nghiệp nói chung và của từng DNVVN nói riêng, là công cụ hữu hiệu của
Nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh doanh trên thị trường.
4. Các chiến lược cạnh tranh cơ bản:
Đôi khi một doanh nghiệp có thể theo đuổi rất nhiều chiến lược và
coi tất cả các chiến lược đó là mục tiêu cơ bản của mình, mặc dù điều này
rất hiếm có khả năng thực hiện. Vì việc thực hiện bất cứ một chiến lược nào
cũng đều đòi hỏi tâm huyết của toàn doanh nghiệp và những sắp xếp, tổ
chức hướng vào thực hiện nó rất dễ bị phân tán nếu doanh nghiệp cùng một
lúc theo đuổi nhiều mục tiêu. Các chiến lược cạnh tranh cơ bản mà doanh
nghiệp có thể theo đuổi là:
- Chiến lược nhấn mạnh chi phí:
Chiến lược nhấn mạnh chi phí yêu cầu việc xây dựng mạnh mẽ các
điều kiện vật chất, kết hợp được giữa quy mô và tính hiệu quả, theo đuổi
việc giảm chi phí từ kinh nghiệm. Kiểm soát chặt chẽ chi phí trực tiếp và chi
phí gián tiếp, tối thiểu hoá các chi phí về nghiên cứu và phát triển, chi phí
bán hàng, chi phí quảng cáo…
Việc đạt được mức chi phí thấp thường đòi hỏi phải có thị phần
tương đối cao hoặc những lợi thế khác. Điều đó cũng đòi hỏi việc thiết kế
sản phẩm phải thuận tiện cho việc sản xuất, duy trì nhiều loại sản phẩm có
liên quan để trải đều chi phí và phục vụ được tất cả các nhóm khách hàng cơ
bản. Thực hiện chi phí thấp thường đòi hỏi việc đầu tư vốn ban đầu lớn. Thị
phần cao, đến lượt nó, có thể tạo ra tính kinh tế cao trong quá trình mua
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
19
nguyên vật liệu,… làm giảm chi phí hơn nữa. Vị trí chi phí khi đã đạt được
sẽ cho phép làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và như vậy có thể tái đầu tư vào những

phương tiện mới, máy móc hiện đại để duy trì lợi thế về chi phí.
Chiến lược nhấn mạnh chi phí đôi khi có thể làm thay đổi lớn một
ngành nơi mà nền móng lịch sử của cạnh tranh có kiểu khác và các hãng
cạnh tranh chưa chuẩn bị tốt về mặt nhận thức và kinh tế để thực hiện những
bước cần thiết cho việc tối thiểu hoá chi phí.
- Chiến lược khác biệt hoá:
Chiến lược này làm khác biệt hoá sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp tạo ra điểm độc đáo riêng được thừa nhận trong tòan ngành. Các
phương pháp khác biệt hoá sản phẩm được thể hiện dưới nhiều hình thức:
Sự điển hình về thiết kế hoặc danh tiếng sản phẩm, công nghệ sản xuất, đặt
tính của các sản phẩm, dịch vụ khách hàng… Tuy nhiên, chiến lược này
không cho phép doanh nghiệp bỏ qua yếu tố chi phí, mặc dù chi phí không
phải là mục tiêu chiến lược cơ bản.
Khác biệt hoá sản phẩm, nếu đạt được, sẽ là chiến lược tạo khả năng
cho doanh nghiệp thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn mức bình quân bởi vì nó
tạo nên một vị trí chắc chắn cho doanh nghiệp trong việc đối phó với các lực
lượng cạnh tranh khác. Khác biệt hoá tạo nên sự tin tưởng của khách hàng
vào nhãn hiệu, dẽ dẫn đến khả năng ít biến động hơn về giá cả. Nó làm tăng
tỷ lệ lợi nhuận vì thế tránh được sự cần thiết phải tạo ra mức chi phí thấp.
Dễ dàng giảm bớt quyền lực của người mua vì họ thiếu những điều kiện để
so sánh. Sự khác biệt hoá sản phẩm sẽ thuận lợi hơn khi phải đương đầu với
sản phẩm thay thế.
Thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm đôi khi có thể loại trừ
khả năng đạt được thị phần cao vì tính riêng biệt không đi liền với thị phần
cao. Tuy nhiên thực hiện chiến lược này nhiều khi đã thực hiện sự đánh đổi
về chi phí nếu chiến lược này yêu cầu những hoạt động đòi hỏi chi phí cao.
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
20
- Chiến lược trọng tâm hoá:

Chiến lược trọng tâm hoá là sự tập trung vào một nhóm người cụ thể,
một bộ phận trong các loại hàng hoá hoặc một vùng thị trường nào đó. Chiến
lược này khác hai chiến lược trên ở chỗ nó được xây dựng xoay quanh việc
phục vụ thật tốt một thị trường mục tiêu và những chính sách kèm theo đều
được phát triển theo tư tưởng này. Chiến lược dựa vào tiền đề cho rằng doanh
nghiệp có thể phục vụ một thị trường chiến lược hẹp của mình một cách tích
cực và hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh. Kết quả là doanh nghiệp có thể đạt
được sự khác biệt hoá qua việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu của một đối tượng cụ
thể hoặc đạt được mức chi phí thấp hơn hoặc đạt được cả hai.
5. Các yếu tố ảnh hưởng :
Đã có nhiều nghiên cứu, trong đó nghiên cứu của M.E Porter là một
điển hình rất rõ nét, về vai trò tác động của các yếu tố cấu trúc quyết định
cường độ cạnh tranh trên thị trường. Theo M.E Porter thì có 5 yếu tố tham
gia quyết định cường độ cạnh tranh, đó là:
5.1. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành:
Trớc hết các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành quyết định tính
chất và mức độ tranh đua nhằm giành giật lợi thế trong ngành mà mục đích
cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo có thể có được
mức lợi nhuận cao nhất. Sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại có xu hướng
làm tăng cường độ cạnh tranh và làm giảm mức lợi nhuận của ngành. Có
nhiều hình thức và công cụ cạnh tranh được các đối thủ sử dụng khi cạnh
tranh trên thị trờng, ví dụ như cạnh tranh về giá hoặc cạnh tranh về chất lư-
ợng sản phẩm. Trên thực tế, các đối thủ khi cạnh tranh với nhau thường sử
dụng công cụ cạnh tranh tổng hợp, trên cơ sở cạnh tranh về giá với các hình
thức và công cụ cạnh tranh khác như : chất lượng sản phẩm cùng với áp
dụng sự khác biệt về sản phẩm, marketing…
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
21
Thờng thì cạnh tranh trở nên khốc liệt khi ngành ở giai đoạn bão

hoà, hoặc suy thoái, hoặc có đông các đối thủ cạnh tranh bằng vai phải lứa
với các chiến lược kinh doanh đa dạng và do những rào cản kinh tế làm cho
các doanh nghiệp khó tự do di chuyển sang ngành khác. Để có thể bảo vệ
khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp cần phải thu thập đủ thông
tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh chính có sức mạnh trên thị trường và
tình trạng ngành để làm cơ sở hoạch định chiến lược.
5.2. Nguy cơ đe doạ nhập ngành từ các đối thủ tiềm ẩn :
Hiểu biết đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn luôn có ý nghĩa quan trọng đối
với các doanh nghiệp vì sự xuất hiện của các đối thủ mới, đặc biệt khi các
đối thủ này có khả năng mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị phần, sẽ làm
cạnh tranh trở nên khốc liệt và không ổn định. Để hạn chế sự đe doạ các đối
thủ tiềm ẩn, các doanh nghiệp thờng duy trì và không ngừng nâng cao các
hàng rào bảo vệ hợp pháp, đặc biệt là về công nghệ. Trong quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay, các công ty xuyên quốc gia hoặc
các công ty nớc ngoài có tiềm lực tài chính và công nghệ đáng kể thực sự là
đối thủ “nặng ký” đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nước là những
doanh nghiệp có tiềm lực rất hạn chế và sức cạnh tranh thấp.
5.3. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người
mua:
Đối với các doanh nghiệp thì mọi việc chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ đ-
ược sản phẩm và có lãi. Chính vì vậy, sự tín nhiệm của khách hàng luôn là
tài sản có giá trị quan trọng của doanh nghiệp và doanh nghiệp có được là
do doanh nghiệp biết cách thoả mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của
khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh khác. Người mua luôn muốn trả
giá thấp vì vậy sẽ thực hiện việc ép giá, gây áp lực đòi chất lượng cao hơn
hoặc đòi đợc phục vụ nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện, điều
này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp . Để hạn chế bớt quyền thương lư-
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
22

ợng của người mua, các doanh nghiệp cần phải phân loại khách hàng hiện
tại và tương lai cùng với các nhu cầu và thị hiếu của họ làm cơ sở định h-
ướng cho kế hoạch marketing và chiến lược kinh doanh nói chung.
5.4. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người cung ứng:
Người cung ứng các yếu tố đầu vào luôn muốn thu nhiều lợi nhuận,
vì vậy họ có thể đe dọa tăng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm đặt mua,
nhằm làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp khi họ có điều kiện, ví dụ trong
trường hợp người cung ứng có lợi thế về nguồn nguyên vật liệu hoặc sản
phẩm của người cung ứng là vật tư đâù vào quan trọng của khách hàng.
Trong thực tế, các doanh nghiệp luôn phải ứng phó một cách thờng xuyên
đến nguồn cung ứng ngay trong nội bộ doanh nghiệp, có thể đó là lực lượng
lao động, đặc biệt với những lao động có trình độ cao vì khả năng thu hút và
giữ được các nhân viên có năng lực là một tiền đề quan trọng đảm bảo sự
thành công của doanh nghiệp .
5.5. Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế:
Các sản phẩm thay thế luôn có thể có tác động lớn đến mức độ lợi
nhuận tiềm năng của ngành, nhất là những sản phẩm có chu kỳ sống ngắn
như máy tính, đồ điện tử…Vì phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của
quá trình thay đổi công nghệ, nên thường có ưu thế về chất lượng và giá
thành sản phẩm, mặc dù giá thành ban đầu có thể cao hơn so với các sản
phẩm hiện có bán trên thị trường. Biện pháp chủ yếu sử dụng để hạn chế sự
tác động của sản phẩm thay thế là tăng cường đầu tư cho R&Doanh nghiệp,
đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý… nhằm giảm giá thành và
nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tăng cường tính độc đáo khác biệt của
sản phẩm.
CHƯƠNG II :
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
23
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH

NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT TÌNH HÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM:
1. Môi trường cạnh tranh quốc tế của Việt Nam:
Môi trưòng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam không ngừng được mở
rộng, với các hình thức hợp tác kinh tế với các nước khác, tham gia vào các
tổ chức phi Chính phủ. Năm 1995 tham gia hợp tác Á-ÂU (ASEM) với tư
cách là thành viên sáng lập, năm 1999 là thành viên chính thức của APEC,
Việt Nam đã cam kết gia nhập WTO năm 2005, gia nhập ASEAN/AFTA
năm 2006; có quan hệ kinh tế với trên 160 quốc gia và lãnh thổ trên thế
giới… Nhiều tổ chức nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
với nhiều hình thức: cho vay vốn, hỗ trợ về khoa học công nghệ… Hàng hoá
Việt Nam chất lượng được nâng cao, có khả năng và có cơ hội chiếm lĩnh
được nhiều thị trường mới.
Bên cạnh sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, Việt Nam cũng phải cam
kết thực hiện các điều khoản của các hiệp định. Thực hiện cắt giảm thuế
quan đối với các sản phẩm xuống còn 0.5% theo chương trình ưu đãi thuế
quan hiệu lực chung (AFTA), tuyên bố các danh mục hàng hoá cắt giảm
thuế ngay (IL), danh mục hàng hoá loại trừ hoàn toàn (GEL), danh mục loại
trừ tạm thời (TEL). Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra một bộ các
luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp nhằm mục tiêu đưa ra một môi trường
kinh doanh, cạnh tranh quốc tế ngày càng tự do, thuận lợi, bình đẳng giữa
các quốc gia thành viên, nhưng hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang
chịu thiệt thòi khi thâm nhập thị trường các nước thành viên của WTO vì ta
chưa phải là thành viên của WTO. APEC yêu cầu tuân thủ 9 nguyên tắc cơ
bản và thực hiện 4 chương trình hoạt động chủ yếu: kế hoạch hành động
quốc gia (IAP), kế hoạch hành động tập thể (CAP), hợp tác kinh tế kỹ thuật
(ECOTECH), các sáng kiến hợp tác mới…
§Ò ¸n m«n häc
SV: Ph¹m ThÞ BÝch Ngäc Líp QLKT 42A
24

Kinh tế Việt Nam hiện nay ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào nền
kinh tế thế giới được đo bằng “độ phụ thuộc mậu dịch đối ngoại”. Độ phụ
thuộc mậu dịch đối ngoại của nước ta năm 1995 khoảng 65%, năm 2000
tăng lên 100%. Độ phụ thuộc xuất khẩu tương ứng tăng từ 26% lên 48% và
chỉ số nhập khẩu từ 39% lên 52%.
Tuy nhiên thị trường quốc tế của Việt Nam cần được nhìn nhận lại,
mối quan hệ chủ yếu là các nước châu Á.
Bảng 2: xếp hạng khả năng cạnh tranh tổng thể của các nước
Đông Nam Á.
Nước
1998
(53 nước)
1999
(53 nước)
2000
(59 nước)
2001
(59 nước)
Singapo 1 1 1 2
Hồng Kông 2 2 2 8
Đài Loan 8 6 4 11
Malasyia 9 17 16 25
Inđônêsa 15 31 37 44
Thái Lan 18 21 30 31
Hàn Quốc 21 19 22 29
Trung Quốc 29 28 32 41
Philipin 34 33 33 37
Việt Nam 49 39 48 53
Nguồn: Đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) các năm tương ứng.
2. Môi trường kinh doanh, cạnh tranh trong nước :

Nhìn chung, môi trường kinh doanh cạnh tranh trong nước đã được
cải thiện, môi trường cạnh tranh trong nước đã dần hình thành qua hơn 10

×